Nguyễn Văn Tuấn - Cụ rùa Hồ Gươm và làm khoa học theo kiểu… phổ thông

<em>Cách làm khoa học ở Việt Nam có khi rất khác với thông
lệ khoa học thế giới. Người ta xem những bài báo trên các
tạp chí chuyên ngành chưa qua bình duyệt, thậm chí những bài
báo trên báo chí phổ thông, là "<em><strong>công trình khoa
học</strong></em>". Một công trình nghiên cứu xong thì có
"<em>nghiệm thu</em>" và mọi chuyện rồi đâu vào đó, chẳng
có gì xảy ra tiếp. Đó là cách làm khoa học mà báo Phụ nữ
today đề cập đến trong một bài viết rất đáng chú ý dưới
đây.</em>

Cuối cùng thì cụ rùa Hồ Gươm cũng được "tạm giam" đề
điều trị. Sự việc chỉ xảy ra sau nhiều cuộc họp qua…
nhiều tuần lễ. Cũng may là cụ còn sống sót. Nhưng qua diễn
tiến của sự việc, chúng ta thấy rõ một khoảng trống khoa
học, hay nói đúng hơn là khoảng trống về cách làm khoa học
ở Việt Nam. Mặc dù rùa Hồ Gươm thuộc loại hiếm và có ý
nghĩa tâm linh, nhưng cho đến nay chúng ta biết rằng Việt Nam
không có những chuyên gia "rùa học" đúng nghĩa. Như bài
báo phản ảnh, vị giáo sư khả kính về rùa thật ra ít có
công trình nghiên cứu về rùa. Hai mươi năm nghiên cứu về
rùa, nhưng vị giáo sư này chỉ có 2 công trình khoa học về
rùa. Hai công trình này dù được hội đồng nghiệm thu đánh
giá là xuất sắc, nhưng công chúng chẳng mấy ai tiếp cận
được. Thật vậy, không có một bài báo khoa học trên một
tập san khoa học quốc tế nào về rùa từ Việt Nam cả!

Chúng ta không có những thông số sinh học về cụ rùa Hồ
Gươm. Thật vậy, ngay cả bao nhiêu cụ rùa trong Hồ Gươm mà
cũng chẳng ai biết; tất cả chỉ là võ đoán! Ngay cả giới
tính của rùa cũng chẳng ai khẳng định. Thật là khó tưởng
tượng nổi một báu vật trong tay mà chúng ta không có thông tin
gì về báu vật đó. Đó là do cách làm khoa học theo kiểu phổ
thông, tức là làm khoa học tài tử. Sản phẩm của khoa học
tài tử là những bài báo trên báo chí phổ thông, những trao
đổi ngắn trên tivi hay hệ thống truyền thanh. Nhưng đó không
phải là khoa học nghiêm chỉnh. Một nền khoa học phổ thông
không thể nào làm cho đất nước tiến bộ được.

Cách làm khoa học phổ thông của nhiều người làm tôi nhớ
đến cách làm khoa học của người phương Tây. Đó là cách
làm khoa học "đến nơi đến chốn", tìm hiểu từ các vấn
đề cơ bản, đến thực nghiệm, và ứng dụng vào thực tế.
Đành rằng quá trình từ nghiên cứu cơ bản đến ứng dụng
vào thực tế là một thời gian dài, nhưng đó là con đường
không thể khác được. Trong khoa học, không có cái gọi là "đi
tắt đón đầu". Một phát hiện về mối liên hệ giữa DNA và
bệnh tật phải được nghiên cứu từ cơ bản để biết cơ
chế của mối liên hệ, đến ứng dụng vào lâm sàng. Cố
nhiên, trước khi đưa vào ứng dụng, người ta phải làm nhiều
nghiên cứu độc lập để loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên
hay yếu tố nhiễu. Chưa có những nghiên cứu độc lập mà đã
tuyên bố trên báo chí phổ thông là không đúng qui trình làm
khoa học.

Làm khoa học thật đòi hỏi sự dấn thân. Dấn thân thực tế,
chứ không phải chỉ... đọc báo phổ thông. Còn nhớ cách đây
vài tháng khi nghe tin Việt Nam có một loài thằn lằn mới, hai
cha con nhà khoa học Mĩ đã bỏ tiền túi mua vé máy bay sang
Việt Nam, mướn xe ôm lặn lội đến tận nơi để tìm hiểu.
Họ còn lấy mẫu đem về Mĩ phân tích DNA, và trong tương lai
sẽ công bố kết quả nghiên cứu trên các tập san khoa học
quốc tế. Lại nhớ đến chuyện khám phá gene LRP5, chỉ vì
một ca tai nạn xe ôtô, các nhà nghiên cứu Mĩ đã bỏ công và
thời gian cá nhân ra "truy tìm" cho được gia đình có "xương
đặc", họ còn bỏ tiền và mang thiết bị sang tận Thổ Nhĩ
Kì chỉ để xét nghiệm thành viên trong đại gia đình, và để
nối kết câu chuyện. Gene LRP5 được khám phá từ sự dấn
thân đó. Cách làm khoa học như thế không phải là cá biệt,
mà đã từng xảy ra ở nước ta trước đây. Vào thập niên
1960, khi có báo cáo một người lính Mĩ bị dịch hạch ở Tây
Nguyên, thế là trung tâm quân y Walter Reed gửi một đoàn chuyên
gia sang Tây Nguyên để nghiên cứu. Kết quả của nghiên cứu
là một loạt 6 bài báo khoa học công bố trên các tập san y
khoa danh giá thời ấy, mô tả từ lịch sử dịch hạch ở VN
đến từ đâu (Hồng Kông), vào Việt Nam qua tỉnh thành nào, lan
truyền sang các tỉnh lân cận ra sao, và mối tương quan giữa
biến đổi khí hậu và tần số dịch hạch. Những số liệu
đã thu thập trên 50 năm mà tôi thấy vẫn còn nguyên giá trị
khoa học. Ngày nay, khi làm nghiên cứu về dịch hạch, tôi vẫn
thấy phải nghiêng mình cám ơn các bác sĩ Mĩ đã để lại
một di sản rất quí báu.

Di sản họ để lại có giá trị lâu dàu vì họ làm khoa học
nghiêm chỉnh. Thử hỏi nếu chỉ nhìn vấn đề một cách hời
hợt thì làm sao có khoa học nghiêm chỉnh.Tiếc thay, ở nước
ta, nhiều người nhìn vấn đề chẳng những hời hợt mà còn
quá đơn giản. Người ta chỉ làm cho có cái bằng thạc sĩ,
tiến sĩ và dừng ở đó, chứ chẳng có sự dấn thân, theo
đuổi. Lại có tâm lí "Tụi Tây nó làm hay hơn, mình làm chi
để tốn công". Đó là tâm lí đầu hàng ngay từ lúc chưa làm!
Buồn thay, cái tâm lí đó hiện hữu không ít trong giới khoa
học và sinh viên ở Việt Nam.

Đó là bên y học, còn bên văn hóa và nhân chủng học, tôi
thấy nhiều kiến thức và dữ liệu về người Việt và đất
nước Việt Nam lại được giới khoa học nước ngoài lí giải
hay hơn và đầy đủ hơn giới khoa học VN. Thử đọc Kinh Dịch
chúng ta sẽ thấy người phương Tây viết dễ hiểu hơn, đầy
đủ hơn và uyên bác hơn là người Việt (hay người Tàu)
viết.

Tôi cứ tưởng một người bỏ ra cả 20 năm theo đuổi về rùa
ắt phải am hiểu tường tận về rùa, nhưng thực tế hình như
không phải như vậy. Tác giả Lão Phạm cho biết "20 năm
nghiên cứu của PGS Đức mang đến cho ông một tấm giấy
chứng nhận kỷ lục Việt Nam cho người có nhiều bài viết
về Rùa Hồ Gươm nhất nước. Song, những bài viết ấy không
mang lại cho cộng đồng bất cứ thông tin khoa học nào đáng
kể về con rùa Hồ Gươm. Thậm chí, con rùa mà theo ông là cá
thể duy nhất ở Hồ Gươm mà ông đặt tên là rùa Lê Lợi, là
đực hay cái thì ông cũng không biết". Điều này nói lên
một điều hiển nhiên mà nhiều người, kể cả người viết
bài này, từng lên tiếng: chúng ta cần một chuẩn mực khách
quan để đánh giá một công trình khoa học (và thành tựu của
một nhà khoa học).

Theo thông lệ quốc tế, một công trình khoa học chỉ có thể
xem là hoàn tất nếu kết quả công trình đó được công bố
trên những tập san khoa học có bình duyệt (peer review). Chỉ
qua bình duyệt và qua công bố quốc tế thì người ta mới có
thể đánh giá công trình khoa học đó ra sao. Một công trình
nghiên cứu tiêu nhiều triệu đồng (của dân) mà không được
công bố trên các tập san khoa học có bình duyệt thì không
thể xem là hoàn tất được, và tác giả vẫn còn nợ người
dân. Những bài viết trên báo chí phổ thông không thể và
không bao giờ xem là bài báo khoa học. Những abstracts trong hội
nghị cũng không phải là những bài báo khoa học.

Liên quan đến bệnh cụ rùa, có một thông tin làm tôi thắc
mắc hoài. Đó là tin trên Tuổi Trẻ cho biết "Kết quả phân
tích ADN ở những phòng thí nghiệm cho thấy, bên trong cơ thể
cụ rùa không có trọng bệnh. ADN cho thấy 90% những phán đoán
ban đầu của chúng tôi về tình hình sức khỏe cụ rùa là
đúng." Tôi không biết phân tích DNA như thế nào mà có thể
biết bệnh trong cơ thể cụ rùa. Bệnh gì? Phán đoán ban
đầu là phán đoán bệnh gì? Ở người, giới khoa học tốn
nhiều tỉ USD mà vẫn chưa dùng (hay chưa dám dùng) DNA để
chẩn đoán bệnh. Ấy thế mà ở nước ta, có người có thể
dùng DNA để chẩn đoán bệnh của rùa. Phát triển này cần
phải công bố cho cộng đồng quốc tế biết, chứ không nên
chỉ tuyên bố trên báo chí phổ thông trong nước.

Với cách làm khoa học phổ thông như thế chúng ta không ngạc
nhiên khi thấy năng suất khoa học quốc gia rất thấp so với
quốc tế. Cả nước có gần 9000 giáo sư và phó giáo sư (chứ
không phải 7000 như tác giả viết) và nhiều vạn tiến sĩ
(không biết con số chính xác là bao nhiêu) mà mỗi năm công bố
không đến 1000 bài báo khoa học quốc tế thì quả là một
điều bất bình thường. Vấn đề là vì cộng đồng khoa học
VN chưa tạo ra những chuẩn mực khách quan để đánh giá thành
tựu một nhà khoa học. Vì thiếu một chuẩn mực khách quan,
nên có sự lẫn lộn giữa bài báo phổ thông hay abstract trong
hội nghị và một bài báo khoa học nghiêm chỉnh. Từ sự lẫn
lộn này dẫn đến những sai lầm trong đánh giá và đề bạt
các chức danh khoa học. Tình trạng vàng thau lẫn lộn cũng
xuất phát từ sự thiếu chuẩn mực khách quan cho một công
trình nghiên cứu khoa học. Và, từ đó chúng ta có rất nhiều
nhà khoa học phổ thông, nhưng rất ít những nhà khoa học thứ
thiệt.

Có lẽ dịp chữa bệnh cho cụ rùa là dịp lí tưởng để
thiết lập các tiêu chuẩn để đánh giá một công trình khoa
học. Cần phải thay thế "nghiệm thu" bằng những bài báo
khoa học quốc tế mà Quĩ Nafosted của Bộ Khoa học và Công
nghệ đang áp dụng. Một công trình mang tiếng là nghiên cứu
khoa học mà không công bố được kết quả trên các diễn đàn
quốc tế thì không thể xem là khoa học được.

NVT

Tb. Bài kế tiếp tôi sẽ bàn cách đánh giá một công trình
nghiên cứu khoa học.

_______________________


<h2>Phụ Lục: Chuyện rùa Hồ Gươm và nền khoa học bò
ngửa</h2>

20 năm nghiên cứu về rùa Hồ Gươm, PGS Đức đã có 2 công
trình khoa học và đều được hội đồng nghiệm thu đánh giá
là xuất sắc. Chỉ có điều, nó không mang lại cho cộng đồng
bất cứ thông tin khoa học nào đáng kể.

Câu chuyện về rùa hồ Hoàn Kiếm mấy bữa nay ồn ào trở
lại trên trang nhất nhiều tờ báo khi có thông tin không phải
chỉ có một "cụ" rùa. Vậy, cuối cùng thì trong hồ Gươm
còn bao nhiêu "cụ" rùa? Phó Giáo sư Hà Đình Đức vẫn
khăng khăng chỉ 1, ông Trưởng Ban chỉ đạo bắt rùa của
thành phố bảo ít nhất còn 2, ông thợ ảnh tên Ngò bảo phải
còn 5, 6…

Có lẽ trên thế giới hiếm quốc gia nào may mắn như nước ta
khi truyền thuyết lịch sử được tự nhiên ban cho một linh
vật sống để lưu truyền như con rùa Hồ Gươm và ông vua Lê
Lợi. Lẽ ra, một huyền tích lung linh như vậy sẽ phải được
trân trọng nghiên cứu và bảo tồn. Song, thay vì thế, những
con rùa Hồ Gươm, dù là một cá thể sống, nhưng luôn bị coi
là vật thờ và hầu như chỉ tồn tại trong niềm sùng kính
dân gian. Ngay cả người được coi là "nhà rùa học", chuyên
gia số 1 về rùa Hồ Gươm là PGS Hà Đình Đức, một nhà khoa
học có học hàm, học vị, thì sự quan tâm nghiên cứu con rùa
Hồ Gươm cũng chỉ bằng yếu tố tình cảm.

Nói rằng PGS Đức chỉ quan tâm đến rùa Hồ Gươm bằng tình
cảm của một người Thanh Hóa kính ngưỡng Lê Lợi, hẳn sẽ
làm ông buồn, thậm chí là giận. Bởi lẽ, ít nhất cũng đã
20 năm rồi ông nghiên cứu rùa, chụp tới 300 bức ảnh, hàng
ngàn giờ quay phim và quan sát, viết hàng trăm bài báo, thậm
chí bảo vệ hẳn 2 công trình nghiên cứu khoa học cấp thành
phố về rùa Hồ Gươm. Với bề dày nghiên cứu như vậy mà
chỉ thừa nhận tình cảm và ngày công của ông đối với rùa
mà không nhắc đến thành quả nghiên cứu khoa học của ông
thì quả là quá đáng. Tuy nhiên, công bằng mà nói, công sức
lao động của ông quả đáng được ghi nhận, nhưng thành quả
khoa học thì…

20 năm nghiên cứu của PGS Đức mang đến cho ông một tấm
giấy chứng nhận kỷ lục Việt Nam cho người có nhiều bài
viết về Rùa Hồ Gươm nhất nước. Song, những bài viết ấy
không mang lại cho cộng đồng bất cứ thông tin khoa học nào
đáng kể về con rùa Hồ Gươm. Thậm chí, con rùa mà theo ông
là cá thể duy nhất ở Hồ Gươm mà ông đặt tên là rùa Lê
Lợi, là đực hay cái thì ông cũng không biết.

Nói rằng PGS Đức chỉ là một người yêu rùa chứ không phải
nhà nghiên cứu rùa học, hẳn sẽ bị phản đối. Ít ra ông
cũng đã có tới 2 công trình khoa học về rùa Hồ Gươm. Công
trình thứ nhất có tên: Nghiên cứu sơ bộ hiện trạng Hệ sinh
thái Hồ Gươm, nhằm bảo tồn và phát triển đàn rùa quý và
cải thiện cảnh quan môi trường được nghiệm thu năm 1993.
Công trình thứ hai có tên: Nghiên cứu hình thái, sinh thái loài
Rùa Hồ Gươm, tình trạng chất lượng nước, hệ vi tảo Hồ
Gươm,nhằm bảo tồn, phát triển đàn rùa quý và cải thiện
cảnh quan môi trường, được nghiệm thu một năm sau đó.

Cả 2 công trình đều được hội đồng nghiệm thu đánh giá
là xuất sắc. Có điều, từ khi được bảo vệ, những đề
tài khoa học này chẳng giúp được gì cho rùa Hồ Gươm.

20 năm qua, kể từ khi PGS Hà Đình Đức nghiên cứu rùa thì
đời sống của nó mỗi ngày một tệ hơn. Và, điều khiến
"cụ" rùa được quan tâm, cứu chữa như bây giờ không
phải là những nỗ lực của những nhà khoa học như PGS Đức,
mà là những con rùa tai đỏ, giống sinh vật ngoại lai đang bị
truy nã trên phạm vi toàn quốc. Chính sự xuất hiện của
những con rùa tai đỏ chứ không phải các công trình khoa học
được công bố khiến dư luận quan tâm đến "cụ" Rùa. Đó
là một sự trớ trêu với số phận rùa thiêng. Và không chỉ
với con rùa, đó còn là một sự thật trớ trêu đối với
nền khoa học Việt Nam.

Trở lại với 2 công trình nghiên cứu khoa học của PGS Hà
Đình Đức. Vì sao nó không được ứng dụng để cải thiện
đời sống và bảo vệ "cụ" rùa? Phải chăng là bởi nó
không có giá trị khoa học để ứng dụng? Nếu vậy, sao những
công trình đó lại được nghiệm thu, thậm chí được đánh
giá là xuất sắc? Lẽ ra, đây là một câu hỏi đáng để quan
tâm và suy nghĩ. Song, thực tế, việc những công trình khoa học
được nghiên cứu, bảo vệ rồi lãng quên vốn đã là bình
thường.

Mỗi năm trung bình ngân sách nhà nước chi ra xấp xỉ 2%GDP cho
khoa học công nghệ, nước ta cũng là quốc gia có mật độ nhà
khoa học cao so với các quốc gia trong khu vực với khoảng gần
20.000 tiến sĩ và gần 7.000 giáo sư, mỗi năm có tới hàng ngàn
công trình nghiên cứu khoa học được công bố. Song, trong vòng
10 năm qua, trung bình mỗi giáo sư của chúng ta chỉ công bố
được 0,58 bài báo trên các tạp chí khoa học quốc tế, và
các nghiên cứu đó hầu như không bao giờ được giới khoa
học thế giới trích dẫn.

Như vậy, không có gì là khó hiểu khi 2 công trình khoa học
xuất sắc của "nhà rùa học" Hà Đình Đức chẳng hề có
giá trị trong việc cứu rỗi và bảo tồn con rùa già ở Hồ
Gươm. Tuy nhiên, ngược lại, có thể sự hy sinh của con rùa
già Hồ Gươm sẽ cứu vớt được nền khoa học của nước
nhà. Nếu chẳng may "cụ" rùa thăng khi mà các nhà khoa học
chưa kịp tìm được cách bảo tồn, rất có thể đó sẽ là
một sự kiện để các nhà khoa học của chúng ta nghiêm túc
nhìn nhận lại những đóng góp của mình đối với đất
nước./.

Lão Phạm (Vovnews)
Nguồn:
http://phunutoday.vn/quanbatam/201104/Chuyen-rua-Ho-Guom-va-nen-khoa-hoc-bo-ngua-1987062/

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8482), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét