<ul>
<li><a href="http://danluan.org/node/373">Fukuzawa - Thoát Á
Luận</a></li>
</ul></div>
<h2>1. Ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc</h2>
Ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc có thể chia thành hai thời
kỳ: Thời kỳ 1.000 năm Trung Quốc đô hộ cổ Việt và thời
kỳ đất nước chúng ta độc lập từ năm 938 cho đến thế
kỷ 20.
Trong một ngàn năm đô hộ, người Trung Quốc áp đặt nền văn
hóa Hán tộc là chuyện bình thường. Tuy vậy, trong thời kỳ
này người Trung Quốc chú trọng nhiều đến việc khai thác và
bóc lột kinh tế hơn là việc phát triển văn hóa. Trung Quốc
không tổ chức thi cử để tuyển lựa nhân tài địa phương
cổ Việt, nên người Việt ít chú trọng đến việc học chữ
Hán, vì học chẳng làm gì cả.
Trong thời kỳ độc lập, từ Ngô Quyền trở đi, các triều
đình Việt sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thức, dầu
người Việt vẫn nói tiếng Việt. Nền văn hóa Hán tộc chẳng
những tiếp tục được truyền bá, mà còn được truyền bá
mạnh hơn, nhất là từ năm 1075, nhà Lý mở khoa thi tam trường
đầu tiên để tuyển chọn quan lại. Thi cử được các triều
đại quân chủ tiếp tục tổ chức cho đến đầu thế kỷ 20.
Thi cử là phương pháp tuyển chọn nhân tài dân chủ, đồng
thời thi cử là con đường duy nhất để ra làm quan, nên từ
khi có thi cử Hán học ở nước ta, thì có nhiều người theo
đuổi việc học chữ Hán và nền văn hóa Hán tộc để tiến
thân. Chương trình thi cử chủ yếu là các bộ sách Nho học,
cộng thêm lịch sử Trung Quốc và một ít lịch sử nước Nam.
Các bộ sách giáo khoa nho học là Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư
gồm Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử. Ngũ Kinh gồm
có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. Xã hội
Nho giáo dựa trên căn bản ba mối quan hệ căn bản trong đạo
làm người (tam cương) là quân thần (vua tôi), phu phụ (chồng
vợ) và phụ tử (cha con). Trong ba mối quan hệ này, thì đạo
quân thần (vua tôi) là lớn nhất. Vua là trung tâm của mọi sinh
hoạt xã hội, đứng đầu xã hội.
Chế độ quân chủ Hán tộc khác với chế độ quân chủ Tây
phương ở chỗ trong nền quân chủ Hán tộc, vua là "con
trời" (thiên tử), vừa nắm thế quyền, cai trị đất nước,
vừa nắm thần quyền, phong chức thần linh. Ở Tây phương, vua
chỉ nắm thế quyền. Thần quyền thuộc về giáo hội Ky-Tô.
<h2>2. Phan Châu Trinh và cuộc ly khai văn hóa Hán tộc</h2>
Như đã trình bày, tuy các triều đại quân chủ dùng chữ Hán
làm chuyển ngữ, nhưng người Việt vẫn nói tiếng Việt.
Tiếng Việt là kỳ quan biểu tượng cho tinh thần độc lập
của dân tộc Việt. Từ thế kỷ 17, khi đến truyền đạo tại
Đại Việt, các giáo sĩ Ky-Tô giáo La Mã ký âm tiếng Việt
bằng mẫu tự La-tinh, sáng chế một văn tự mới là Quốc
ngữ. Lúc đầu, Quốc ngữ chỉ được truyền bá trong khuôn
viên giáo đường. Khi người Pháp xâm chiếm 6 tỉnh Nam Kỳ làm
thuộc địa năm 1874, vì nhu cầu cai trị, người Pháp sử dụng
chữ Quốc ngữ. Trong thuộc địa Nam Kỳ, Pháp bãi bỏ hoàn
toàn chữ Hán ngày 01/01/1882, chỉ sử dụng chữ Pháp và Quốc
ngữ.
Bảo hộ Trung và Bắc Kỳ năm 1884, do chủ trương khai thác và
bóc lột, Pháp giới hạn việc mở mang giáo dục tại vùng
đất bảo hộ, chỉ lập một số trường Pháp cần thiết,
dạy chữ Pháp để đào tạo lớp quan lại mới cho chế độ
mới. Pháp vẫn để triều đình Huế duy trì thi cử Hán học
ở Trung và Bắc Kỳ.
Trong hoàn cảnh đó, qua đầu thế kỷ 20, dầu đã đậu phó
bảng Hán học năm 1901, khi dấn thân hoạt động duy tân để
mở mang đất nước năm 1904, Phan Châu Trinh (1872-1926) đưa ra
chủ trương "chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh". Để
mở đầu cuộc khai dân trí nhằm chấn dân khí và hậu dân
sinh, đầu tiên Phan Châu Trinh vận động từ bỏ "cái học
cũ". Muốn từ bỏ "cái học cũ", việc đầu tiên Phan Châu
Trinh chủ trương là bãi bỏ việc học chữ Hán, và bãi bỏ
việc dùng chữ Hán, đồng thời từ bỏ luôn thi cử Hán học.
Từ bỏ thi cử Hán học, tức từ bỏ việc học và truyền bá
văn hóa Hán tộc. Lời kêu gọi sĩ tử không tham dự các kỳ
thi Hán học hùng hồn nhất là bài "Chí thành thông thánh
thi", do Phan Châu Trinh viết và bài "Danh sơn lương ngọc
phú" do Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng cùng viết năm 1905
tại Quy Nhơn.
Thay thế chữ Hán, ông kêu gọi sử dụng Quốc ngữ. Quốc ngữ
gồm 24 chữ cái trong mẫu tự La-tinh, có thể dùng để lắp
ghép tất cả các từ ngữ trong tiếng Việt, nên rất giản
dị, dễ học, dễ viết, dễ sử dụng, dễ truyền bá văn hóa,
tư tưởng, khoa học kỹ thuật. Tại Quảng Nam, Phan Châu Trinh
cùng Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng và các trí thức cấp
tiến vận động mở rất nhiều trường dạy Quốc ngữ ngay
từ năm 1904. Trường Dục Thanh ở Phan Thiết và Đông Kinh Nghĩa
Thục ở Hà Nội đều do Phan Châu Trinh vận động thành lập.
Bản thân Phan Châu Trinh cũng làm thơ, viết văn, viết báo bằng
Quốc ngữ.
Cuộc vận động của Phan Châu Trinh bắt đầu từ 1904, mà cho
đến năm 1919, Pháp mới bỏ các kỳ thi Hán học và cho đến
gần cuối đời Phan Châu Trinh, chữ Quốc ngữ mới được
chính thức phổ cập ở bậc tiểu học bằng nghị định ngày
18-9-1924 của toàn quyền Martial Merlin. Từ đây, Quốc ngữ trở
thành chữ viết chính thức của người Việt và cũng từ đây
xuất hiện nền văn học Quốc ngữ, những tác phẩm văn
chương, học thuật, nghiên cứu Việt Nam…
Về xã hội, Phan Châu Trinh kêu gọi bãi bỏ những hủ tục
trong văn hóa Hán tộc, bỏ thói để tóc dài (búi tó) theo kiểu
người Trung Quốc, bỏ quan niệm thứ tự xã hội theo tứ dân,
sĩ nông công thương, mà kêu gọi mọi người cùng nhau học
những nghề kỹ thuật, học cách thức buôn bán theo kiểu Tây
phương.
Về chính trị, Phan Châu Trinh đả kích mạnh mẽ chế độ quân
chủ "thiên tử" từ Trung Quốc truyền sang. Theo Phan Châu
Trinh, chế độ quân chủ là một chế độ nhân trị. Ông giải
thích: "<em>Nhân trị nghĩa là cai trị một cách rộng rãi hay
nghiêm khắc, chỉ huy tùy theo lòng vui, buồn, thương, ghét của
một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không</em>". Do
đó, nếu đất nước may mắn gặp một ông vua anh hùng, thì
đất nước hưng thịnh, nhưng nếu đất nước không may mắn,
gặp một ông vua hôn ám, thì đất nước suy sụp. Nói cách
khác, chế độ quân chủ là một chế độ tùy hứng cá nhân
người cai trị.
Thay vào đó, Phan Châu Trinh đề nghị thành lập chế độ dân
chủ pháp trị, có hiến pháp, có quốc hội, có tổng thống và
có quyền tư pháp độc lập. Theo ông, trong chế độ dân chủ
pháp trị, "<em>quyền lợi và bổn phận của mọi người trong
nước đều có pháp luật chỉ định rõ ràng, không khác gì là
đã có đường gạch sẵn, cứ trong đường ấy mà đi tự do,
muốn bước tới bao nhiêu cũng không ai ngăn cản, chỉ trừ khi
nào xâm lấn đến quyền lợi của người khác thì không
được. Vì đối với pháp luật thì mọi người đều bình
đẳng, không có ai là quan, ai là dân cả.</em>" (Phan Châu Trinh,
"Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".)
Một khái niệm mới được Phan Châu Trinh đưa vào sinh hoạt
chính trị Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là ông đề xướng
dân quyền. Theo ông, dân quyền sẽ là đầu tàu thúc đẩy tất
cả những cải cách chính trị, kể cả việc đòi hỏi độc
lập từ tay người Pháp vì <em>"dân đã biết có quyền thì
việc khác có thể tính lần được</em>".
Như thế, trong 1.000 năm Bắc thuộc, tổ tiên chúng ta đã bị
Trung Quốc áp đạt nền văn hóa Hán tộc. Sau đó, tuy đất
nước chúng ta độc lập về chính trị, nhưng lại lệ thuộc
văn hóa Hán tộc vì trong gần một ngàn năm độc lập, các
triều đại quân chủ chọn chữ Hán làm văn tự chính thức,
đưa vào chương trình học thuật các sách vở Trung Quốc, và
đã đào tạo tầng lớp trí thức theo văn hóa Hán tộc. Lớp
trí thức này làm quan và điều hành xã hội cũng theo văn hóa
Hán tộc.
Cho đến khi nền văn hóa Tây phương truyền vào nước Việt,
Phan Châu Trinh và các nhà trí thức cấp tiến vào đầu thế
kỷ 20 mới thấy rõ nền văn hóa Hán tộc là trở ngại chính
cho sự tiến bộ của dân tộc. Do đó, các ông cương quyết
kêu gọi từ bỏ chữ Hán, chấm dứt ý thức hệ quân chủ,
dứt khoát ly khai với nền văn hóa Hán tộc, nhằm mở hướng
đi mới, canh tân đất nước, tiến lên chế độ dân chủ.
Cuộc ly khai văn hóa Hán tộc do Phan Châu Trinh đề xướng là
con đường thiết thực, mở rộng cánh cửa văn hóa cho sự
phát triển đất nước. Nếu không có cuộc mở đường của
Phan Châu Trinh, một mặt giới thủ cựu Việt Nam cố duy trì
nền văn hóa Hán tộc nhằm duy trì quyền lợi, một mặt
người Pháp tránh mở mang văn hóa, làm cho Việt Nam chậm tiến,
để dễ bề thống trị, thì nước Việt chúng ta vốn đã
chậm tiến, tiếp tục chậm tiến lâu ngày nữa. Có thể nói,
quyết định ly khai văn hóa Hán tộc, chấm dứt việc học chữ
Hán, văn hóa Hán, chế độ quân chủ kiểu Hán, đã lót
đường cho các phong trào văn hóa, văn học và chính trị từ
thời Phan Châu Trinh trở về sau.
Cần chú ý, ngày trước, tuy các triều đình sự dụng chữ Hán
làm chuyển ngữ, nhưng các triều đình hoàn toàn độc lập
với vua chúa Trung Quốc. Ngày nay, chữ Hán không còn được sử
dụng, nước nhà tuy nói là hoàn toàn độc lập, nhưng giới
lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại lệ thuộc nặng nề nhà
cầm quyền cộng sản Trung Quốc, dâng đất dâng biển cho cộng
sản Trung Quốc. Nếu chữ Hán vẫn còn được sử dụng, thì
mức độ lệ thuộc chắc chắn còn mạnh mẽ nặng nề hơn
nữa.
Như thế mới thấy viễn kiến sáng suốt của Phan Châu Trinh
cách đây một trăm năm, phải dứt khoát ly khai khỏi văn hóa
Hán tộc.
Trần Gia Phụng
(Tham luận trình bày trong Lễ Giỗ Phan Châu Trinh ngày 27/03/2011
tại Nam Cali)
© Thông Luận 2011
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8434), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét