Nguyễn Gia Kiểng - Một bài học chúng ta vẫn chưa chịu học

Mùa hè 2006. Sáu trí thức có tiếng tại hải ngoại trao
đổi với nhau qua e-mail và đồng ý thành lập một tổ chức
ủng hộ Khối 8406. Lúc đó bản tuyên ngôn 8-4-2006 đã thu thập
được hơn 2000 chữ ký và gây hứng khởi cho họ. Sau một
thời gian trao đổi có vị đưa ý kiến là nên chuyển sang ủng
hộ công nhân đang đình công đòi tăng lương và cải thiện
điều kiện lao động. Mọi người đồng ý vì cho rằng cuộc
đấu tranh của công nhân là một cơ hội mà đối lập dân
chủ không thể bỏ lỡ vì chỉ có quần chúng mới có thể
lật đổ được chế độ cộng sản. Tuy nhiên không ai trong
họ có kinh nghiệm hoạt động công đoàn và hiểu biết về
tình trạng công nhân. Họ nghĩ tới một người hoạt động
dân chủ tại Ba Lan được biết là đã từng hoạt động công
đoàn trong nước. Tất cả phấn khởi vì Ba Lan cũng là nơi mà
công đoàn Đoàn Kết (Solidarnosc) đã lật đổ chính quyền
cộng sản. Họ liên lạc với anh này và được sự đồng tình
vì anh bạn này cũng muốn có "hành động cụ thể hướng vào
quần chúng". Thế là một kế hoạch hoạt động được vạch
ra và tiến hành sôi nổi, trong đó vấn đề cốt lõi là thành
lập một công đoàn độc lập trong nước, một Solidarnosc Việt
Nam. Đại hội thành lập sẽ được tổ chức tại Warszawa vì
đây là địa điểm có ý nghĩa biểu tượng và hơn nữa sẽ
được sự yểm trợ của những gương mặt Ba Lan đã làm ra
lịch sử. Sau khi đã đạt tới đồng thuận trong nhiệt tình
họ đi vào hành động cụ thể và các vấn đề cụ thể bắt
đầu: phải thành lập ra một công đoàn độc lập trong nước
vì chưa có, như vậy phải tìm ra những công nhân hưởng ứng
kế hoạch này và dám thách thức chính quyền bằng cách đứng
ra thành lập một công đoàn độc lập. Đến đây họ lại
khám phá ra là tất cả đều không quen biết một công nhân nào
như vậy. Tuy vậy vấn đề không thể trì hoãn vì ngày dự
định ra mắt tại Ba Lan đã gần kề. Chỉ còn một cách là
nhờ một người bạn trong nước đi tìm những người đủ
dũng cảm để chấp nhận ghi tên mình vào một Công Đoàn Việt
Nam Độc Lập. Kết quả là một danh sách hơn hai mươi người,
trong đó nhiều người chưa biết nhau, có những người không
ưa nhau và không ai đang thực sự là công nhân cả. "Công Đoàn
Độc Lập Việt Nam" chỉ là một danh sách phải lập ra để
cuộc họp mặt Warszawa có danh nghĩa. Nó nhanh chóng chìm vào
quên lãng. Cuộc họp mặt Warszawa đi tới một ủy ban yểm trợ
một công đoàn không hề có, nó chia rẽ ngay sau khi thành lập.
Một vài người kiên trì thấy cần phải đào tạo ra những
công nhân có quyết tâm và có kiến thức cả về hoạt động
công đoàn lẫn đấu tranh cho dân chủ, nhưng họ không được
hưởng ứng vì đây là một cố gắng quá lớn và quá dài. Tìm
ra được những công nhân dám hoạt động đối lập đã khó,
tìm ra những công nhân dám hoạt động và có ý thức chính
trị lạị càng khó hơn, gần như là chuyện không thể có. Sự
nồng nhiệt lắng xuống nhanh chóng, những người tham gia lúc
đầu theo nhau bỏ cuộc và cuối cùng ủy ban yểm trợ cũng
chìm vào quên lãng.

Câu chuyện trên đây có vẻ như chuyện đùa. Nhưng nó có thực
và nó cũng không vô hại. Kế hoạch này đã làm tiêu hao nhiều
thì giờ và nghị lực đáng lẽ phải được đầu tư vào
những hoạt động nghiêm chỉnh; nó cũng đã đưa nhiều thanh
niên có thiện chí trong nước vào hoạn nạn, kể cả vào vòng
lao lý. Ba nươi sáu năm đã trôi qua từ ngày 30-4-1975 nhưng chế
độ cộng sản vẫn còn nguyên vẹn và phong trào dân chủ vẫn
chưa đạt được thành quả nào vì phần lớn những cố gắng
"đấu tranh" đã chỉ tương tự như câu chuyện trên đây.

Hiện nay không những phong trào dân chủ đã không đạt được
kết quả nào mà nó còn nguy cơ sắp tàn lụi nhanh chóng như
một bó đuốc đã cháy hết rơm. Một anh bạn, đứng đắn và
đầy thiện chí, trước đây là một viên chức cao cấp trong
chế độ Việt Nam Cộng Hòa, thở dài khi tôi mời tham gia hoạt
động: "tôi rất quí trọng và hết lòng ủng hộ các anh, nhưng
vấn đề là tôi đã 75 tuổi rồi!".

75 tuổi năm 2011 nghĩa là vào tháng 4 năm 1975 anh chỉ mới có 39
tuổi, chính xác là 38 tuổi rưỡi vì anh sinh cuối năm, như
phần lớn các viên chức và sĩ quan cao cấp của chế độ VNCH.
Anh là một người trung thực và tha thiết với đất nước,
nhưng thời giờ và cố gắng của anh đã được dành cho những
hiệp hội cựu viên chức VNCH, cựu sinh viên, các sinh hoạt
cộng đồng trong đó chủ yếu là văn nghệ và chào cờ, các
cuộc hội thảo chống cộng v.v. Trong khi đó kim đồng hồ vẫn
quay. Thất bại hổ nhục nhất của chế độ VNCH không đến
ngày 30-4-1975, mà sau đó. Hàng nghìn viên chức và sĩ quan cao
cấp ở tuổi cường tráng và hàng chục nghìn trí thức đủ
mọi bộ môn trưởng thành trong chế độ VNCH đã không xây
dựng được gì đáng kể sau hơn ba thập niên trong những
điều kiện hoàn toàn tự do và khá nhiều phương tiên tại
hải ngoại, dù trước mặt họ chỉ là một chính quyền tham
nhũng, bất tài và bất chính. Đó là bằng cớ hùng hồn rằng
chế độ này không có thực chất. Những người như anh bạn
tôi vừa kể là rất hiếm. Anh còn tiếc. Trong tuyệt đại đa
số các viên chức và sĩ quan cao cấp của chế độ VNCH không
có gì để tiếc, họ đã bỏ cuộc ngay sau ngày 30-4-1975. Một
chế độ có chút thực chất, dù chỉ một chút thôi, không
thể như thế.

Trong thời gian trước và sau 1975 tôi có dịp tiếp xúc
với rất nhiều người đã từng giữ những chức vụ cao nhất
trong chính quyền VNCH, dân sự cũng như quân sự, và qua họ tôi
cũng biết luôn những người chưa gặp. Họ cho tôi một nhận
thức đầy đủ về lớp người đã cầm vận mệnh các chế
độ Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa. Trừ các tướng
lãnh, trong đại bộ phận họ đều là những người có bằng
cấp đại học và nói chung cũng là những người tốt trong
cuộc sống bình thường, rất ít người gian và càng ít người
ác. Nhưng tuyệt nhiên họ không biết gì về chính trị, dù
một số người tưởng rằng mình biết. Họ đều chỉ là
những cá nhân, do tình cờ mà quen biết những người tình cờ
được hoàn cảnh đưa lên cầm quyền và vì thế được bổ
nhiệm vào những địa vị lãnh đạo dù không có cả kiến
thức lẫn kinh nghiệm lẫn ý chí chính trị. Bộ phận nòng
cốt của các chính quyền quốc gia là một lớp người riêng do
chế độ thuộc địa Pháp tạo ra, sống tách biệt khỏi xã
hội Việt Nam mà họ không hề cố gắng để hòa nhập, hiểu
biết rất ít về lịch sử và văn hóa Việt Nam, có khi không
thông thạo cả tiếng Việt (tôi chưa gặp một người nào trong
họ nói và viết đúng tiếng Việt). Họ sống co cụm tại Sài
Gòn và cũng cô lập ngay trong thành phố này. Dù có thể đang
giữ những chức vụ chính trị rất quan trọng họ vẫn tự
nhận một cách hãnh diện là không làm chính trị và không ưa
những người hay thắc mắc về chính trị. Họ có thể nhận,
thậm chí chạy chọt để có, những chức vụ mà họ không hề
có chút khả năng nào để đảm nhiệm. Đối với họ chức
vụ trước hết là danh vọng và quyền lợi, những người tốt
nhất cũng chỉ có một tinh thần trách nhiệm rất giới hạn.
Hầu như không ai cảm thấy có trách nhiệm với quần chúng
Việt Nam mà họ nhìn như một khối người xa lạ. Các tướng
lãnh có thể tìm cách cho con trốn lính, các ông bộ trưởng
giáo dục có thể cho con đi học trường Pháp mà không hề
thấy có nhu cầu phải giải thích với ai cả. Họ cũng không
thuộc một tổ chức chính trị đúng nghĩa nào mà chỉ là
những cá nhân làm chính trị trong thời gian ngắn ngủi giữ
những chức vụ chính trị. (Đến đây xin mở một ngoặc đơn
về trường hợp Đảng Đại Việt, chia rẽ làm ba hệ phái.
Đảng này không phải là một chính đảng đúng nghĩa vì các
đảng viên cao cấp chỉ hành động như những nhân sĩ. Các ông
tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, thủ tướng Trần Thiện Khiêm
và nhiều bộ trưởng và tướng lãnh khác cũng là đảng viên
Đại Việt nhưng họ hoàn toàn không coi đảng là gì cả. Nhìn
từ bên ngoài Đại Việt chỉ là kết hợp lỏng lẻo của
những người trên lời nói chấp nhận giúp nhau thăng tiến
trong lòng chế độ VNCH). Trong sinh hoạt chính trị các cấp
lãnh đạo VNCH chỉ là những nhân viên tạm thời không tay
nghề đến với hoạt động chính trị để có một chút công
danh. Họ làm chính trị như thế rồi nghĩ rằng làm chính trị
là mánh mung và không thích chính trị. Anh bạn mà tôi nói ở
phần trên xuất phát từ thành phần trung lưu, vươn lên nhờ
học vấn và chuyên cần nhưng cũng chỉ lên được tới chức
vụ anh đã giữ nhờ đã hội nhập với "môi trường", nghĩa
là không bộc lộ những thắc mắc về chính trị. Những viên
chức và sĩ quan như anh ngày càng nhiều trong chế độ VNCH
nhưng họ chưa đạt được tới những địa vị quyết định.
Nếu chế độ VNCH kéo dài thêm mười năm nữa thì tình hình
có thể thay đổi, nhưng lịch sử đã sang trang ngày 30-4-1975.

Sau ngày đó tôi lại có dịp tiếp xúc với nhiều trí thức
miền Bắc và lại càng thất vọng hơn. Một số nhắc lại
một cách ngớ ngẩn những giáo điều Mác-Lênin, tất cả không
những mù tịt về chính trị mà còn thiếu ngay cả những kiến
thức rất sơ đẳng về thế giới, kể cả về Trung Quốc và
Liên Xô. Chỉ sau một thời gian ngắn tôi có thể nhận ra là
trí thức chẳng có vai trò gì trong guồng máy cộng sản, đã
thế còn bị bưng bít và khống chế; qua những tâm sự riêng
tư họ tỏ ra rất bất mãn nhưng ngoài mặt vẫn tâng bốc chế
độ bằng ngôn ngữ của lưỡi gỗ.

Nói rằng trí thức Việt Nam không biết gì về chính trị có
thể sẽ bị nhiều người cho là nói quá đáng. Nhưng sự thực
là như thế. Họ không biết điều căn bản nhất trong những
điều phải biết về chính trị, đó là hoạt động chính trị
không bao giờ là có thể là hoạt động cá nhân cả mà luôn
luôn phải là hoạt động có tổ chức. Điều này đúng cho
mọi hoạt động, nhưng đặc biệt đúng trong hoạt động chính
trị, và đúng một cách tuyệt đối cho đấu tranh chính trị.
Họ cũng không hiểu một điều rất cơ bản khác là không thể
có một chế độ dân chủ nếu không có các chính đảng đúng
nghĩa. Không hiểu được những điều cơ bản này đã là
nguyên nhân của nhiều ngộ nhận lớn khác. Thí dụ, chính trong
khi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh để xây dựng một chính
đảng người ta sẽ hiểu rằng một chính đảng đúng nghĩa
chỉ có thể xây dựng được nếu được quan niệm như một
dụng cụ để thể hiện một tư tưởng chính trị nghiêm túc
và để thực hiện một dự án chính trị đúng đắn, và dù
vậy cũng chỉ có thể là thành quả của những cố gắng xây
dựng bền bỉ trong nhiều năm. Không có tư tưởng chính trị
thì không xây dựng được đảng và nếu đã có cũng không
giữ được – ĐCSVN đang mất thực chất để chỉ còn là
một hư cấu vì đã mất lý tưởng. Và nếu không có tổ chức
chính trị thì cũng rất khó có kiến thức chính trị bởi vì
tổ chức là môi trường bắt buộc để trao đổi và học hỏi
những kiến thức chính trị. Mọi tổ chức đều là môi
trường sản xuất và sàng lọc ý kiến, nhưng tổ chức chính
trị, hay chính đảng, là môi trường không có không được
để có những ý kiến đúng về đấu tranh chính trị. Không có
chính đảng đúng nghĩa người ta chỉ có thể hụt hẫng, làm
những việc hời hợt phù phiếm mỗi khi ngứa ngáy thấy cần
hoặc có thể hành động. Một cách cụ thể, các vị trí thức
đã được nói tới ở phần đầu bài này nếu đã sinh hoạt
trong một tổ chức chính trị đúng nghĩa đã không hành động
như họ đã hành động. Họ đã hiểu rằng không thể vận
động quần chúng như thế; quần chúng chỉ đứng dậy đấu
tranh nếu thấy có một tổ chức đủ mạnh để lãnh đạo họ
và cho họ niềm tin vào thắng lợi chắc chắn. Họ cũng sẽ
biết rằng thành phần công nhân tại Việt Nam còn phải được
chuẩn bị rất nhiều trước khi có thể động viên. Và họ
cũng sẽ không bị hớp hồn trước không khí tưng bừng của
những đám đông hàng triệu người hoan hô những cuộc cách
mạng đã thành công, vì họ sẽ hiểu rằng không phải vì
được quần chúng xuống đường ủng hộ mà các cuộc cách
mạng đó đã thành công, trái lại quần chúng đã xuống
đường ủng hộ vì chúng đã thành công, và chúng đã thành
công nhờ sự phấn đấu kiên trì của một tổ chức.

Tại sao Việt Nam vẫn không trút bỏ được một trong những
chế độ độc tài tồi tệ nhất thế giới? Dứt khoát không
phải là vì dân trí chúng ta thấp hay chí khí dân ta hèn. Cũng
không phải vì chính quyền cộng sản quá hung bạo, họ không
dám và cũng chưa cần đàn áp đẫm máu. Lý do chỉ là vì chúng
ta tuy có khá nhiều trí thức chuyên môn nhưng lại thiếu một
lớp trí thức chính trị, nghĩa là một lớp người trăn trở
vì sự trở thành của đất nước, đầu tư vào cố gắng học
hỏi tư tưởng chính trị và phương thức đấu tranh chính
trị, sẵn sàng dấn thân để đất nước được quản trị
một cách hợp lý dù phải trả giá đắt, và trong mọi trường
hợp không chấp nhận phục tùng sự tồi dở để được
những quyền lợi. Sự thiếu vắng này rất tai hại vì bất
cứ một cuộc đổi đời nào cũng phải do trí thức lãnh
đạo, dù là trí thức tự học hay trí thức được đào tạo
một cách chính qui. Nó là do một di sản văn hóa. Trong hàng
ngàn năm thay vì những trí thức chúng ta đã chỉ có những kẽ
sĩ mà mộng đời chỉ là được bán rẻ phẩm giá, được quì
xuống để làm tôi tớ không điều kiện cho những vua chúa;
những người đậu những khoa thi thơ phú được bổ nhiệm làm
quan cai trị. Làm chính trị như thế chỉ là làm quan và làm
quan chỉ là để có danh vọng chứ không phải để phục vụ
nhân dân. Chúng ta không có chính trị vì thế đã không có trí
thức chính trị. Những người trí thức chính trị đúng nghĩa
tự nhiên biết phải học hỏi những gì, để biết phải làm
gì và làm như thế nào trong mỗi giai đoạn. Trong giai đoạn
hiện nay họ sẽ hiểu ngay là phải xây dựng những tổ chức
dân chủ và sẽ đánh giá mọi hoạt động theo tiêu chuẩn
chúng đóng góp gì cho tiến trình xây dựng một lực lượng
dân chủ lành mạnh. Chúng ta chia rẽ và phân tán, với hậu
quả tự nhiên là bất lực, vì thiếu những trí thức chính
trị. Đó là bài học mà đáng lẽ chúng ta đã phải biết từ
lâu nhưng vẫn không chịu rút ra sau chiến thắng cộng sản năm
1975, sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, và hình như cho
tới bây giờ vẫn chưa chịu học.

Phải làm những cố gắng nào để xây dựng được một tổ
chức dân chủ mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên là phức tạp và
vượt khuôn khổ của bài viết này nhưng trước hết có hai
cố gắng mà người trí thức Việt Nam phải làm để trở
thành một trí thức chính trị và góp phần xây dựng lực
lượng dân chủ.

Thứ nhất là phải cố gắng vươn mình lên cao hơn. Nếu mộng
ước của chúng ta chỉ nhỏ bé như một chức vụ và một
quyền lợi nào đó thì giải pháp hay nhất là luồn lách. Chỉ
khi có những ước mơ lớn như đổi hướng đi của lịch sử,
cải thiện đời sống và đem lại tự do, phẩm giá và chỗ
đứng xứng đáng trên thế giới cho dân tộc chúng ta mới
thấy mơ ước vượt quá sức mình và mới thấy cần phải có
tổ chức dù phải nhọc nhằn, gian lao.

Thứ hai là phải cố gắng sống thực với mình. Cho tới nay
hình như điều quan trọng đối với trí thức Việt Nam không
phải là những gì mình nghĩ về mình mà là cái nhìn của
người khác về mình. Một trí thức Việt Nam có thể làm
những điều rất tồi tàn mà không thấy xấu hổ trừ khi bị
phát giác. Kết quả là chúng ta đóng kịch, đeo mặt nạ và
nói dối với nhau. Những con người như thế không thể xây
dựng được với nhau một tổ chức lâu bền vì trong sinh hoạt
chung cuối cùng con người thực bắt buộc phải xuất hiện. Lý
do chính khiến cho đến nay những người dân chủ chỉ có
những hợp tác lỏng lẻo và tạm bợ là vì họ không đến
với nhau bằng căn cước thực.

Đất nước không phải đã không cơ hội lớn. 1945, 1954, 1975,
1989 đã là những cơ hội bị bỏ lỡ vì chúng ta thiếu những
trí thức chính trị.

Ngày nay chúng ta lại sắp có một cơ hội lớn khác. Một là
sóng dân chủ mới, làn sóng dân chủ thứ tư, đã bắt đầu
tại Bắc Phi và Trung Đông và chắc chắn sẽ tới Việt Nam.
Trái với nhận định bi quan của một số người làn sóng dân
chủ này sẽ tràn khắp thế giới. Không thể khác. Từ khi chủ
nghĩa cộng sản, và khái niệm chủ nghĩa nói chung, sụp đổ
tất cả các chế độ độc tài đều trở thành nhảm nhí;
chúng không còn gì để đề nghị và thuyết phục, thậm chí
để lừa bịp. Chúng chỉ còn là những tập đoàn trấn lột
thuần túy dựa trên đàn áp. Chúng đã kéo dài được cho tới
nay chỉ vì thế giới cần một thời gian để tiêu hóa những
thắng lợi sau khi phong trào cộng sản sụp đổ, nhưng thời
gian ơn huệ này đang chấm dứt. Chúng ta phải cảnh giác để
đừng lỡ tầu một lần nữa. Ngay từ bây giờ những chuyển
động trong vùng này đã rất đáng để chúng ta suy ngẫm.

Một trí thức gần đây nói với tôi: "Những biến cố ở các
nước Trung Đông và Bắc Phi đang phủ nhận những gì các anh
thường nói. Rõ ràng là các dân tộc này đã không cần một
tổ chức dân chủ mạnh nào mà vẫn đánh đổ được các chế
độ độc tài. Họ chỉ nhờ những phương tiện truyền thông
hiện đại, Cell phone, Facebook, Twitter mà đã động viên được
quần chúng đứng dậy". Đây là một trường hợp điển hình
của tâm lý lấy ước mơ làm sự thực và viện mọi lý do
để né tránh điều mình thấy là khó. Không ai chối cãi công
dụng của Facebook nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng
nhất. Để chuyển biến tư tưởng và động viên quần chúng
vai trò của nó không thấm vào đâu so với những bản tin và
những bài bình luận phát đi từng giờ với phẩm chất rất
cao của đài truyền hình Al Jareera. Các chế độ độc tài
Tunisia và Ai Cập không phải đã sụp đổ vì quần chúng xuống
đường, chúng thừa sức và sẵn sàng để đàn áp nhưng quân
đội đã trở mặt và không cho chúng đàn áp. Quân đội đã
khuyến khích và bảo vệ các cuộc xuống đường chủ yếu do
tác động của Mỹ và Châu Âu mà quyền lợi gắn bó mật
thiết với các nước trong vùng và nhận định chiến lược
mới là phải chủ động tiến trình dân chủ hóa vì đó là
điều kiện để có ổn vững lâu dài. Tại những nước mà
Mỹ và Châu Âu không có ảnh hưởng trên quân đội -như Libya
và Syria- cuộc đấu tranh giành dân chủ đã rất khó khăn. Tuy
vậy Tunisia và Ai Cập vẫn chưa có dân chủ. Tiếp theo độc
tài là quân luật để ngăn ngừa bạo loạn. Trên thực tế
trong một thời gian không biết sẽ còn kéo dài bao lâu họ đang
chịu đựng một chế độ quân phiệt. Và chúng ta cũng sẽ
thấy là ngay cả sau khi một chế độ dân chủ chính thức
được thành lập các quốc gia này sẽ phải trải qua một giai
đoạn bối rối và trì trệ rất dài trước khi có được
những chính đảng đúng nghĩa.

Cuộc cách mạng dân chủ tại Bắc Phi và Trung Đông đã chỉ
nhắc lại một lần nữa điều mà chúng ta đã phải tâm niệm
từ lâu. Đó là nếu không có được những chính đảng đúng
nghĩa thì ngay cả nếu nhờ may mắn mà có được dân chủ,
một điều sẽ không xẩy ra tại Việt Nam, cũng không xây dựng
được dân chủ và ách độc tài chỉ nhường chỗ cho bất ổn
trong một thời gian có thể rất dài.

Nguyễn Gia Kiểng
(5-2011)

<strong>Ghi Chú.</strong> Bài này viết cho dịp kỷ niệm 30-04-1975
nhưng vì Web Thông Luận bị phá hoại nên đã không thể phổ
biến đúng lúc.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8905), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét