phát triển.</strong></em>
Gần hai thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Châu Mỹ La Tinh giành
được độc lập từ Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng không
một nước nào tại đây thực sự phát triển. Sai lầm nằm ở
đâu? Tại sao nhiều nước ở các khu vực khác, từng thua kém
rất xa, lại có cách đạt được tương đối nhanh chóng những
thành quả mà các nước Châu Mỹ La Tinh bao lâu nay vẫn chỉ
dám mơ ước?
Nhiều người tại đây trả lời câu hỏi này bằng cách đổ
lỗi cho âm mưu phá hoại, hoặc bằng những biện minh dễ dãi
với chính mình. Họ trách đế quốc Tây Ban Nha trong quá khứ
đã vơ vét bao nhiêu của cải từ đây, hoặc họ trách đế
quốc Mỹ đã và vẫn đang bóc lột họ đến cạn kiệt. Họ
bảo rằng các định chế tài chính quốc tế đã âm mưu kềm
hãm sự phát triển của vùng đất này, rằng toàn cầu hóa
được thiết kế để cố ý giam hãm nó trong tăm tối. Tóm
lại, họ đổ lỗi cho các thế lực bên ngoài đã khiến Châu
Mỹ La Tinh chậm phát triển, <span class="underlined-text">nhưng
không hề đổ lỗi cho bản thân mình</span>.
Sự thật là thời gian từ ngày giành được độc lập đến
nay đã quá đủ lâu để Châu Mỹ La Tinh không còn có quyền
đổ lỗi cho bên ngoài về những thất bại của mình nữa.
Đúng là có nhiều thế lực bên ngoài ảnh hưởng tới số
phận của vùng đất này, nhưng các khu vực khác trên thế
giới cũng thế thôi. Các nước Châu Mỹ La Tinh không phải là
nơi duy nhất vướng vào những trận đấu không cân sức trong
lịch sử. Châu Mỹ La Tinh đã bắt đầu cuộc tranh đua này
với những điều kiện ngang bằng, thậm chí còn tốt hơn ở
nơi khác. Và họ – chúng ta – là những người bị bỏ lại
đàng sau.
Khi Đại Học Harvard mở cửa vào năm 1636 thì đã có các đại
học bề thế ở Argentina, Bolivia, Chile, Colombia, Cộng Hòa
Dominican, Ecuador, Mexico, và Peru. Năm 1820, tổng sản lượng nội
địa GDP toàn Châu Mỹ La Tinh lớn hơn GDP của Mỹ tới 12,5
phần trăm. Nhưng hiện nay, với dân số 560 triệu dân – hơn
dân số Mỹ tới 250 triệu người – khu vực này chỉ có GDP
bằng 29 phần trăm so với anh láng giềng phía bắc. Châu Mỹ La
Tinh giành được độc lập 150 năm trước các nước như Nam
Hàn và Singapore, nhưng, bất kể quá khứ bị thực dân bóc lột
và đất nước thiếu những tài nguyên quan trọng, thu nhập
bình quân đầu người ở các nước này hiện cao hơn ở Châu
Mỹ La tinh gấp mấy lần.
Sự né tránh không dám đối diện vói những so sánh khác biệt
rõ ràng như vừa kể của Châu Mỹ La Tinh tạo ra hố sâu ngăn
cách giữa ngôn từ và thực tế. Chán nản với những tuyên
bố sáo rỗng, những hứa hẹn vô nghĩa, dân chúng tại đây
đã đánh mất niềm tin vào chính trị nói chung. Tuy nhiên, việc
nhận thức phần trách nhiệm của chính mình trước tình trạng
hiện nay có lẽ sẽ là bước đầu để viết lại lịch sử.
Chìa khóa nằm ở chỗ chấp nhận rằng bốn đặc tính văn hóa
bản địa sau đây đang là chướng ngại vật trên đường phát
triển: Tâm lý ngại thay đổi, sự thiếu lòng tin, các quy phạm
dân chủ non yếu, và khuynh hướng quân phiệt.
<h2>NHÌN LẠI QUÁ KHỨ</h2>
Châu Mỹ La Tinh thần thánh hóa quá khứ liên tục đến mức
gần như không thể lên tiếng kêu gọi thay đổi. Thay vì cổ
xúy văn-hóa-cải-tiến, họ lại thúc đẩy
văn-hóa-bảo-tồn-hiện-trạng. Họ không thích những cải cách
tiệm tiến, kiên nhẫn, vốn là loại cải cách đặc trưng của
một thể chế dân chủ ổn định, mà chấp nhận những gì
hiện có, trong khi lại trông chờ nổ ra những cuộc cách mạng
hoành tráng có thể làm dân giàu nước mạnh chỉ sau một cuộc
nổi dậy.
Thái độ như vậy có thể hiểu được nếu là thái độ của
người Canada hay Na Uy, những nước đã đạt mức độ đáng ao
ước trên nấc thang phát triển con người. Nhưng Guatemala hoặc
Nicaragua có gì trong quá khứ để họ tự hào quá mức đến
thế? Trong những trường hợp này, tính bảo thủ xuất phát
từ ước muốn bảo tồn hiện trạng một phần, nhưng phần
lớn là từ toan tính bảo vệ đặc quyền đặc lợi và từ
nỗi sợ hãi những gì mình chưa biết. Người dân Châu Mỹ La
Tinh thà cắn răng chịu đựng ngay cả đớn đau khổ ải, chấp
nhận một hiện tại ổn định đang có, hơn là phải đương
đầu với một tương lai bất định. Tâm lý này cũng tự
nhiên, thậm chí rất người. Nhưng sự sợ hãi không chỉ
khiến chúng ta hoang mang lo lắng, mà còn làm chúng ta tê liệt.
Tình hình còn tệ hơn vì các lãnh tụ chính trị tại đây
hiếm khi có sự kiên nhẫn hoặc tài năng để thận trọng đưa
dân chúng đi trên con đường cải cách. Trong một nền dân
chủ, người lãnh đạo có thể ví như một giáo viên chủ
nhiệm, luôn sốt sắng giải đáp các nghi ngờ, thắc mắc, và
giảng giải về sự cần thiết của một đường lối mới, và
tại sao nó sẽ mang lại lợi ích. Ngược lại, ở Châu Mỹ La
Tinh, các lãnh tụ có thói quen giải thích chỉ bằng một câu
"bới vì ý tôi là thế!"
Điều này trùng khớp với toan tính bảo vệ đặc quyền đặc
lợi, một hiện tượng rõ mồn một không chỉ trong giới giàu
có và nhiều quyền lực, mà còn trong toàn xã hội. Các nghiệp
đoàn giáo viên tự quyết định giáo viên sẽ làm việc bao
nhiêu là đủ và họ cần dạy học sinh những gì. Điều tương
tự cũng xảy ra trong giới chủ doanh nghiệp và các nhà thầu
trong khu vực tư nhân, họ quen cung cấp những dịch vụ chất
lượng thấp trong mấy chục năm qua mà không sợ ai cạnh tranh,
nhờ vào việc buôn quan bán chức và các đổi chác trái phép.
Giới công chức cũng bất động tương tự: các cơ quan nhà
nước tưởng thưởng cho những ai không làm gì hết, ngoài
việc ngồi yên tại bàn giấy và nói không.
Thái độ này mang lại nhiều hậu quả, nhất là cho tinh thần
khai phá của nhà doanh nghiệp. Châu Mỹ La Tinh có số thanh tra
nhiều gấp bội số người-khai-phá-kinh-doanh. Vùng đất này
nghi ngờ những ý tưởng mới và thiếu những guồng máy hiệu
quả để hỗ trợ các dự án có tính sáng tạo. Ai muốn mở
một doanh nghiệp mới thì phải lặn lội qua lớp lớp giấy
tờ hành chánh phiền hà và những đòi hỏi phi lý. Những nhà
doanh nghiệp rất ít được coi trọng hoặc hỗ trợ về văn
hóa, họ cũng chỉ được luật pháp bảo vệ sơ sài và giới
khoa bảng ủng hộ chiếu lệ.
Trong khi đó, các đại học tại đây cũng không cho ra lò những
chuyên gia mà công cuộc phát triển đang cần. Ở Châu Mỹ La
Tinh, trung bình cứ sáu chuyên gia ngành khoa học xã hội tốt
nghiệp thì chỉ có hai kỹ sư và một chuyên gia ngành khoa học
chính xác. Đến thăm một đại học ở Châu Mỹ La Tinh giống
như đi ngược về quá khứ, tới thời kỳ mà Bức Tường Bá
Linh còn chưa sụp đổ, Nga và Trung Quốc chưa đi theo chủ nghĩa
tư bản. Thay vì trang bị cho sinh viên những kỹ năng thực tế
– như kỹ năng về kỹ thuật và ngôn ngữ – để giúp họ
thành công trong thế giới toàn cầu hóa, rất nhiều trường
lại dành thời gian để dạy sinh viên về những tác giả
chẳng còn ai đọc, và giảng đi giảng lại những giáo điều
chẳng còn ai tin.
Để có thể phát triển, phải thay đổi tình trạng này. Châu
Mỹ La Tinh phải bắt đầu tưởng thưởng cho những người có
khả năng phát minh và sáng tạo. Đại học của họ phải cải
cách nội dung giảng dạy cũng như đầu tư vào khoa học và kỹ
thuật. Họ phải giảm luật lệ phiền hà, thu hút đầu tư và
đẩy mạnh chuyển giao tri thức. Nói cách khác, họ phải hiểu
rằng chủ nghĩa thực dụng chính là ý thức hệ mới của loài
người, rằng, như Đặng Tiểu Bình từng tuyên bố, mèo trắng
mèo đen không quan trọng, miễn bắt được chuột.
<h2>BIẾT TIN CẬY</h2>
Chướng ngại thứ hai là sự mất lòng tin. Không dự án phát
triển nào có thể tiến hành được ở nơi mà sự nghi ngờ
lẫn nhau bao trùm, ở nơi mà thành công được nhìn bằng cặp
mắt hoài nghi, sáng tạo và đam mê chỉ gặp sự cảnh giác,
đề phòng. Người Châu Mỹ La Tinh nằm trong số những giống
dân khó tin nhau nhất trên thế giới. Cuộc Thăm Dò Giá Trị
Thế Giới (World Values Survey) trong năm 2000 đặt câu hỏi
"<em>Hầu hết mọi người có đáng tin không?</em>"; 55-56
phần trăm người được hỏi tại bốn nước Bắc Âu – Đan
Mạch, Phần Lan, Na Uy, và Thụy Điển – trả lời có; trong khi
chỉ có 16 phần trăm tại Châu Mỹ La Tinh trả lời có, và chỉ
có ba phần trăm trả lời có ở Brazil.
Người Châu Mỹ La Tinh nghi ngờ ý định thật của tất cả
mọi người họ gặp trong đời, từ chính khách đến bạn bè.
Chúng ta tin rằng mọi người đều có những kế hoạch bí mật
riêng, và tốt hơn không nên tham dự quá sâu vào công việc
chung. Chúng ta bị kẹt trong một song đề của tù nhân[1] khổng
lồ trong đó mỗi người đóng góp cho lợi ích chung ở mức
tối thiểu nhất có thể làm.
Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa, tin cậy nhau là điều
không thể thiếu. Những nước sẵn sàng cho sự tin cậy nhau là
những nước sẵn sàng nhất để phát triển, vì công dân của
họ có thể hành động dựa trên dự đoán hợp lý về cách
ứng xử có thể có của người khác. Sự mất an toàn về
luật pháp là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Có một
hiện tượng ngày càng phổ biến hơn, đến mức báo động, là
công dân Châu Mỹ La Tinh không biết việc mình làm sẽ gây ra
hậu quả pháp lý nào, hoặc nhà nước sẽ phản ứng ra sao
với những dự án của mình. Tại một số nước, nhiều doanh
nghiệp bị sung công mà không có bất cứ lý do chính đáng nào,
giấy phép bị hủy bỏ vì áp lực chính trị, phán quyết của
tòa trắng trợn đi ngược luật pháp, và tình trạng luật lệ
nay thế này mai thế khác cản trở việc đạt được những
mục tiêu dài hạn. Mới đây, cựu tổng thống Ecuador, Osvaldo
Hurtado viết trên báo The American Interest rằng:
"<em>Người dân Châu Mỹ La Tinh không tin vào các định chế
luật pháp hoặc vào những người thực thi luật pháp... dù đó
là các tòa án nhà nước hay luật sư tư. Thực vậy, thói quen
coi thường luật pháp, vốn cắm rễ sâu hàng thế kỷ, có sức
ảnh hưởng mạnh mẽ với lục địa này hơn vô số luật lệ
được thông qua trong nhiều thế kỷ để điều tiết các quan
hệ kinh tế, xã hội, hay chính trị. Lập pháp của Châu Mỹ La
Tinh, trong 175 năm qua, dường như đã thông qua nhiều luật lệ
hơn đồng nghiệp của họ ở bất cứ đâu trên địa cầu,
vậy mà chưa bao giờ lại có quá nhiều luật lệ bị xem
thường bởi quá nhiều người, trong thời gian quá lâu như
vậy.</em>"
Có thể nói rằng ổn định luật pháp chính là để bảo vệ
niềm tin. Để có thể phát triển kinh tế thành công, người
dân Châu Mỹ La Tinh phải có thể tin rằng nhà nước sẽ hành
xử hợp lý và có thể dự đoán được. Họ cần có khả năng
tiên đoán hậu quả pháp lý của việc mình làm. Và họ cũng
cần có thể tin được rằng cả những người khác nữa, cũng
sẽ hành xử theo đúng luật chơi.
<h2>THỰC THI DÂN CHỦ</h2>
Chướng ngại thứ ba cản trở sự phát triển là sự mong manh
của nỗ lực dân chủ hóa tại Châu Mỹ La Tinh. Chắc hẳn, xét
theo mức độ nào đó thì ngày nay toàn vùng này, ngoại trừ
Cuba, có thể được xem như những thể chế dân chủ. Sau nhiều
thế kỷ nội chiến, đảo chính và chế độ độc tài, thể
chế dân chủ quả đã đạt được những bước tiến đáng
kể trong vài thập niên vừa qua. Nhưng sự thật là chiến
thắng ấy không trọn vẹn. Dù có những hiến pháp soạn thảo
cẩn thận, những tuyên bố hùng hồn, những thỏa thuận cao
thượng, Châu Mỹ La Tinh vẫn còn xu hướng nghiêng về chủ
nghĩa độc tài.
Fidel Castro và Raul Castro tại Cuba ứng xử như những lãnh tụ
truyền thống của Châu Mỹ La Tinh – nhưng các lãnh tụ như
Hugo Chávez tại Venezuela và Daniel Ortega ở Nicaragua cũng thế,
họ cũng dùng những quy chế và cơ cấu dân chủ để làm biến
chất hệ thống dân chủ của chính nước mình. Sau khi được
bầu lên, họ biến hóa quyền hạn của mình thành một thứ
quyền lực tối thượng, để làm bất cứ điều gì họ muốn,
kể cả đàn áp đối thủ, đeo gông báo chí, và ra sức bẻ
cong hệ thống để họ có thể giữ vững quyền lực bằng
bất cứ giá nào. Trong khi đó thì lại có quá đông quần chúng
các nước này lại bằng lòng cho phép lãnh tụ của họ tiếp
tục cầm quyền, có lẽ vì xem rằng mệnh trời và sức thuyết
phục đầy ma lực của các lãnh tụ này như một lối thoát
khỏi mê hồn trận chậm phát triển đang bao trùm khu vực.
Nếu các nền dân chủ Châu Mỹ La Tinh không đáp ứng được
những hứa hẹn về chính trị và kinh tế, nếu niềm hy vọng
của công dân cứ tiếp tục là những giấc mơ xa vời thì chủ
nghĩa độc tài sẽ xuất hiện trở lại. Cách tránh điều này
là cho quần chúng thấy thể chế dân chủ có giá trị thực,
rằng dân chủ có thể xây dựng những xã hội thịnh vượng
và công bằng. Vượt qua sự xơ cứng chính trị, biết đáp
ứng nhanh nhạy với yêu cầu của công dân, và tạo nên các
nguồn tài chánh bằng cách đánh thuế người giàu là những
bước cần thiết để tiến tới một nền
văn-hóa-của-tự-do-và-tiến-bộ.
<h2>YÊU CHUỘNG HOÀ BÌNH</h2>
Làm tăng thu nhập công là cần thiết, nhưng chưa đủ. Cần
phải sử dụng khôn ngoan những ngân sách này. Các nước Châu
Mỹ La Tinh đã tiêu tốn rất nhiều trong quá khứ, mắc những
món nợ khổng lồ, nhưng họ thường phí phạm tài nguyên vào
những ưu tiên không thích hợp. Họ đã phung phí tiền bạc cho
quân đội thay vì rộng rãi chi tiêu vì con dân nước mình.
Ngoại trừ Columbia, không nước nào tại Châu Mỹ La Tinh đang
hoặc sắp phải đối đầu với một cuộc chiến vũ trang. Tuy
vậy, khu vực này vẫn chi ra 60 tỉ đô la Mỹ cho vũ khí và
quân đội – nhiều gấp đôi số chi cách đây năm năm. Tại
sao? Ai sẽ tấn công ai? Kẻ thù của dân chúng tại khu vực này
là giặc đói, giặc dốt, giặc bất công, là bệnh tật, tội
phạm, và hủy hoại môi trường. Đó là những kẻ nội thù,
và chỉ có thể bị đánh bại bởi những chính sách công khôn
ngoan, chứ không bởi những cuộc chạy đua vũ trang mới.
Costa Rica là nước đầu tiên trong lịch sử bãi bỏ quân đội
và tuyên bố hòa bình với cả thế giới. Công dân nước này
chưa bao giờ biết nghĩa vụ quân sự là gì. Họ cũng chưa hề
thấy bóng dáng máy bay trực thăng vũ trang hoặc vết xích xe
tăng. Và từ khi bãi bỏ các lực lượng vũ trang cách đây 62
năm, Costa Rica chưa từng gặp một cuộc đảo chính nào. Tôi
rất muốn nghĩ rằng toàn thể Châu Mỹ La Tinh có thể làm theo
Costa Rica, nhưng tôi biết rằng ước mơ không tưởng này sẽ
không thể thực hiện được trong đời mình. Tuy vậy, tôi cũng
biết rằng, một sự giảm thiểu, có tránh nhiệm và từng
phần, chi phí quân sự, không chỉ khả thi, mà còn khẩn thiết.
Cần làm điều đó vì chúng ta đang mang nợ những nạn nhân
của chế độ độc tài, những người trong thế kỷ hai mươi
đã đổ máu để viết những trang buồn đau nhất của lịch
sử Châu Mỹ La Tinh. Chúng ta mắc nợ những người còn sót
lại sau những trận đàn áp và tra tấn. Chúng ta mắc nợ
những người mà chỉ cần thấy mặt một người lính là họ
đủ hoảng loạn vì sợ hãi.
Loại bỏ văn hóa võ biền cũng cần thiết vì quân đội có
mặt ngày càng nhiều tại các đô thị đã làm gia tăng thêm
kiểu ứng xử gầm gừ nhau, không có lợi cho công cuộc phát
triển. Kiểu ứng xử này ám chỉ rằng cách giải quyết vấn
đề tốt nhất là đánh bại kẻ thù, thay vì giải quyết bằng
việc xây dựng sự đồng thuận giữa những người bạn và
láng giềng của nhau. Nó dạy rằng việc chinh phục chỉ có
thể được thực hiện bằng vũ khí, gào thét, và đe dọa, thay
vì có thể đạt được bằng lời nói, sự tôn trọng và bao
dung. Chủ nghĩa quân phiệt trong văn hóa khu vực là một bước
lùi, có sức phá hoại và cần được thay thế bằng một
văn-hóa-hòa-bình.
Người dân Châu Mỹ La Tinh cần phải nhìn mình trong gương và
đối đầu với thực tế là nhiều vấn đề của mình không
bắt nguồn từ số phận đã được an bài, mà từ trong chính
bản thân mình. Chúng ta phải vượt qua nỗi sợ thay đổi.
Chúng ta phải thấm nhuần tinh thần khai phá. Chúng ta cần học
cách tin nhau. Chúng ta cần đẩy mạnh việc thực thi dân chủ
và pháp quyền. Và chúng ta cần bãi bỏ thói quen võ biền vốn
đang tiếp tục xát muối vào vết thương quá khứ. Chỉ khi
đó, khu vực Châu Mỹ La Tinh mới có thể đạt được sự phát
triển mà họ tìm kiếm lâu nay.
Oscar Arias
Bài đăng trên Foreign Affairs số tháng 1 & 2, 2011
<h2>Chú thích (Diễn Đàn):</h2>
(*) Tổng thống Costa Rica từ 1986 đến 1990 và từ 2006 đến
2010, giải Nobel Hòa Bình năm 1987.
[1] "song đề của tù nhân, prisoner's dilemma" là một "tình
huống mẫu" của lý thuyết trò chơi; trong đó hai tù nhân
nếu thực lòng hợp tác (để khai gian đánh lừa cai ngục) thì
cả hai đều được lợi; nhưng lại khó tin nhau vì nếu một
trong hai phản bội thì sẽ được lợi nhiều hơn. Kết quả là
không cộng tác được với nhau.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8676), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét