Nguyễn Hoàng Văn - Chính trị tiêu chuẩn và tiêu chuẩn... chính trị

Bàn đến câu chuyện ồn ào much ado about nothing về Sợi xích
của Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, nhà thơ Lý Đợi nhận định:

"<em>Thông thường ở các nước phát triển, các NXB (nhà xuất
bản), các cơ quan truyền thông có tên tuổi thường biết từ
chối và phân loại các sản phẩm, các tác phẩm không đủ
đẳng cấp hoặc không phù hợp với tiêu chí của mình. Ở
Việt Nam thì thật là khó, vì từ các chuyên mục, các chương
trình nhỏ đến các NXB, các cơ quan truyền thông lớn… thì
đẳng cấp và tiêu chí không bao giờ được giữ vững.</em>

<em>Các chương trình phỏng vấn định kỳ trên các phương
tiện truyền thông là dễ nhận thấy sự đánh lận này nhất;
ví dụ hôm trước phỏng vấn một chuyên gia đầu ngành, có
nhiều đóng góp thì hôm sau lại phỏng vấn một người mà
trong giới biết tỏng là 'đạo chích', chẳng có công trình
nào mà lại không dùng 'thủ pháp'… đạo văn, thì đâu
cần phải nói tới đẳng với cấp!</em>

<em>Cho nên, trước câu hỏi là phải "phán xét" thế nào
với Sợi xích? Có lẽ cách trả lời dễ nghe là chẳng có gì
phải phán xét cả, vì ở Việt Nam chuyện này đang diễn ra
hàng ngày.</em>"[1]

Thì chẳng có gì để phán xét với tự thân câu chuyện. Nhưng
khi những câu chuyện tương tự cứ "diễn ra ngày ngày",
bình thường tới mức "chẳng có gì phải phán xét" thì
hẳn phải có cái gì đó không bình thường với ý niệm
"đẳng cấp" và "tiêu chí". Mà "đẳng cấp" nào thì
có "tiêu chí" ấy, do đó vấn đề có thể rút gọn lại ở
khái niệm "tiêu chí".

"Tiêu chí", theo Từ điển tiếng Việt (2004) của Viện Ngôn
ngữ học Việt Nam, là "tính chất, dấu hiệu làm căn cứ
để nhận biết, xếp loại một sự vật, một khái niệm".
Tôi đã thử tra và phát hiện rằng "tiêu chí" xuất hiện
khá muộn hay ít ra là không được ghi nhận sớm hơn. Từ
điển Khai Trí Tiến Đức không có. Từ điển Đào Duy Anh không
có. Từ điển của Thanh Nghị hay của Lê Văn Đức và Lê Ngọc
Trụ cũng không có. Chỉ có "tiêu chuẩn" và, trước sau,
cũng chỉ được hiểu như là "Cái nêu và cái thước để
làm chừng mực / Sự chừng mực để noi theo", là "Nêu và
đích / Cái làm mức, chừng mực" hay "Cây nêu và cây
thước, vật đo / Chừng mực, mực thước" vậy thôi.

Nhưng theo sự xuất hiện của "tiêu chí" thì "tiêu
chuẩn", trong cuốn từ điển chính thống nói trên, phải
chịu cảnh… bể dâu. Vừa là "điều quy định làm căn cứ
để đánh giá, phân loại", bây giờ "tiêu chuẩn" còn è
cổ ra gánh vác một ý nghĩa hoàn toàn khác như là "mức quy
định được hưởng, được cung cấp theo chế độ".

Vấn đề cần đặt ra là nguyên ủy của chuyện bể dâu "đau
đớn lòng" này. Tại sao, tại sao "cái nêu và cái thước
làm chừng mực" có thể chuyển mình một cách trái cựa như
thế để trở thành "quyền lợi theo chế độ"?
"Được cung cấp theo chế độ" là một thứ đặc quyền.
Để được ban cấp những đặc quyền ấy thì cần phải
chứng tỏ những tiêu chuẩn nào đó, để được đánh giá và
xếp lọai vào những thứ hạng nào đó. Mà sự "chứng tỏ"
này không phải là chuyện một sớm một chiều: nó là cả một
quá trình, một "quá trình phấn đấu" đầy thử thách hay
một quá trình luồn cúi ê chề.

Hơn thế nữa, nếu "tiêu chuẩn" là mức "được hưởng
theo chế độ" thì yếu tố then chốt ở đây là… chế độ,
từ "chế độ" nghĩa hẹp như một quy định/chính sách
đến "chế độ" nghĩa rộng như một hệ thống chính trị.
Càng được đánh giá cao là càng hợp với những "tiêu
chuẩn" xếp lọai cao. Càng được xếp loại cao thì "tiêu
chuẩn" đặc quyền càng cao. Hai ý nghĩa tưởng là toàn khác
nhau nhưng lại có mối quan hệ rất là biện chứng với nhau.
Mà "tinh thần biện chứng" này chính là tinh thấn cốt tủy
của … chế độ: nó rất cần những thành viên có tiêu chuẩn
xếp lọai cao, và nó sẵn sàng đầu tư tài nguyên để dung
dưỡng cái giai tầng "tiêu chuẩn" cao này.

Nếu Karl Marx phân chia giai cấp theo tình trạng sở hữu "tư
liệu sản xuất" thì chính chế độ nêu cao khẩu hiệu xoá
bỏ giai cấp của Marx, có thể nói, đã giai cấp hoá xã hội
bằng… "tiêu chuẩn". Như cái xã hội "giai cấp hoá"
trong cộng đồng báo chí xã hội chủ nghĩa theo hồi ức của
ông Đinh Phong, người có thời là Chủ tịch Hội Nhà báo Thành
phố Hồ Chí Minh, chẳng hạn:

"<em>Một lần được anh Hoàng Tùng giao đi làm tin Thủ tướng
Phạm Văn Đồng chiêu đãi chuyên gia. Tôi được đi cùng Tổng
Biên tập đến Nhà hát lớn, nhưng khi đến cổng, nhân viên
lễ tân không cho vào. Anh Hoàng Tùng nói thế nào họ cũng khăng
khăng giấy mời Tổng Biên tập, không phải cho phóng viên. Tôi
trở về, không viết được tin. Sáng hôm sau, Văn phòng Thủ
tướng hỏi: sao không đưa tin Thủ tướng tiếp khách? Anh Hoàng
Tùng cho biết vì không có giấy mời, đến xin vào cũng không
cho. Nghe nói sau đó Vụ Lễ tân bị phê bình, còn tôi thì
'trắng án'.</em>

<em>Sở dĩ có sự kiểm soát đó, ngoài các nguyên nhân về an
ninh còn có nguyên nhân 'sợ' phạm tiêu chuẩn cho phép. Lúc
đó do khó khăn, lễ tân nhà nước quy định: phóng viên không
được dự các cuộc chiêu đãi. Chúng tôi đến các cuộc tiếp
khách phải ngồi ngoài cửa, chỉ được uống nước trà, không
được vào bàn ăn. Thậm chí ở các cuộc họp lớn, còn quy
định: phóng viên nước ngoài được uống bia, phóng viên trong
nước chỉ được uống nước trà.</em>"[2]

Hay rõ hơn là hồi ức về "Ngày xưa xa thế" của Trần
Đức Chính, nguyên là phó Tổng Biên tập báo Lao Động:

"<em>Đã là vào nghề thì phải cao thấp, sư phụ, đồ đệ,
đại ca, tiểu đệ. Các phóng viên tầm cỡ thường được
dành phần viết các anh hùng. Phóng viên èng èng chỉ được
viết đến cỡ chiến sĩ thi đua nhiều năm liền là cùng. Anh
nào yếu hơn có khi chỉ được viết lao động tiên tiến.</em>

<em>[…] Ngày ấy làm báo chỉ viết các nguồn tin trong nước
là chính. Tin nước ngoài chủ yếu do Việt Nam Thông Tấn Xã
phát. Có quy định những người hưởng lương chuyên viên II
trở lên mới được đọc các bản tin tham khảo. Muốn vươn
tới chuyên viên II (được khám bệnh tại Bệnh viện Hữu
nghị Việt – Xô, có phiếu thực phẩm loại C, tháng mua cả
cân đường, cân thịt lợn) phải qua chuyên viên I. Muốn lên
chuyên viên I phải qua 6 bậc cán sự, tức 6 bậc phóng viên.
Nếu không được đề bạt làm một chức vụ nào đó thì
đến lúc về hưu nhiều nhà báo vẫn chưa mon men được đến
phiếu C.</em>

<em>[…] Ấy thế mà khi tôi mở BBC để tham khảo tin, ông quản
trị khu tập thể đến góp ý: đồng chí không nên mở đài
địch công khai như vậy. Tôi nhận lỗi và báo cáo: cháu là
nhà báo, mới được lên phó ban, có phiếu C rồi. Lúc đó ông
ta mới tha, không báo lên trên, nhưng dặn tôi phải mở bé,
đủ nghe, anh em các phòng xung quanh họ chưa đủ tiêu chuẩn nghe
đâu (!).</em>

<em>[…] Dăm năm trở lại đây làm 'quản lý', ngồi phòng
máy lạnh, có tiêu chuẩn nước khoáng, tôi vẫn phụ trách mục
phóng sự, mỗi năm tổ chức anh em viết dăm trăm cái, dùng
độ hơn hai trăm.</em>"[3]

Đường "hoạn lộ" như thế thì kể cũng khá hanh thông.
Thời bao cấp đã là chuyên viên bậc hai, không chỉ có phiếu C
mỗi tháng "mua cả" cân đường cộng cân thịt lợn mà còn
được nghe cả "đài địch" BBC. Đến thời "kinh tế thị
trường", khi hồi tưởng về "ngày xưa xa thế" trong cuốn
sách xuất bản năm 2001, thì đã là nghiễm nhiên "ngồi phòng
máy lạnh, có tiêu chuẩn nước khoáng". Cách kể chuyện của
tác giả vừa có vẻ mãn nguyện của kẻ đang ngây ngô tự
đắc về thành đạt nghề nghiệp của mình và cả những thành
đạt trong "tiêu chuẩn" hưởng thụ của mình. Tôi ngờ
rằng niềm tự hào ngây ngô của ông phó Tổng Biên tập này
đã nói lên yếu tố then chốt trong sự biến nghĩa của từ
"tiêu chuẩn".

Trong một hệ thống như thế thì những tầng bậc
"tiêu chuẩn" như ăn thịt hay uống trà, cân đường cộng
cân thịt không chỉ đơn thuần là vật chất để hưởng thụ
mà còn là… nhân phẩm nữa. Chưa đủ "tiêu chuẩn" mỗi
tháng một cân thịt lợn cũng có nghĩa là chưa đủ trình độ
nghề nghiệp và bản lĩnh chính trị để "đọc tin tham
khảo" hay "nghe đài địch". Phải xơi mỗi tháng ít nhất
một cân thịt lợn và cân đường thì mới đủ "trình
độ" để viết về người tốt việc tốt tầm cỡ "anh
hùng". Như thế thì cân thịt và cân đường đã trở thành
"nhân phẩm", thành những thứ "nêu và đích" để những
thành viên năng nổ của hệ thống "phấn đấu" để đạt
tới. Khi thịt hay đường trở thành "nêu và đích" để họ
đạt tới hay "sự chừng mực" để họ noi theo thì chúng
đã nghiễm nhiên trở thành … "tiêu chuẩn".

Điều đáng nói là trong khi thứ "tiêu chuẩn" ở ý nghĩa
quyền lợi này được bảo vệ một cách chặt chẽ thì thứ
"tiêu chuẩn" kia, trong ý nghĩa của "tiêu chí", đã không
được tôn trọng.

Như trường hợp ông Phạm Văn Đồng, chẳng hạn. Là Thủ
tướng, ông ta là người chịu trách nhiệm cao nhất cho những
quy định chi li về quyền ăn và quyền uống nói trên v.v…
Nhưng cũng trong vai trò Thủ tướng, ông ta đã ra lệnh kiểm
điểm những thuộc cấp đã hành xử cứng nhắc, không chịu du
di những "tiêu chuẩn" mà ông ta ấn định.

Mấu chốt của vấn đề cũng là quyền lợi. Hệ thống có
thể du di tất cả "tiêu chuẩn" hay "tiêu chí" miễn là
sự du di đó không va chạm đến quyền lợi. Và khi không thể
không va chạm quyền lợi thì, hẳn nhiên, bao giờ người ta
cũng có thể du di quyền lợi bé để "kiên định" với
quyền lợi lớn.

Chỉ đi ăn tiệc thôi mà xuất hiện trên trang nhất báo Nhân
Dân thì có nghĩa là một đặc quyền hay một "tiêu chuẩn
chính trị". Để được tham dự "quốc tiệc" tại Nhà hát
lớn suông thôi, không lên tin trên báo thì tự thân việc tham
dự chỉ có một ý nghĩa thấp hơn, thiên về khía cạnh kinh
tế. Ông Phạm Văn Đồng bảo vệ "tiêu chuẩn kinh tế" của
những cán bộ cao cấp bằng những quy định chặt chẽ về
điều kiện tham dự buổi chiêu đãi. Nhưng ông ta cũng muốn
bảo vệ cái "tiêu chuẩn chính trị" còn cao hơn mấy bậc
cho riêng mình trên trang nhất báo Nhân Dân. Chính vì thế có
chuyện kiểm điểm những kẻ không chịu du di trong những
"tiêu chuẩn kinh tế" thấp hơn.

Đó chính là cái "chính trị tiêu chuẩn" của hệ thống
tòan trị, cái hệ thống có thể du di mọi "tiêu chuẩn"
nhưng luôn cứng nhắc với "tiêu chuẩn của chính trị" của
nó. Sẽ không có gì hiểu khi Nhà Xuất bản Hội Nhà văn thản
nhiên du di những tiêu chuẩn mỹ học để đứng tên xuất bản
Sợi xích của Lê Kiều Như nhưng tuyệt không dám du di, tự
trói chặt mình trong sợi xích của "tiêu chuẩn chính trị"
với hồi ký của Trần Vàng Sao hay hồi ký của Trần Độ.

Trên lý thuyết thì cách mạng vô sản là để xoá bỏ cách
biệt giai cấp. Cũng trên lý thuyết thì cách mạng phải thực
hiện chuyên chính vô sản để bảo vệ quyền lợi giai cấp.
Như thế thì, theo logic thông thường, ngay từ đầu "cách
mạng" đã tự mâu thuẫn với mình bởi, khi giai cấp vô sản
đã có "quyền lợi", thậm chí quyền lợi đó được bảo
vệ bằng cả một nền chuyên chính, nó đâu còn là… vô sản
nữa? và nền chuyên chính ấy cũng đâu còn là "vô sản"
nữa?

Sinh thời nhà sử học Trần Quốc Vượng kể chuyện thời còn
trẻ học trung học trong vùng kháng chiến của mình: ông được
hiệu trưởng Trần Văn Giàu chú ý vì khẳng khái từ chối
suất du học theo "tiêu chuẩn của bố". Bố ông là một
viên chức quan trọng trong bộ máy hành chính kháng chiến, do
đó có được cái "tiêu chuẩn con đi du học", thế nhưng
nhà sử học tương lai khẳng khái rằng nếu được đi du học
thì ông phải đi bằng năng lực của mình chứ không muốn làm
một thứ sinh viên "tập ấm", được chọn đi du học theo
"tiêu chuẩn" của bố.

Thế có nghĩa là một thứ quan cách mạng, với những bổng
lộc cách mạng, ngay trong thời kháng chiến. Về thứ quan kháng
chiến này còn có một câu chuyện sinh động khác của nhà văn
Vũ Thư Hiên:

"<em>Lần đầu tôi được thấy tận mắt trong quân đội cách
mạng cũng có lính hầu là ở trạm Quảng Nạp, một trong cửa
ngõ vào an toàn khu từ ngả Thái Nguyên. Trước đó tôi không
bao giờ hình dung có người đi làm cách mạng chỉ để hầu ai
đó. Trong quân đội Việt Nam cũng có các vệ sĩ, hồi mới
kháng chiến còn gọi là gác-đờ-co nhưng họ hoàn toàn không
phải là lính hầu. Cơn sốt rét rừng bất chợt buộc tôi
phải nằm lại trạm này đã cho tôi có dịp quan sát mấy đoàn
cố vấn Giải phóng quân đi ngang. Những cố vấn Trung Quốc,
thường là cấp tướng, đến Việt Nam mang theo cả đoàn lính
hầu nhộn nhịp, nào bảo vệ, nào cần vụ, nào cấp dưỡng,
nào giám mã. Khi cố vấn lên đường công tác, anh cấp dưỡng
quảy nồi niêu xoong chảo lên vai, anh cần vụ lỉnh kỉnh chăn
màn gối đệm trên vai, anh giám mã chạy tới cúi gập mình
xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng mình mà leo lên
ngựa. Cố vấn đến nơi cần nghỉ ngơi thì cần vụ kê
giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa
mặt rửa chân, cấp dưỡng te tái lo nấu cơm nấu nước, bảo
vệ lăm lăm súng đứng gác, giám mã te tái đi cắt cỏ ngựa.
Răm rắp, răm rắp, không chê vào đâu được.</em>

<em>Nhìn cảnh đó tôi vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm. Có lẽ
không có quân đội nào trên thế giới có thứ lính hầu khốn
khổ khốn nạn như lính cần vụ Trung Quốc.</em>

<em>Ăn uống trong quân đội Trung Quốc cũng phân biệt rõ rệt
theo cấp bậc, hay nói cho đúng hơn, theo đẳng cấp. Lính trơn
cho tới cấp chỉ huy trung đội thì ăn tiêu chuẩn đại táo,
tức là mức ăn phổ thông, thấp nhất. Trên đại táo là trung
táo, dành cho cấp chỉ huy đại đội tới tiểu đoàn. Tiểu
táo là mức ăn dành cho cấp trung đoàn trở lên. Cao nhất là
đặc táo, dành riêng cho các nhà lãnh đạo, để đãi khách,
bữa nào cũng như tiệc.</em>

<em>Nỗi kinh ngạc của chúng tôi kéo dài không lâu – cả về
mặt này quân đội Việt Nam cũng nhanh chóng tiếp cận quân
đội đàn anh. May mắn thay, cái sự phân biệt các thứ táo
tồn tại không lâu, và ở mức độ thấp hơn nhiều. Ở ngoài
mặt trận không ai dám liều lĩnh sao chép nguyên bản cái trật
tự đẳng cấp kỳ cục ấy. Trước mặt người lính là kẻ
thù xâm lược, người lính có thể nổi giận. Mà ở chiến
trường thì chẳng ai biết được người lính nổi giận sẽ
hành động thế nào. Ðiều chắc chắn là sức chiến đấu
của quân đội sẽ giảm sút</em>."[4]

Thời chiến thì họ không nhưng thời bình thì họ dám. Và
không chỉ là quân đội mà là cả hệ thống chính trị như có
thể thấy trong cái lớp lang "tiêu chuẩn" quanh bàn tiệc
của ông Phạm Văn Đồng. Như thế thì, bên cạnh các phương
thức "đảng trị", "công an trị", hệ thống còn có
phương thức "tiêu chuẩn trị".

Hệ thống khăng khăng bảo vệ quyền lợi giai cấp. "Giai
cấp" thì khăng khăng bảo vệ… "tiêu chuẩn". Bằng những
"tiêu chuẩn" đặc quyền, hệ thống tạo ra một giai tầng
đặc quyền. Để bảo vệ đặc quyền của mình, giai tầng ấy
bảo vệ hệ thống như là bảo vệ chính sinh mạng của mình.
Mà để vươn tới những giai tầng đặc lợi, toàn bộ những
thành viên của nó phải bám vào hệ thống, phải vận hành như
những thứ ốc vít hay con rối đúng theo tiêu chuẩn của hệ
thống.

Phương thức "tiêu chuẩn trị" này, không chừng, còn là
cội rễ sâu xa nhất của căn bệnh tham bất trị hiện tại.
Và khi hệ thống toàn trị thừa nhận rằng bệnh tham nhũng là
bất trị thì có nghĩa là nó cũng mặc nhiên thừa nhận rằng,
để bài trừ tận gốc nạn tham nhũng, thì phải bài trừ tận
gốc cái hệ thống toàn trị.[5]

Vì hệ thống, vốn dĩ, là… vô sản, còn tài nguyên lại là
sở hữu quốc gia. Tài sản quốc gia nhưng bị trưng dụng như
một thứ "tiêu chuẩn" riêng của hệ thống, và từ "tiêu
chuẩn của chúng ta" đến "tiêu chuẩn của riêng ta" chỉ
là một bước đi rất ngắn. Mỏng như sợi tóc.

Cao nhất trong "tiêu chuẩn của chúng ta" "tiêu chuẩn cầm
quyền", thể hiện qua Điều 4 Hiến pháp và đây chính là
một hành động "tham nhũng chính trị" không hơn không kém.
Hành động tham nhũng tập thể này được bảo đảm bằng sức
mạnh của cả hệ thống công an trị, được tự nhiên hoá và
chính đáng hoá bằng cả một hệ thống giáo dục và tuyên
truyền. Khi mà cả hệ thống xem trò "tham nhũng" tập thể
này là chính đáng, là tự nhiên, là "tiêu chuẩn" ắt có
của nó thì những thành viên của nó cũng sẽ xem chuyện tham
nhũng cá nhân như là "tiêu chuẩn" tự nhiên của mình.

Triết lý và hành động "tham nhũng chính trị" đã thai nghén
nên cái "chính trị tham nhũng" đã trở thành bất trị như
thế. Ngày nay, khi "phấn đấu" hay luồn cuối để vươn
tới một vị trí nào đó thì, trong thâm tâm, đa số những
thành viên năng nổ nhất của hệ thống cũng chi lăm lăm
"phấn đấu" và luồn cuối để vươn tới những địa vị
có đặc quyền tham nhũng. Đạt đến một "tiêu chuẩn chính
trị" cao hơn cũng có nghĩa là đạt đến một "tiêu chuẩn
tham nhũng" cao hơn. Họ cố vươn lên với mối ám ảnh về
"tiêu chuẩn tham nhũng". Cũng giống như các đồng chí đàn
em ngày xưa cố vươn lên với mối ám ảnh về "tiêu chuẩn
ăn tiệc", cái về cái ngày họ có được cái quyền bước
vào bàn tiệc ê hề thịt rượu bên trong, không phải ngồi chò
hỏ bên ngoài uống trà suông, tưởng tượng cảnh các đồng
chí đàn anh bên trong nhồm nhoàm chén chú chén anh.

Mà, khi có thể vạch ra một quy định chi ly buộc kẻ này phải
ngồi ngoài uống trà nhìn kẻ kia vào trong ăn tiệc cho dù tất
cả đều gọi nhau là đồng chí, chính cái hệ thống toàn trị
đã khai sinh ra cái thói hành xử mà ngày nay chúng ta gọi là
"bệnh vô cảm".

Sự "vô cảm" thành bệnh bởi đó chính là… "tiêu chuẩn
đạo đức" của hệ thống. Với hệ thống thì vô cảm đến
đâu cũng mặc, là đừng chạm đến "tiêu chuẩn chính
trị". Cái "chính trị tiêu chuẩn" và "chính trị tham
nhũng" của hệ thống là thế. Cãi chày cãi cối hay ngậm
miệng ăn tiền thì qua chuyện và những quan lại hay hào lý và
trương tuần cách mạng ăn chặn tiền bạc và phẩm vật cứu
trợ nạn nhân bão lụt vẫn an nhiên tại vị. Họ ăn chặn năm
này sang năm khác, từ mùa bão lụt này tới mùa bão lụt khác
nhưng hầu như chẳng có ai thực sự ra toà và chẳng có ai
thực sự đối diện với những hình thức truy bức và đàn áp
của hệ thống công an trị. Khác hẳn những những blogger đi
bên lề trái. Khác hẳn những công dân dám đá động đến
chuyện chủ quyền trên biển.

Hẳn nhiên, hệ thống cũng có cách để bào chữa cho hành
động truy bức những công dân lương thiện và yêu nước nhất
của mình. Cũng giống như thời bao cấp, lúc những nhà báo có
phiếu C mỗi tháng "mua cả" cân thịt lợn thì mới có tiêu
chuẩn "nghe đài địch", những kẻ như thế đã phạm lỗi
vì họ chưa đạt đến "tiêu chuẩn" để đề cập đến
những chuyện "nhạy cảm" như thế. "Tiêu chuẩn" ấy
phải thuộc phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao.

Thế nhưng, xét cho cùng, "tiêu chuẩn phản đối" của viên
chức này cũng chỉ là nói đi nói lại cái câu phản đối cái
câu nói như đã được thu băng, chưa mở miệng đã biết nói
gì: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở
pháp lý để khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của
mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…" Nếu
lịch sử dân nhạc Việt Nam có "Sáu câu vọng cổ thì mai này
lịch sử giữ nước của dân tộc sẽ ghi nhận thêm "Một
câu phản đối" của hệ thống toàn trị bởi "tiêu chuẩn
phản đối" của viên chức ấy cũng không thể vượt xa hơn
câu nói trăm lần như một.

"Tiêu chuẩn phản đối" của viên chức ấy không thể
vượt qua là chuyện tự nhiên. Nó cũng tự nhiên như "tiêu
chuẩn xe" của ông ta hay bà ta, nếu có, sẽ không được phép
vượt qua, giống như xe đại sứ thì không được vượt qua 65
ngàn đô la, xe tổng lãnh sự thì 50 ngàn đô la…[6]

Sydney 5.4.2010
© 2010 Nguyễn Hoàng Văn
© 2010 talawas

[1] Lý Đợi, "Phán xét thế nào với Sợi xích?"
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/03/100323_lydoi.shtml

[2] Đinh Phong, "Từ báo Nhân dân đến báo Giải phóng", trong
Thời gian và Nhân chứng, Hà Minh Đức, chủ biên, NXB Chính trị
Quốc gia., tr. 410.

[3] Trần Đức Chính (2001), "Ngày xưa xa thế", Thời gian và
Nhân chứng, tr. 121, 122, 12 và 140, sđd.

[4] Cuốn này được phổ biến khá rộng rãi trên mạng Internet,
có thể tham khảo ở Chương 9, tại địa chỉ:
http://doquynhgiao.tripod.com/hkdgbn/vthuhien.htm

[5] Xin dẫn ba câu chuyện vui vui về mối quan tâm đến "quốc
nạn tham nhũng" của những nhà lãnh đạo cộng sản.

<strong>I. Nguyễn Văn Chi, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng:</strong>

"Các cấp ủy viên được bầu trong nhiệm kỳ này phải là
những cán bộ không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng".

Nghĩa là cán bộ đảng viên tham nhũng tràn lan và tham nhũng thì
chẳng sao cả, chỉ là không đựợc bầu vào cấp ủy thôi!

Xem: http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/09/870365/

<strong>II. Trương Tấn Sang, Thường trực Bộ Chính trị</strong>

"Những quy định của Đảng và Nhà nước đã phù hợp nhưng
do tổ chức, điều hành yếu kém, cần phải kiên quyết thay
người phụ trách, điều hành. Cạnh đó, cần cụ thể hóa
tiêu chuẩn cấp ủy "không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng".

Nghĩa là chỉ cần "tiêu chuẩn cấp ủy không tham nhũng"
thôi, còn "tiêu chuẩn đảng viên" thì không làm khó, tha hồ
mà tham nhũng!

Xem:
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/361177/Phong-chong-tham-nhung-Chon-nguoi-trong-sach-dung-dau.html

<strong>III. Lê Khả Phiêu, cựu tổng bí thư:</strong>

"Đảng phải đổi mới trong công tác cán bộ, từ việc bố
trí, sắp xếp, đề bạt, tuyển chọn cán bộ lãnh đạo ở
Trung ương, các đoàn thể cho đến các địa phương. [..] Nhất
thiết không giới thiệu, không đưa vào danh sách, không bầu
cử những người tham nhũng và thiếu trách nhiệm trong chống
tham nhũng, những người không kiên định độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không có khả năng thực
tế, thiếu gắn bó với nhân dân, không dũng cảm tự phê bình
và phê bình. Đấu tranh loại bỏ tệ chạy chức, chạy quyền,
mua lòng nhau để kiếm phiếu."

Nghĩa là tham nhũng không sao cả, không bị ra toà hay bị khai
trừ đảng, chỉ không được "bố trí, sắp xếp, đề bạt,
tuyển chọn" và các chức vụ "lãnh đạo ở Trung ương"
thôi!

Xem:
http://vietnamnet.vn/chinhtri/201002/Nguyen-Tong-Bi-thu-va-nhung-tran-tro-chinh-don-Dang-893032/

[6] Quyết định số 30/2010/QĐ-TTg do Thủ tướng Việt Nam ký
ngày 15/3/2010 quy định xe của đại sứ không quá 65.000 đô la,
xe của tổng lãnh sự thì không quá 60.000 đô la. Không rõ xe
của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao là bao nhiêu.

Xem:
http://legal.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&category_id=34&news_id=502

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8852), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét