đã được biết đến một cách rộng rãi. Nhưng cụm từ này
có nghĩa chính xác là gì? Làm sao có thể tiến hành một
"phiên tòa" - mà ai cũng biết là dối trá - để bề ngoài
nó vẫn có vẻ hợp thức?</em>" - bài viết của tác giả Tomka
Ferenc rọi sáng một số nét nhục nhã của nền tư pháp Hungary
trong những năm cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 thế kỷ
trước.
<center><img src="http://danluan.org/files/u1/1301944284.nv_.jpg" width="500"
height="313" alt="1301944284.nv_.jpg" /></center>
<center><em>Phiên tòa đựoc dàn dựng để xử Đức Hồng y
Mindszenty József, một nhân vật tầm cỡ của lịch sử và Giáo
hội Hungary thế kỷ XX </em></center>
Trong một vụ án ngụy tạo, điều quan trọng nhất là mục
tiêu được đặt ra. Đảng Cộng sản có nhiều mục tiêu, trong
đó, có mục tiêu hủy diệt Giáo hội Công giáo. Đảng chia
mục tiêu tối thượng ra thành nhiều bước, như: đình chỉ
các tổ chức, các trường sở Công giáo, các dòng tu, cũng như,
khống chế ban lãnh đạo Giáo hội.
Làm sao có thể đạt được các mục tiêu đó? Để tấn công
và hủy diệt các cơ sở, trường sở Công giáo, chẳng hạn,
cần lựa ra các thanh niên theo học trường Công giáo, hoặc các
lãnh đạo của tổ chức Công giáo, và chứng tỏ rằng họ là
những tên sát nhân, vô đạo đức, dối trá, có âm mưu lật
đổ chính quyền nhà nước, v.v...
Chúng ta đã thấy, trước phiên tòa xử Đức Hồng y Mindszenty
(1), đã diễn ra nhiều phiên tòa khác mà mục tiêu là để xóa
bỏ các tổ chức và trường sở Công giáo. Về căn bản, với
những phương pháp của các phiên tòa ngụy tạo, những lời
buộc tội "được đề xuất" nhắc đến ở trên đều
được "chứng tỏ".
<h2>"Cơ sở pháp luật" và "phương thức chứng minh"</h2>
Có thể thiết lập cơ sở pháp luật như thế nào để căn cứ
vào đó, người ta đã khởi động những vụ án được dàn
dựng?
<h3>1. Ai chống cộng, kẻ đó là "phản động". </h3>
Cơ sở pháp luật đầu tiên cho những vụ án sắp đặt được
thiết lập bởi cái gọi là Đạo luật Đao phủ, ra ngày
23-3-1946. Theo đó, một tuyên bố chống lại thể chế nhà
nước cộng sản - trong thực tế, có thể là chống lại CNCS
hoặc các lãnh tụ cộng sản -, hoặc giả, ngay cả một trao
đổi riêng cũng đồng nhất với việc kích động chống thể
chế nhà nước và sẽ bị án tù nặng nề. Nghĩa là, nếu ai
đó bị chứng tỏ là không đồng tình với CNCS thì đã có
thể đưa người ấy ra tòa.
Lenin và những kẻ nối nghiệp cho rằng những gì phục vụ
lợi ích của đảng thì đều là đạo đức. Và trong các
trường hợp cụ thể thì từng nhà độc tài sẽ xác định
xem, điều gì được coi là phục vụ lợi ích của đảng.
<h3>2. Áp dụng một cách phi pháp những lời khai thú nhận tội
trạng. </h3>
Các vụ án sắp đặt được dựa trên cơ sở những lời buộc
tội hoàn toàn dối trá. Chẳng hạn, Đức Hồng y Mindszenty bị
kết tội phản quốc, âm mưu chống thể chế nhà nước, buôn
lậu ngoại tệ, còn trong vụ án xét xử các tổ chức, trường
sở Công giáo hoặc các nhà tu hành, người ta buộc tội các tu
sĩ - trong các cuộc xưng tội - đã khích lệ giới trẻ đi
giết người, hoặc đã tổ chức các âm mưu chống thể chế
nhà nước, v.v...
Làm sao có thể chứng tỏ những lời tội danh này?
Trong các vụ án ngụy tạo, những lời khai thú nhận tội
trạng là các bằng cứ chính yếu nhất của lời buộc tội. A.
Visinsky - Viện trưởng Viện Kiểm sát Tối cao Liên Xô một
thời - là người đi đầu trong việc đề xuất thứ lý thuyết
giết người, coi điều có thể xảy ra là một thực tế tất
yếu, và xác định tội trạng dựa trên những lời khai nhận
tội.
Cho dù, trong thực tế luật pháp của các nước văn minh, lời
khai thú nhận tội trạng cùng lắm chỉ được tính như một
yếu tố giảm tội, không được coi là yếu tố buộc tội và
càng không bao giờ là bằng cứ. Việc chứng tỏ hành vi phạm
tội là nhiệm vụ của đại diện bên nguyên, chứ không phải
của bị can. Cũng như các nước XHCN khác, cách áp dụng luật
kiểu Xô-viết - thực tế là dẫm lên luật pháp - đã được
chế độ độc tài Hungary nhập khẩu.
Rõ ràng là nếu lời khai nhận tội đủ để được coi là
bằng cứ thì khi đó, đối với chính quyền, chỉ còn duy nhất
một vấn đề: có thể dùng nhục hình hay biện pháp vũ lực
nào khác để buộc bị can phải khai ra những gì mà những
người tổ chức vụ án muốn nghe ở đương sự. Sau đó, cũng
có thể đưa ra trước thế giới lời khai này. Và ở đây, có
thể hiểu được những sự hành hạ khủng khiếp về thể xác
và tinh thần mà các bị can của những vụ án ngụy tạo đã
phải trải qua.
<h3>3. Sự độc lập của cơ quan tư pháp và hoạt động tư
pháp.</h3>
Hẳn nhiên, đây là điều đã hoàn toàn bị thủ tiêu! Các
thẩm phán và trạng sư đều chịu sự chỉ đạo và tuân thủ
mệnh lệnh trực tiếp của đảng, của ÁVO (<em>Phòng An ninh
Quốc gia, cơ quan mật vụ chính trị Hungary thời đó - ND</em>).
<h2>Sự tiến hành các phiên tòa </h2>
Thoạt tiên, Ban lãnh đạo đảng cũng lên kế hoạch cần bắt
những người như thế nào để phù hợp với các mục tiêu mà
nhất thời đảng coi là quan trọng. Và tất nhiên, đảng cũng
chuẩn bị để trước và sau vụ án - bằng truyền thông và
với những khả năng mà đảng có thể tác động đến các giai
tầng khác nhau - làm sao có thể gây ảnh hưởng tới công
luận, khiến phiên tòa được hiện diện phù hợp với mục
tiêu được đề ra.
Sau đó, đến tiết mục bắt bớ, rồi "chuẩn bị" cho các
bị can, nhân chứng, thảo ra những "lời khai" để các bị
can phải "thú nhận".
Nhiều khi, người ta hứa với bị can rằng nếu khai nhận
những gì mà họ muốn nghe từ đương sự, đương sự sẽ
nhận được phán quyết nhẹ hơn, hoặc thậm chí có thể
được trả tự do. Rồi, căn cứ những lời khai thú tội, bị
can đã bị án tử hình! Nhiều bị can và nhân chứng đã chịu
số phận như thế, trong đó có cả lãnh tụ cộng sản Rajk
László (2).
<h2>Một ví dụ "chết người"</h2>
Nhắc lại một ví dụ đặc thù sau đây để thấy tính phi lý
trong cái "quy trình" của các vụ án được dàn dựng.
Trong vụ án xử tổng giám mục Grösz (3), một tu sĩ Công giáo
tên là Vezér Ferenc bị quàng vào và kết án tử hình. Người ta
buộc tội ông đã thành lập một nhóm có vũ trang để sát
hại các quân nhân Liên Xô và nhóm này đã giết hại nhiều
lính Nga. Để chứng tỏ lời cáo buộc dối trá này, 15 người
đàn ông sinh sống tại vùng mà Vezér Ferenc tu hành đã bị bắt
để sau đó đóng vai trò các thành viên "nhóm giết người"
và các nhân chứng.
Péter Gábor, người đứng đầu ÁVO bảo những người bị lựa
chọn để trở thành các "nhân chứng" giả mạo: "Chúng
tôi biết các anh vô tội và không muốn bỏ tù các anh đâu -
đối tượng của chúng tôi là lũ thày tu phản động bóc lột
nông dân thuộc Giáo hội Công giáo kia. Chỉ cần khai những gì
chúng tôi bảo, thì sẽ không ai hành hạ các anh cả. Ở đây,
các anh cũng sẽ được ăn uống đầy đủ, có cả thuốc lá
nữa. Sau vụ án thì sẽ được về nhà".
Trong số các "nhân chứng", đã có 2 người do ÁVO cài cắm
vào từ trước: họ "khai" trơn tru tất cả những gì cần
nói, và còn "khai" ra "tội trạng" của các "đồng
phạm". Cái trớ trêu trong thứ logic của vụ án ngụy tạo
này là những nông dân "bất trị" - và những người từ
đầu đến cuối vẫn khẳng định mình và vị tu sĩ vô tội -
thì "chỉ" bị án tù chung thân (rồi được tự do năm 1956).
Còn tất cả những người khai rằng mình có tội – kể cả
các "tay trong" của cơ quan mật vụ chính trị, được cài
vào từ đầu, cùng các "nhân chứng" và 8 "thành viên"
của "nhóm giết người" - thì đều bị án tử hình. Tu sĩ
Vezér Ferenc cũng bị tử hình: những ngón đòn tra tấn kinh
hoàng nhất cũng không khiến ông khuất phục và đến giây phút
cuối cùng, ông vẫn khẳng định mình hoàn toàn vô tội! (4)
Trần Lê chuyển ngữ và chú giải
<h2>Ghi chú: </h2>
(1) Mindszenty József (1892-1975): Hồng y Giáo chủ Hungary, Tổng
giám mục địa phận Esztergom. Năm 1949, dựa trên những lời
buộc tội bịa đặt, ông bị chính quyền kết án chung thân
trong một vụ án được sắp đặt. Được tự do năm 1956 khi
cuộc cách mạng diễn ra. Khi quân đội Liên Xô tràn vào Hungary,
ông bị truy đuổi, phải trốn chạy vào tòa đại sứ Mỹ ngày
4-11-1956 và ở đó đến năm 1971. Sau đó ông qua Rome và sống
lưu vong đến khi mất.
(2) Rajk László (1909-1949): lãnh tụ cộng sản, Bộ trưởng Nội
vụ (1946), Ngoại trưởng Hungary (1948-49). Sáng lập cơ quan mật
vụ chính trị ÁVO, chủ trương cấm đoán và đình chỉ hoạt
động rất nhiều tổ chức theo xu hướng tôn giáo, dân tộc và
tự do.
Là người tổ chức những vụ án ngụy tạo đầu tiên tại
Hungary, nhưng đến năm 1949, do những mâu thuẫn nội bộ trong
Đảng Cộng sản Hungary, chính ông lại bị kết án tử hình
trong "vụ án Rajk" khét tiếng do đích thân Tổng bí thư
Rákosi Mátyás dàn dựng và theo chỉ thị của Moscow. Được
phục hồi năm 1955.
(3) Grősz József (1887-1961): Là người đứng đầu Giáo hội Công
giáo Hungary trong thập niên 40 thế kỷ trước. Vì những nỗ
lực độc lập của các lãnh tụ Giáo hội, hè năm 1951, ông
bị bắt giam và buộc tội tổ chức lật đổ chính quyền nhà
nước dân chủ, rồi bị án tù giam 15 năm trong một phiên tòa
ngụy tạo. Được tự do năm 1955.
(4) Bài viết đăng trên tuần báo Công giáo "Con người mới"
(Új ember) của Hungary.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8453), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét