Nhân phiên tòa xét xử ông Cù Huy Hà Vũ ngày 4/4/2011: Bài học quyền con người, quyền công dân

Hiểu biết về quyền con người là nền tảng để mỗi người
phát triển đầy đủ nhân cách, năng lực của mình và cũng là
nền tảng của sự phát triển và tiến bộ của một xã hội.
Thế nhưng, "<em>Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà
không hề biết rằng mình là chủ nhân của các quyền con
người...</em>" (Wolfgang Benedek). Kiến thức về quyền con
người, quyền công dân quan trọng như vậy cho nên mục tiêu
của giáo dục con người phải nhằm "<em>... thúc đẩy sự tôn
trọng các quyền cơ bản của con người...</em>" theo Điều 26
của <a
href="http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Hanh-Dong/Tuyen_ngon_nhan_quyen_1948/">Tuyên
ngôn toàn thế giới về Quyền con người</a>, năm 1948 của Liên
hợp quốc. Vì vậy, việc xây dựng Nền văn hóa Quyền con
người trên toàn thế giới là đóng góp quan trọng nhất cho
các thế hệ hiện tại và tương lai.

<h2>1. Khái niệm chung về Quyền con người và Quyền công
dân</h2>

Người ta định nghĩa Quyền con người thông qua những đặc
tính cơ bản của nó. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ
về Quyền con người thì: "<em>Quyền con người là những đảm
bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ
bản của con người</em>". Như vậy, quyền con người đều có
khi con người vừa được sinh ra, bởi họ là con người và
quyền đó được công nhận trên phạm vi toàn cầu.

Định nghĩa này có hai quan điểm nhìn nhận. Quan điểm coi
quyền con người là quyền tự nhiên, xuất hiện một cách bẩm
sinh bởi cá thể là con người cho nên nó không phụ thuộc bất
cứ điều kiện truyền thống, văn hóa, cộng đồng, nhà
nước... nào. Theo quan điểm này, rõ ràng Nhà nước hay chủ
thể nào khác không ban phát hay tước bỏ những quyền bẩm sinh
đó của cá nhân. Các chính phủ chẳng qua là một khế ước
xã hội trong đó các công dân ký vào kỳ vọng và mong muốn
bầu ra chính phủ là phương tiện bảo vệ các "quyền tự
nhiên" của họ chứ không phải để ban phát, quy định các
quyền cho họ. Quan điểm coi quyền coi người là quyền pháp lý
thì cho rằng quyền con người phải do các nhà nước xác định
và cụ thể hóa bằng các quy phạm pháp luật. Như vậy nó mang
tính khác biệt tương đối về mặt văn hóa, chính trị. Nhân
loại đến nay vẫn còn nhiều khác biệt từ 2 quan điểm gốc
này. Nhưng dù sao, cộng đồng quốc tế cũng đều thống nhất
bằng Tuyên ngôn quyền con người năm 1948 rằng Quyền con
người là quyền bẩm sinh vốn có, bình đẳng với tất cả
mọi người. Nó không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy
tiện bởi bất cứ ai, Nhà nước nào, nó không thể phân chia
và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền con
người nào.

Hai văn bản quan trọng nhất về Quyền con người của nhân
loại là: <a
href="http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Hanh-Dong/Tuyen_ngon_nhan_quyen_1948/">Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người của LHQ năm 1948</a>
và <a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_v%E1%BB%81_c%C3%A1c_Quy%E1%BB%81n_D%C3%A2n_s%E1%BB%B1_v%C3%A0_Ch%C3%ADnh_tr%E1%BB%8B">Công
ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự</a> và Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm
1966. Đa số các nước, trong đó có Nhà nước Việt Nam đều
đã tham gia và đang hiện thực hóa chúng trong thực tế. Điều
này có nghĩa rằng: các nước có nghĩa vụ tôn trọng, không can
thiệp vào việc cá nhân hưởng thụ Quyền con người. Nhà
nước phải ngăn chặn và phòng ngừa sự vi phạm quyền con
người của các bên thứ ba. Nhà nước phải chủ động thực
hiện các kế hoạch bảo đảm cho mọi công dân có thể hưởng
thụ cao nhất quyền con người. Điều 4, Công ước quốc tế
về các quyền chính trị, dân sự chỉ cho phép Nhà nước tạm
thời hạn chế thực hiện một số quyền con người trong
trường một thời hạn nhất định khi có tình trạng khẩn
cấp, sống còn đối với quốc gia và khi áp dụng phải thông
báo ngay cho các quốc gia thành viên khác thông qua Tổng thư ký
LHQ.

Tại các nước cộng hòa, con người trở thành các cá nhân
bình đẳng với nhau trong một Nhà nước và các quyền tự
nhiên được cụ thể hóa thành các quyền công dân trong pháp
luật. Như vậy, quyền công dân chưa phải là hình thức cuối
cùng, toàn diện nhất và đồng nhất với quyền con người.
Quyền công dân của nước nào sẽ được luật pháp nước đó
quy định cho người mang quốc tịch của nước đó. Như vậy,
quyền công dân bó hẹp trong mối quan hệ của một Nhà nước
với cá nhân. Mọi cá nhân của một nước đồng thời là chủ
thể của quyền con người và quyền công dân.

Ủy ban Quyền con người của LHQ chia các quyền và tự do cá
nhân theo 5 nhóm quyền: Quyền dân sự, quyền chính trị, quyền
kinh tế, quyền xã hội và quyền văn hóa.

<div class="special_quote"><strong>Nhóm quyền dân sự, bao
gồm:</strong>

a) Quyền không bị phân biệt đối xử, được thừa nhận và
bình đẳng trước pháp luật
b) Quyền sống, tự do và an ninh cá nhân
c) Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
d) Quyền về xét xử công bằng
e) Quyền về tự do đi lại, cư trú
f) Quyền được bảo vệ đời tư
g) Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo
h) Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân

<strong>Nhóm quyền chính trị, bao gồm:</strong>

a) Quyền tự do biểu đạt
b) Quyền tự do lập hội
c) Quyền tự do hội họp một cách hòa bình
d) Quyền tham gia vào đời sống chính trị</div>

<h2>2. Quan hệ hình sự và Quyền con người</h2>

Trong thực tiễn pháp luật, nguy cơ đe dọa đến Quyền con
người hay phát sinh từ sự kiện pháp luật Hình sự. Trong mối
quan hệ hình sự giữa cá nhân, tổ chức với Nhà nước, khi
coi cá nhân là tội phạm và quá trình đưa cá nhân ra xét xử
(quá trình tố tụng) Nhà nước với sức mạnh cưỡng chế
của mình với người bị buộc tội, có thể xảy ra "nguy cơ"
xúc phạm, tổn thương và xâm hại Quyền được sống, quyền
tự do và sinh mệnh chính trị của cá nhân.

Điển hình, ở rất nhiều nước, quyền con người bị Nhà
nước hạn chế hoặc tước bỏ với lý do bảo vệ an ninh
quốc gia (chống khủng bố, bạo loạn, lật đổ chính
quyền...) mà điển hình nhất là nước Mỹ dù văn minh đến
thế vẫn còn bí mật mở nhà tù Guantanamo, bắt cóc và tra tấn
tù nhân người Hồi giáo từ năm 2001 mà không qua xét xử. Các
học giả, những nhà bảo vệ quyền con người vẫn đang tiếp
tục tranh cãi và thảo luận về vấn đề này. Tuy nhiên, cộng
đồng quốc tế từ lâu đã đạt được sự đồng thuận là
chấp thuận tính chính đáng, hợp pháp của viện lý do bảo
vệ an ninh quốc gia, nhưng xác định bằng luật chặt chẽ cho
việc hạn chế, giới hạn quyền con người buộc mỗi quốc gia
phải tuân thủ nghiêm túc.

Thế nhưng, ở nhiều nước có thể chế lạc hậu, có các kẻ
độc tài trị vì, họ luôn tìm cách "thít" cho quyền con người
của mỗi người dân nhỏ lại, nhường chỗ cho một vài lãnh
tụ "phình" quyền đè lên, tất nhiên là viện dẫn tới sự
nghiệp cách mạng chung, quyền lợi của cộng đồng, quyền
lợi an ninh quốc gia... Bài học nhãn tiền về vi phạm nhân
quyền hàng loạt tại Campuchia thời Polpot, tại Chile thời
Pinoche, tại Phililine thời Marcot hay các vị độc tài thời nay
như ở Tuninia, Ai Cập... Còn tại các nhà nước văn minh, dân
chủ, người dân đòi hỏi chính phủ đảm bảo ngày một cao
quyền công dân, quyền con người nhất là không để cho cá
nhân có quyền lực, người lãnh đạo tối cao của Nhà nước
lạm dụng quyền lực, lộng quyền chèn ép quyền con người
của đông đảo người dân. Có nghĩa rằng, người dân sẽ
phát triển tột bậc khi Nhà nước thực sự là nhà nước pháp
quyền.

Pháp luật không thể hiểu là "rung cây dọa khỉ" hay dùng sức
mạnh của "nắm đấm" trị một người để muôn người phải
sợ. Đó chỉ là cách hiểu của bạo lực thuần túy. Nhiều
nhà độc tài "trước khi nhân dân làm cách mạng lật đổ họ"
vẫn thường nghĩ dùng "cây gậy" tức dùng "an ninh, quân đội"
của Nhà nước thì mọi người sẽ theo mình, tin mình, nhưng
thực chất chỉ có lẽ phải, công lý, pháp quyền mới là thứ
sức mạnh nhất của Nhà nước, giống như người Việt nói
"Nói phải củ cải cũng nghe".

Ở đây, có một việc rất hệ trọng là mọi người dân đều
có quyền yêu nước, yêu dân tộc theo cách của mình không một
cá nhân, một tổ chức nào có thể lập định cách yêu nước
theo ý họ. Về sự thật, chân lý và công lý ở trên đời
chỉ có một thôi và không phải chân lý lúc nào cũng thuộc
về chính quyền. Và chính quyền không phải là dân tộc giống
một câu người ta nói "Quốc phá sơn hà tại" (Quốc gia có
bị tàn phá thì non sông gấm vóc (cũng có nghĩa là nhân dân)
không bao giờ mất đi, ví dụ như Libya, Ai Cập, Tunisia, thể
chế có thể đổ nhân dân vẫn còn đó.

Tương tự như vậy, Việt Nam ta trên con đường hội nhập cũng
đối mặt với thách thức bảo vệ, thúc đẩy các quyền con
người, thể hiện ở tình trạng từng có vi phạm một số
quyền con người, quyền công dân trong thực tế công quyền.
Nhất là từ rất lâu các nhà lãnh đạo của nước ta thường
coi trọng giữ gìn ổn định chính trị - xã hội là nhiệm vụ
hàng đầu và Nhà nước thường trực nhiều biện pháp chống
khuynh hướng cực đoan, quá khích, lợi dụng các vấn đề
quyền con người để kích động, gây rối, chống phá chế
độ... có thể ảnh hưởng, xung đột với quyền con người
chính đáng của cá nhân, như bày tỏ chính kiến ôn hòa để
thay đổi, cải cách chẳng hạn.

Bốn nguyên nhân chính ảnh hưởng, vật cản cho sự phát triển
xã hội và bảo đảm thực thi quyền con người tại Việt Nam
là:

<ol><li>Nhận thức của cán bộ nhà nước, người dân về
quyền con người, quyền công dân chưa đầy đủ, phiến
diện</li>
<li>Hệ thống pháp luật nói chung, lĩnh vực quyền con
người nói riêng còn chưa hoàn thiện; Đặc biệt nhiều quy
định pháp luật mập mờ, chung chung, mâu thuẫn. Nhiều chỗ
dễ bị hiểu sai, hoặc không thể lượng hóa, hoặc quá dễ
để bị quy là gây thiệt hại cho an ninh quốc gia mà ảnh
hưởng đến quyền con người cụ thể của cá nhân (thậm chí
nhiều khi để cho cá nhân thực hiện quyền tự do chính trị
của mình lại gây hại cho an ninh quốc gia không nhiều hơn so
với việc bắt cá nhân đó bởi quy kết họ là vi phạm an ninh
quốc gia, gây gia tăng tâm trạng bất mãn chung)</li>
<li>Ý thức tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân của mọi tầng lớp xã hội, kể cả công chức, cơ quan
nhà nước còn thấp.</li>
<li>Trong quá trình hội nhập, chúng ta còn có nhiều điểm về
Quyền con người, cách hành xử với Quyền con người còn chưa
theo kịp thế giới, chuẩn mực chung do quá trình hiểu, áp
dụng thực tế và hòa đồng còn ít. Hệ thống pháp quyền,
hệ thống pháp luật còn cần giám sát, phát hiện và điều
chỉnh nhiều cho phù hợp với Công ước Quốc tế.</li></ol>

<h2>3. Vài vấn đề Quyền con người trong việc xét xử TS. Cù
Huy Hà Vũ</h2>

Quá trình tố tụng một cá nhân trong những vụ án hình sự
sẽ giúp chúng ta rút được rất nhiều kinh nghiệm trong việc
bảo vệ quyền con người và xem xét năng lực của Nhà nước
này tiến bộ đến đâu so với quá khứ từ 1945 đến nay, so
với chuẩn mực chung của nhân loại, so với xu thế của các
nước trên thế giới. Và nhất là trong "làn gió mát lành" của
các cuộc cách mạng dân chủ tự do, người dân đã dần làm
nâng tầm hiểu biết, nâng dần đòi hỏi về vấn đề quyền
con người phổ quát trong mặt bằng chung như Tuyên ngôn Quốc
tế nhân quyền. Xin lấy một vài điểm từ vụ án sắp xét
xử ông Cù Huy Hà Vũ làm ví dụ minh họa, một vụ án tuy chỉ
gắn với một cá nhân ông Vũ nhưng nó tầm cỡ về "hàn thử
biểu" cho công việc đảm bảo "quyền con người, quyền công
dân" người Việt Nam nói chung và đang là tâm điểm theo dõi
của không ít những người quan tâm đến tự do, dân chủ,
người có lương tri, trí thức có hiểu biết...

Vụ án qua truyền thông báo chí nước ta được mô tả như sau:

<div class="special_quote">Ông Cù Huy Hà Vũ là một Tiến sĩ Luật
ở Đại học Sorbonne, một thạc sĩ văn chương học ở Pháp.
Ông Vũ có phông văn hóa và trình độ rất cao và là con của
thi sĩ Huy Cận.

Ngày 5/11/2010 ở tại một khách sạn thuộc quận 6 TP.́ Hồ Chí
Minh, công an kiểm tra hành chính và bắt quả tang ông có "quan
hệ bất chính" cùng với một phụ nữ là bà Hồ Lê Như
Quỳnh. Khi đưa về cơ quan điều tra công an đã thu được
nhiều tài liệu trong máy tính. Cơ quan ANĐT đã quyết định
khởi tố bị can, bắt giam và khám xét khẩn cấp đối với
ông Cù Huy Hà Vũ để điều tra về hành vi "tuyên truyền chống
Nhà nước CHXHCN Việt Nam". Đến ngày 17/12/2010, Viện Kiểm sát
Nhân dân thành phố Hà Nội đã ra cáo trạng truy tố ông Cù Huy
Hà Vũ về tội tuyên truyền chống Nhà nước theo khoản c)
Điều 88 Bộ luật Hình sự.

Những tư liệu cơ quan CA, Viện kiểm soát nắm được cho thấy
ông Vũ đã đòi sửa đổi, bãi bỏ điều 4 của Hiến pháp 1992
về Vai trò lãnh đạo của Đảng CS Việt Nam; Xuyên tạc, phỉ
báng chính quyền, bóp méo sự thật

Một số bài viết, phỏng vấn làm chứng cứ luận tội là:

1. Bài phỏng vấn đài RFA tháng 2/2010: "Phải đa đảng mới
chống được lạm quyền"
2. Bài phỏng vấn đài VOA tháng 4/2010: "Chiến tranh Việt Nam và
ngày 30 tháng 4 dưới mắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ"
3. Bài phỏng vấn đài VOA tháng 6/2010: "TS Cù Huy Hà Vũ từ
khởi kiện thủ tướng đến yêu cầu xóa bỏ điều 4 Hiến
pháp".
4. Bài phỏng vấn đài RFA tháng 8/2010: Kiến nghị trả tự do
cho tất cả tù nhân cựu quân nhân và viên chức chính quyền
Việt Nam cộng hòa, lấy " Việt Nam" làm quốc hiệu để hòa
giải dân tộc"
5. Bài phỏng vấn của phóng viên Trâm Oanh tháng 10/2010: "Xuyên
tạc chủ nghĩa Mác Lê nin, chính quyền hiện nay đang ngày càng
trở nên thối nát.."
6. Bài viết "Tam quyền nhất lập" đồng lòng hại dân"
7. Bài viết "Bà Trần Khải Thanh Thủy cố ý gây thương tích
và dấu hiệu bẫy nguời khác phạm tội"
8. Bài phỏng vấn đài VOA năm 2010 (chưa đăng) "Đường sắt cao
tốc Bắc Nam – Dự án tham nhũng"
9. Bài viết dở dang "Bàn về Đảng cầm quyền":
10. Lưu giữ bài viết của Nguyễn Thanh Ty " Bom áp nhiệt nổ
giữa Ba Đình"

Theo tin từ Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, sáng 4/4/2011 sẽ
mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ông Cù Huy Hà Vũ theo cáo trạng
trên.</div>


Bởi Luật pháp làm ra là để bảo vệ công dân, bảo vệ
quyền con người nên vụ án xét xử đúng theo Công lý và Lẽ
phải, tôn trọng quyền con người có lẽ là mong mỏi, khao khát
của ông Cù Huy Hà Vũ, gia đình, các luật sư và đông đảo
công chúng. "Nói phải củ cải cũng nghe" - có nghĩa là họ khao
khát được đối mặt với sự thật, có thể ông Vũ không
phải người vô can hoàn toàn nhưng họ muốn lỗi đến đâu
thì xử lỗi, tội đến đâu thì xử tội, nghĩa là họ muốn
là một công dân có trách nhiệm, một con người yêu danh dự,
làm người dám làm dám chịu, lỗi và tội đến đây thì xử
ngang đó.

Tất cả nóng lòng mong tòa án công bố Vị Tiến sĩ Luật này
có tội hay không, mức độ đến đâu? Hay là một hành động
dám nói, dám làm, tích cực đáng khen của Luật sư có trách
nhiệm, lo lắng cho vận mệnh của đất nước? Có thể thấy
trước cũng như một vụ việc Hình sự nào, những nội dung
chính hay được mổ xẻ của một vụ xử là:

1- Xem xét việc bắt giữ, điều tra và xét xử công dân có
công bằng, đúng quy định của Luật tố tụng hay không?

2- Báo chí, truyền thông đa chiều, khách quan về công dân
trước, trong khi và sau khi xét xử để người có tội nhận ra
tội hay không có tội được minh oan, công chúng tin cậy vào
pháp luật và rút ra được bài học cho mình.

3- Đi vào xem xét, tranh luận về lời luận tội chính của
vụ án: "dựa theo đó Viện Kiểm soát đã khởi tố vụ án".

Ở phạm vi bài viết này, chỉ xin dừng lại để thấy được
giữa quy định Hiến pháp và Pháp luật của chúng ta vẫn có
độ vênh nào đó, cũng như giữa Pháp luật của ta và Công
ước Quốc tế về Quyền con người mà nước ta tham gia cũng
vậy. Và chắc là những điều này sẽ làm nên khác biệt trong
quan điểm của Viện kiểm soát và của các luật sư bào chữa
cho ông Vũ tại phiên tòa.

Về luật pháp nước ta, cùng một hành vi viết bài, trả lời
phỏng vấn của ông Vũ, nếu chiểu theo Điều 69 của Hiến
Pháp quy định: "<em>Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập
hội, biểu tình theo quy định của pháp luật</em>" thì là hợp
pháp, cần được luật bảo vệ, không hạn chế nội dung,
nhưng nếu ghép thêm điều pháp luật quy định ở Điều 88
của Bộ luật Hình sự thì lật ngược lại thành ra lại là
Tội phạm nghiêm trọng. Chắc Luật sư bào chữa cũng sẽ viện
dẫn Quyền công dân của ông Vũ quy định tại Điều 53 của
Hiến pháp: "<em>Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước
và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả
nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà
nước…</em>" để cho rằng các nội dung ông Vũ suy nghĩ đều
là quyền hiến định. Bộ luật hình sự là một chương viết
được viết thêm vào hiến pháp nhờ những cụm từ "em>theo quy
định của pháp luật</em>" hay là một văn bản xây dựng căn
cứ, dựa theo nền tảng của Hiến pháp?

Ngoài ra, những quy định của Luật pháp nước ta cũng chưa
thống nhất với Các công ước Quyền con người của thế
giới ở phần Quyền tự do ý kiến và biểu đạt thuộc nhóm
quyền Chính trị mà cũng sẽ dùng để đánh giá hành vi của
bị cáo Cù Huy Hà Vũ. Việt Nam xây dựng Hiến pháp mới năm
1992, xây dựng và sửa đổi lần cuối Bộ Luật hình sự năm
2009 vào lúc toàn nhân loại đã sống chung với Tuyên ngôn quốc
tế về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về quyền dân
sự và chính trị năm 1966 (tức là đã hơn nửa thế kỷ) và ta
đã gia nhập các Tuyên ngôn, Công ước đó thì ta nên tuân thủ
như thế nào đây?

Tại điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948) quy
định: "Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày
tỏ ý kiến; kể cả bảo lưu quan điểm mà không bị can
thiệp; cũng như tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền bá các
ý tưởng và thông tin bằng bất kỳ phương tiện truyền thông
nào và không có giới hạn về biên giới.".

Nội dung này được khẳng định và cụ thể hóa bằng điều
19, 20 của Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân
sự (1966) quy định (Việt Nam tham gia Công ước này năm 1982):

- <strong> Điều 19:</strong>

(Khoản 1) Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình
mà không bị ai can thiệp.
(Khoản 2) Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao
gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông
tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền
bằng miệng, bằng bản viết, bản in hoặc dưới hình thức
nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại
chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ.
(Khoản 3) Quyền này có thể phải chịu một số hạn chế
nhất định được quy định trong pháp luật và cần thiết
để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác và;
b) để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sự bình
yên hoặc đạo đức xã hội.

- <strong>Điều 20:</strong> Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến
tranh, mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc
tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng
tộc, sự thù địch hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật
nghiêm cấm.

Liên Hợp Quốc biết việc giới hạn quyền nêu ở khoản 1,2
Điều 19 là một lỗ hổng dễ bị lợi dụng, nên đã đưa ra
nhiều qui định và giải thích rất rõ. Trong bình luận năm
1983, nêu rõ, quyền được giữ quan điểm của mình mà không
bị ai can thiệp nêu ở Khoản 1 là quyền tuyệt đối. Còn tình
trạng an ninh quốc gia bị đe dọa phải được hiểu là một
tình trạng khẩn trương liên quan đến sự tồn vong thực sự
của cả một đất nước, chứ không phải chỉ là việc có
một vài bài viết đụng chạm đến quyền lợi của một
đảng phái hay một cá nhân đang cầm quyền.

Những điểm khác biệt này là cơ hội để khi phiên tòa mở
ngày 4/4, các bên sẽ tranh luận thú vị để thẩm phán tham
chiếu tìm ra kết luận, đánh giá hành vi của ông Cù Huy Hà Vũ
sát với tầm văn minh, tôn trọng các Công ước Quốc tế chúng
ta đang học theo, hội nhập nền tư pháp của mình trong việc
bảo vệ Quyền con người. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm
1948, Công ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị năm
1966, Hiếp pháp Việt Nam năm 1992, Bộ luật Hình sự Việt Nam
sửa đổi năm 2009 sẽ được Tòa án lấy làm căn cứ xét
đoán công, tội như thế nào trong một phiên tòa ở năm 2011?

Bài học rút ra ở đây là: Đến năm 2011, nếu chúng ta vẫn
chưa hiểu rõ ràng, nghiên cứu đầy đủ, sống và áp dụng
đúng theo tinh thần của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm
1948, Công ước Quốc tế về Quyền dân sự và chính trị năm
1966 mà chúng ta đã tham gia thì chúng ta đang có tội với những
thế hệ hiện tại và tương lai cũng như hàng triệu người
đang không biết rằng họ có Quyền Con Người!

<h2>Nguồn tư liệu:</h2>

1- Giáo trình lý luận và phát triển về quyền con người, NXB
Chính trị quốc gia

2- Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người, năm 1948 của
Liên hợp quốc

3- Công ước Quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm
1966 của Liên hợp quốc


<div class="special_quote">"<strong>Điều 88. (Bộ luật Hình sự)
Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam:</strong>

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt
tù từ ba năm đến mười hai năm:

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt
tù từ ba năm đến mười hai năm:

a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;

b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin
bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;

c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có
nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm."
</div>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8484), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét