thần như chân lí khoa học, sự tận thiện về đạo đức hay
kinh bổn của tôn giáo. Nó chỉ có ý nghĩa tương đối, nội
dung của nó một phần nào đó được quyết định bởi những
điều kiện kinh tế và xã hội luôn luôn biến đổi. Ý nghĩa
tương đối của pháp quyền đã tạo cớ cho một số lí
thuyết gia đánh giá nó quá thấp. Một số người cho rằng
pháp luật chỉ có giá trị tối thiếu về đạo đức, một
số khác lại cho rằng cưỡng chế, nghĩa là bạo lực, là
thành tố không thể tách rời của pháp luật. Nếu đúng là
như thế thì chẳng có cơ sở nào để chê trách giới trí
thức của chúng ta trong việc coi thường pháp quyền hết. Giới
trí thức của chúng ta luôn hướng tới những lí tưởng tuyệt
đối và trên đường đi của mình nó có thể bỏ qua cái giá
trị thứ cấp này.
Nhưng văn hoá tinh thần bao gồm không chỉ một loại giá trị.
Các đặc điểm mang tính hình thức của hoạt động trí tuệ
và hoạt động ý chí là thành phần chủ yếu của văn hoá tinh
thần. Mà trong các giá trị mang tính hình thức thì pháp quyền,
một hình thức phát triển hoàn hảo nhất và gần như có thể
cảm nhận được một cách cụ thể nhất, đóng vai trò quan
trọng nhất. Pháp luật đưa người ta vào khuôn phép nhanh hơn
là tư duy lô gich và phương pháp luận hay những biện pháp rèn
luyện ý chí một cách có hệ thống khác. Điều quan trọng là,
khác với những hệ thống kỉ luật mang tính cá nhân nói trên,
pháp luật là hệ thống mang tính xã hội và lại là hệ thống
xã hội duy nhất ép người ta vào kỉ luật. Kỉ luật xã hội
chỉ có thể được hình thành nhờ pháp luật; xã hội có kỉ
cương và xã hội có trật tự pháp luật phát triển là những
khái niệm tương đồng.
Nhìn theo cách đó thì nội dung của pháp quyền đã có một ý
nghĩa khác. Nội dung chủ yếu và quan trọng nhất của pháp
quyền chính là tự do. Nói cho ngay, đấy là tự do ngoại tại,
tự do tương đối, được qui định bởi môi trường xã hội.
Nhưng tự do nội tại, tự do tinh thần, tư do có tính bền
vững hơn, lại chỉ có thể hiện hữu khi có sự hiện hữu
của tự do ngoại tại, cái sau là trường học tuyệt vời cho
cái trước.
Nếu coi pháp luật là phương tiện buộc người ta phải tuân
thủ kỉ cương một cách toàn diện và tìm hiểu vai trò của
nó trong sự phát triển tinh thần của giới trí thức Nga thì ta
sẽ có một kết quả rất đáng thất vọng. Giới trí thức Nga
bao gồm những người không có kỉ luật, cả về mặt cá nhân
lẫn xã hội. Và điều này lại liên quan đến sự kiện là
giới trí thức Nga không tôn trọng pháp luật, không nhận thấy
giá trị của nó; pháp luật là giá trị văn hoá bị coi
thường hơn cả. Trong những điều kiện như thế, giới trí
thức của chúng ta không thể có nhận thức pháp quyền vững
chắc, ngược lại, nhận thức pháp quyền nằm ở vị trí kém
phát triển nhất.
<h2>I.</h2>
Nhận thức pháp quyền của giới trí thức chỉ có thể phát
triển cùng với việc nghiên các tư tưởng pháp quyền trong văn
học. Việc nghiên cứu như thế cũng đồng thời là chỉ dấu
mức độ giác ngộ pháp luật của chúng ta. Hoạt động miệt
mài của nhận thức, của tư duy, dù theo bất kì hướng nào,
bao giờ cũng được thể hiện trong văn học. Chúng ta phải tìm
trước hết trong văn học những bằng chứng về nhận thức
pháp quyền của chúng ta. Nhưng ở đây chúng ta sẽ gặp một
sự kiện lạ lùng như sau: nền văn học "phong phú" trong quá
khứ không hề có một luận văn hay bài tiểu luận nào nói về
pháp quyền có thể tạo được giá trị xã hội hết. Tác
phẩm nghiên cứu mang tính hàn lâm thì dĩ nhiên là có, nhưng
đấy chỉ là dành cho các chuyên gia mà thôi. Chúng ta không quan
tâm đến các tác phẩm như thế; chúng ta chỉ quan tâm đến
các trước tác có ý nghĩa xã hội; ở đây chẳng có một tác
phẩm nào đủ sức khuấy động được nhận thức pháp quyền
của giới trí thức. Có thể nói rằng trong quá khứ đã không
có bất cứ tư tưởng pháp quyền nào, như được thể hiện
trong lĩnh vực văn học, tham gia vào quá trình phát triển về
mặt tư tưởng của giới trí thức. Và hiện nay, trong tập
hợp các tư tưởng tạo ra thế giới quan của giới trí thức,
tư tưởng pháp quyền cũng chẳng có vai trò gì. Văn học chính
là người làm chứng cho cái chỗ thiếu sót trong nhận thức xã
hội đó của chúng ta.
Về mặt này thì sự phát triển của chúng ta khác hẳn với
sự phát triển của các dân tộc văn minh khác! Trong các giai
đoạn tương ứng, ta thấy người Anh, một mặt, có Hobbes[1]
với các tác phẩm như Bàn về người công dân và Leviathan và
Filmer với Người gia trưởng hay là quyền lực tự nhiên của
vua chúa[2], còn bên kia là các tác phẩm của Milton[3] nhằm bảo
vệ tự do phát biểu và tự do ngôn luận, những bài văn đả
kích của Lilburne[4] và các tư tưởng pháp quyền của những
người gọi là "cào bằng" (levellers). Giai đoạn phát triển
vũ bão nhất trong lịch sử Anh cũng đã tạo ra những tư
tưởng pháp quyền đối chọi nhau. Nhưng những tư tưởng này
không loại trừ nhau và đến một lúc nào đó đã hình thành
một sự thoả hiệp trong tác phẩm Hai khảo luận về chính
quyền của Locke[5].
Nội dung tư tưởng của Pháp thế kỉ XVIII không chỉ giới
hạn bởi các phát minh trong lĩnh vực tự nhiên và các hệ
thống triết lí tự nhiên. Ngược lại, phần lớn hành trang tư
tưởng ngự trị trong đầu óc người Pháp thời Khai sáng chắc
chắn là được lấy từ Bàn về tinh thần pháp luật của
Montesquieu[6] và Bàn về Khế ước xã hội của Rousseau[7]. Đây
thực sự là những tư tưởng pháp quyền; thậm chí tư tưởng
về khế ước xã hội mà giữa thế kỉ XIX người ta đã giải
thích không đúng theo nghĩa xã hội học; định nghĩa về cội
nguồn của tổ chức xã hội cũng chủ yếu là tư tưởng pháp
quyền, nó qui định tiêu chuẩn tối thượng cho việc điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội.
Tư tưởng pháp quyền cũng đóng vai trò không nhỏ trong quá
trình phát triển về mặt tinh thần của nước Đức. Ở đây,
đến cuối thế kỉ XVIII đã định hình một truyền thống
vững chắc có nguồn gốc từ nhiều thế kỉ nhờ những
người như Althusius[8], Pufendorf[9], Thomasius[10], Wolff[11]. Cuối
cùng, ngay trước giai đoạn lập hiến, đồng thời cũng là giai
đoạn phát triển nhất của nền văn hoá tinh thần Đức, pháp
quyền đã được công nhận là thành phần không thể tách rời
của nền văn hoá đó. Chỉ xin nhớ lại ba đại diện của
nền triết học cổ điển Đức là Kant[12], Fichte[13] và
Hegel[14], cả ba ông này đều dành cho pháp quyền vị trí quan
trọng trong hệ thồng triết học của mình. Trong hệ thống
của Hegel, triết lí pháp quyền đã chiếm vị trí cực kì
đặc biệt vì ông đã trình bày nó ngay sau lô gích học hoặc
bản thể luận, tuy triết học lịch sử, triết học nghệ
thuật và ngay cả triết học tôn giáo vẫn chưa được ông
chắp bút và chỉ được in theo những ghi chép của những thính
giả của ông sau khi ông đã tạ thế. Nhiều triết gia khác,
như Herbart[15], Krause[16], Fries[17] ..v..v.. đã có đóng góp vào
triết học pháp quyền. Nửa đấu thế kỉ XIX Triết học pháp
quyền chắc chắn là tên gọi hay gặp nhất trong số sách viết
về triết học ở Đức. Bên cạnh đó, ngay trong những năm 20
của thế kỉ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa
Thibaut[18] và Savigny[19] "về sứ mệnh lập pháp và luật học
của thời đại chúng ta". Cuộc tranh luận hoàn toàn mang tính
pháp lí này đã có ảnh hưởng văn hoá rất sâu sắc; nó thu
hút sự quan tâm của tất cả tầng lớp có học và góp phần
tích cực vào việc đánh thức nhận thức pháp quyền của
tầng lớp này. Nếu cuộc tranh luận này đặt dấu chấm hết
cho tư tưởng pháp quyền tự nhiên thì nó cũng đồng thời
dẫn đến chiến thắng của trường phái pháp quyền mới –
pháp quyền lịch sử. Trường phái này đã cho xuất bản một
tác phẩm tuyệt vời của Puchta[20] lấy tên là Tập quán pháp.
Tác phẩm này gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của
trường phái pháp quyền mới của người Đức, những người
nghiên cứu và bảo vệ các thiết chế pháp luật Đức chống
lại pháp quyền La Mã. Ông Beseler[21], một môn đồ của
trường phái này, trong tác phẩm Quyền của dân chúng và quyền
của luật sư đã làm nổi bật hơn cả Puchta trong tác phẩm
Tập quán pháp, vai trò nhận thức pháp luật của dân chúng.
Chưa từng có hiện tượng nào tương tự như thế trong quá
trình phát triển của giới trí thức ở nước ta. Trong tất
cả các trường đại học tổng hợp ở nước ta đều có khoa
luật; một số khoa đã tồn tại được hơn một trăm năm; ở
nước ta còn có trên nửa tá trường đại học luật nữa.
Tổng cộng, trên toàn nước Nga có gần một trăm năm mươi khoa
luật cả thảy. Nhưng không có khoa nào xuất bản được một
cuốn sách hay thậm chí một tiểu luận có ý nghĩa xã hội
rộng lớn và có ảnh hưởng đối với nhận thức pháp lí
của giới trí thức. Trong sách báo về pháp luật của chúng ta
thậm chí không thể tìm được một bài báo, trong đó lần
đầu tiên nêu ra được tư tưởng pháp quyền, dù không sâu
sắc nhưng chính xác và đầy tinh thần chiến đấu như tác
phẩm Cuộc đấu tranh cho luật pháp của Ihering[22] chẳng hạn.
Cả Tritrerin[23] lẫn Soloviev[24] đều không tạo được một cái
gì đáng kể trong tư tưởng pháp quyền. Ngay cả những cái có
giá trị của họ thì cũng gần như vô bổ: ảnh hưởng của
họ đối với trí thức gần như bằng không; tư tưởng pháp
quyền của họ lại được ít người hưởng ứng hơn cả.
Thời gian gần đây ở nước ta người ta còn đưa ra tư tưởng
phục hồi pháp quyền tự nhiên và tư tưởng pháp quyền trực
cảm. Nói về ảnh hưởng của chúng đối với sự phát triển
xã hội của chúng ta lúc này là hơi sớm. Nhưng cho đến nay,
chưa thấy có cơ sở nào để nghĩ rằng chúng sẽ có ý nghĩa
xã hội rộng rãi. Trên thực tế, đâu là diện mạo và đâu
là công thức xác định, tức là những thứ tạo cho tư tưởng
tính uyển chuyển và giúp cho sự truyền bá của chúng? Tác
phẩm, thông qua các tư tưởng này nhằm đánh thức nhận thức
pháp quyền của giới trí thức đang nằm ở đâu? Tác phẩm
Tinh thần luật pháp và Khế ước xã hội của chúng ta đang
nằm ở đâu?
Người ta có thể bảo rằng dân Nga bước lên con đường lịch
sử muộn hơn các dân tộc khác cho nên chúng ta không cần phải
tự tìm kiếm tư tưởng tự do và quyền cá nhân, trật tự
luật pháp, chế độ lập hiến, tất cả các tư tưởng này
đã được phát biểu, được phát triển một cách chi tiết,
được đưa vào cuộc sống từ lâu rồi, chúng ta chỉ việc
mượn về là đủ. Nếu đúng là như thế thì dù sao chúng ta
cũng phải thể nghiệm được các tư tưởng đó; vay mượn
không thôi thì chưa đủ, một lúc nào đó trong cuộc đời ta
phải sống hết mình với nó; một tư tưởng dù có cũ đến
đâu thì với người đang thể nghiệm lần đầu nó cũng vẫn
luôn luôn là mới; nó hoàn thành công việc sáng tạo trong nhận
thức của người đó, nó đồng hoá và chuyển hoá cùng với
những thành tố khác của nhận thức; nó thúc đây người ta
hoạt động, hành động; trong khi đó nhận thức pháp quyền
của giới trí thức Nga chưa hề bị cuốn hút trọn vẹn bởi
tư tưởng về quyền cá nhân và nhà nước pháp quyền, giới
trí thức của chúng ta chưa từng trải nghiệm các tư tưởng
này. Nhưng thực chất lại không phải như thế. Không thể có
những tư tưởng duy nhất, độc nhất về tự do cá nhân, nhà
nước pháp quyền, chế độ lập hiến giống nhau cho mọi dân
tộc và mọi thời đại, cũng không có chủ nghĩa tư bản cũng
như bất kì tổ chức kinh tế hay xã hội giống nhau cho tất
cả các nước. Tất cả các tư tưởng pháp quyền trong nhận
thức của mỗi dân tộc cũng sẽ có sắc thái và dáng vẻ
riêng của mình.
<h2>II.</h2>
Sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức
Nga và sự thờ ơ đối với các tư tưởng pháp quyền là kết
quả của thói xấu thâm căn cố đế: không hề có bất kì
trật tự luật pháp nào trong đời sống thường nhật của
người Nga. Nhân việc này, Gersen[25] ngay từ những năm 50 của
thế kỉ trước (thế kỉ XIX – ND) đã viết: "Thiếu sự
bảo đảm về pháp lí từ bao đời nay đã đè nặng lên đời
sống của người dân và trở thành một kiểu trường học cho
chính họ. Sự bất công quá đáng của một nửa điều luật
đã dạy dân chúng căm thù nửa còn lại; người ta phục tùng
nó như phục tùng sức mạnh vậy thôi. Sự bất bình đẳng
trước pháp luật đã giết chết tinh thần tôn trọng pháp
luật. Người Nga, dù có chức tước gì đi chăng nữa, cũng tìm
cách tránh né hoặc vi phạm pháp luật nếu có thể làm như
thế mà không bị trừng phạt; chính phủ cũng hành động hệt
như vậy". Sau khi đã nêu ra đặc điểm chẳng lấy gì làm hay
ho của sự vô tổ chức về mặt pháp luật của chúng ta như
thế thì chính Gersen, một trí thức Nga chân chính, lại nói
thêm: "Hiện nay thì đây là điều nặng nề và đáng buồn.
nhưng đối với tương lai thì lại là một ưu điểm lớn. Vì
nó cho thấy rằng, ở Nga, phía sau cái chính phủ hữu hình
không hề có một lí tưởng nào, không có một chính phủ vô
hình, không có sự tôn trọng trật tự hiện hành".
Như vậy là Gersen cho rằng cái khiếm khuyết căn bản này của
đời sống xã hội Nga lại có một ưu điểm. Đây là ý kiến
không chỉ của riêng Gersen mà là của cả nhóm người thuộc
giai đoạn những năm bốn mươi, mà chủ yếu là những người
thân Slav. Những người này cho rằng sự yếu kém của các hình
thức pháp luật ngoại tại, thậm chí hoàn toàn không có trật
tự pháp luật ngoại tại lại là mặt mạnh chứ không phải
là mặt yếu. Thí dụ, lúc đó K. S. Aksakov[26] từng khẳng
định rằng trong khi "người phương Tây" đi theo "con
đường của sự thật ngoại tại, con đường của chính
phủ" thì người Nga đi theo "con đường của sự thật nội
tại". Vì vậy mà ở Nga quan hệ giữa thần dân và Hoàng
đế, nhất là giai đoạn trước Petr[27], được xây dựng trên
sự tin tưởng lẫn nhau và ước muốn chân thành về lợi ích
cho cả hai bên. "Nhưng", ông giả định, "người ta sẽ
bảo chúng ta: nhân dân hay chính quyền có thể phản bội. Cần
phải có bảo đảm!". Và ông đã trả lời: "Không cần bảo
đảm! Bảo đảm là xấu. Nơi nào cần bảo đảm thì nơi đó
không còn gì là tốt lành nữa; thà chết còn hơn là sống
cuộc sống không còn cái tốt, phải dùng cái xấu để bảo
vệ". Sự phủ nhận tính tất yếu của những bảo đảm về
mặt pháp luật, thậm chí coi những bảo đảm như thế là xấu
đã thúc giục B. N. Almazov[28], một nhà thơ trào phúng, cho K. S.
Aksakov đọc một bài thơ có bắt đầu như sau:
<em>Vì những nguyên nhân nội tại
Chúng ta không có
Tư tưởng luật pháp lành mạnh,
Con đẻ của quỉ sứ.
Tâm hồn rộng mở của người Nga
Lí tưởng của chúng ta
Không thể chui vào những hình thức chật hẹp
Của các nguyên tắc pháp luật….</em>
Bài thơ này, có hơi thổi phồng, về thực chất đã nói đúng
quan niệm của K. S. Aksakov và những người thân Slav khác.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng thái độ coi thường ý nghĩa của
các nguyên tắc pháp luật đối với đời sống xã hội chỉ
là đặc trưng của những người thân Slav. Ở những người
thân Slav điều này được thể hiện dưới hình thức quyết
liệt nhất và được các hậu duệ của họ đưa đến mức
cực đoan nhất, thí dụ ông K. N. Leontiev[29] gần như đã ca
ngợi người Nga vì họ không có "tính trung thực sách vở"
như những người tư sản Tây Âu. Nhưng chúng ta biết rằng
Gersen nhận thấy việc không có trật tự pháp luật lại là ưu
thế của chúng ta. Và phải công nhận rằng không nhận thức
được ý nghĩa của các tiêu chuẩn pháp lí đối với đời
sống xã hội là đặc điểm chung của giới trí thức của
chúng ta…
<h2>III.</h2>
Cơ sở của trật tự pháp luật bền vững là quyền tự do cá
nhân và sự bất khả xâm phạm của cá nhân con người. Dường
như giới trí thức Nga có đầy đủ lí do để quan tâm đến
các quyền của cá nhân. Từ xa xưa, ở nước ta người ta đã
công nhận rằng toàn bộ sự phát triển của xã hội phụ
thuộc vào việc là cá nhân có vị trí như thế nào. Vì vậy
ngay cả việc thay đổi các xu hướng xã hội cũng được thể
hiện bằng việc thay đổi công thức nói về cá nhân. Người
ta đưa ra hết công thức này đến công thức khác: người có
tư duy phê phán, có ý thức, phát triển toàn diện, có tinh
thần cách mạng, có đạo đức, có đức tin tôn giáo, tự hoàn
thiện. Có cả những xu hướng ngược lại, đấy là những xu
hướng muốn hoà tan cá nhân vào quyền lợi xã hội, tuyên bố
cá nhân là quantité negligeable[30] và bảo vệ con người của
cộng đồng. Cuối cùng, thời gian gần tư tưởng của
Nietzsche[31], của Stirner[32] và chủ nghĩa vô chính phủ đã đưa
ra những khẩu hiệu mới về con người cá nhân tự cấp tự
túc, con người ích kỉ và con người siêu nhân. Thật khó có
lĩnh vực nào được khảo sát kĩ lưỡng và toàn diện như lí
tưởng về nhân cách và có thể cho rằng chẳng còn gì mà
nghiên cứu nữa. Nhưng chính chúng ta lại khẳng định một lỗ
hổng cực kì to lớn, vì nhận thức xã hội của chúng ta chưa
từng đưa ra lí lưởng về nhân cách pháp luật. Cả hai khía
cạnh của lí tưởng này: con người được pháp luật đưa vào
kỉ cương và bằng một trật tự pháp luật ổn định và con
người được phú cho tất cả các quyền và được tự do sử
dụng các quyền đó, là những khái niệm xa lạ với nhận
thức của giới trí thức của chúng ta.
Một loạt các sự kiện cho thấy lời khẳng định trên là
đúng. Các lãnh tụ tinh thần của giới trí thức Nga đã nhiều
lần hoặc hoàn toàn coi thường các quyền lợi về pháp luật
của cá nhân hoặc có thái độ thù địch với các quyền lợi
đó. Thí dụ, một trong những luật gia kiêm tư tưởng gia nổi
tiếng của chúng ta là K. D. Kavelin[33] đã quan tâm rất nhiều
đến vấn đề cá nhân nói chung: trong bài báo Khảo sát đời
sống pháp luật của nước Nga cổ đại trên tờ Người
đương thời in năm 1847, ông đã ghi nhận lần đầu tiên rằng
trong lịch sử thiết chế pháp luật Nga, cá nhân đã bị gia
đình, làng xóm và nhà nước che lấp và chẳng có một qui
định pháp luật nào; sau đó, từ cuối những năm 60 (thế kỉ
XIX- ND) ông chuyển sang nghiên cứu các vấn đề tâm lí và
đức dục với hi vọng sẽ tìm được trong lí giải mang tính
lí thuyết quan hệ giữa cá nhân và xã hội phương tiện giải
quyết một cách đúng đắn tất cả các vấn đề cấp bách
của xã hội. Nhưng điều này cũng không ngăn cản ông, ngay
trong giai đoạn quyết liệt nhất hồi đầu những năm 60, khi
lần đầu tiên câu hỏi về việc hoàn thành cuộc cải cách
của Aleksander II[34], tỏ thái độ bàng quan không thể tưởng
tượng nổi đối với việc bảo đảm các quyền của cá nhân.
Trong cuốn sách mỏng dấu tên in ở Berlin năm 1862 và nhất là
trong thư từ trao đổi với Gersen, ông đã kịch liệt phê phán
các dự thảo hiến pháp do các hội nghị quí tộc thời đó
đưa ra; ông cho rằng quí tộc sẽ là đại diện của nhân dân
và chính phủ nhân dân sẽ gồm toàn quí tộc và vì vậy sẽ
dẫn đến sự thống trị của quí tộc. Ông đã phủ nhận
chế độ lập hiến nhân danh khát vọng dân chủ, nhưng như
thế là ông đã coi thường giá trị pháp lí của nó. Đối
với K. D. Kavelin, như ông nói trong bức thư, dường như không
tồn tại cái mà chúng ta coi là chân lí không thể tranh cãi,
đấy là tư do và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân chỉ
có thể được thực hiện dưới chính thể lập hiến vì nói
chung tư tưởng về cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân là hoàn
toàn xa lạ đối với ông.
Trong những năm 70 (thế kỉ XIX – ND) thái độ bàng quan đối
với các quyền cá nhân, đôi khi còn chuyển hoá thành thái độ
thù địch, không những đã gia tăng mà còn được biện hộ
về mặt lí thuyết nữa. N. K. Mikhailovski[35], chắc chắn là
người đại diện nổi bật nhất của giai đoạn này, thay mặt
cho thế hệ mình, đưa ra một câu trả lời điển hình rõ ràng
và chính xác cho câu hỏi mà chúng ta quan tâm. Ông tuyên bố
thẳng thừng rằng "tự do là một ý tưởng vĩ đại và đầy
cám dỗ, nhưng chúng ta không thích tự do nếu nó, giống như ở
châu Âu, chỉ làm gia tăng món nợ kéo dài hàng thế kỉ của
chúng ta đối với nhân dân" và nói thêm: "tôi biết chắc
rằng mình đã thể hiện được một tư tưởng thân thiết
nhất và chân thành nhất của thời đại chúng ta, cái tư
tưởng đã tạo cho những năm 70 diện mạo điển hình và vì
nó mà những năm 70 đã tạo ra số lượng nạn nhân khủng
khiếp, không thể nào đếm hết được[36]". Sự phủ nhận
chế độ pháp quyền đã được nâng thành hệ thống có căn
cứ xác định và phát triển. Mikhailovski biện hộ cho hệ
thống này như sau: "Là những người có thái độ hoài nghi
đối với nguyên tắc tự do, chúng ta sẵn sàng không tranh giành
bất cứ quyền nào cho mình, ngay cả những điều sơ đẳng
nhất mà ngày xưa người ta gọi là quyền tự nhiên, chứ không
chỉ đặc quyền đặc lợi, chuyện này thì chẳng có gì để
nói. Chúng ta hoàn toàn chấp nhận sự thô lậu của luật pháp
và chịu đựng mọi tai ương hoạn nạn. Tất nhiên sự từ bỏ
này, có thể nói, mang tính cao thượng vì có ai đưa cho chúng ta
cái gì ngoài sự thô lậu đâu, nhưng tôi nói về tâm trạng mà
cái tâm trạng này đã đạt đến mức giới hạn, thậm chí
không thể tưởng tượng nổi, lịch sử đã cho thấy như thế.
'Mặc kệ họ đánh, nông dân bị đánh là đáng lắm', có
thể thể hiện cái tâm trạng đó một cách gần đúng, ở mức
độ quá quắt nhất của nó. Tất cả chỉ để nhằm một cơ
hội, cái cơ hội mà chúng ta đã để cả tâm trí vào, mà cụ
thể là cơ hội chuyển trực tiếp sang một trật tự cao hơn,
tốt hơn, bỏ qua giai đoạn trung gian của tiến trình phát
triển ở châu Âu, tức là bỏ qua giai đoạn nhà nước tư
bản. Chúng ta tin rằng nước Nga có thể thiết lập cho mình
một con đường lịch sử mới, khác hẳn với châu Âu, mà
đối với chúng ta thì điều quan trọng không phải là một con
đường mang tính dân tộc nào đó mà là con đường tốt đẹp,
và chúng ta công nhận là tốt đẹp khi đấy là con đường
cải tạo một cách tự giác và thực tế diện mạo dân tộc
cho phù hợp với quyền lợi của nhân dân[37]".
Đấy là những luận điểm chủ yếu của thế giới quan dân
tuý, liên quan đến các vấn đề pháp quyền. Mikhailovski và
những người thuộc thế hệ ông từ chối quyền tự do chính
trị và chế độ lập hiến để nhắm tới cơ hội để đưa
một cách trực tiếp nước Nga sang chế độ xã hội chủ
nghĩa. Nhưng toàn bộ cái học thuyết xã hội học này lại
được xây dựng trên sự mù tịt về bản chất của chế độ
lập hiến. Kavelin phản đối các dự án hiến pháp vì vào
thời của ông, đại diện của nhân dân hoá ra lại là đại
diện của quí tộc, còn Mikhailovski phản đối chế độ lập
hiến vì cho rằng đấy là nhà nước tư bản. Do sự yếu kém
của nhận thức pháp quyền cố hữu của giới trí thức của
chúng ta mà cả hai ông đều chỉ chú ý đến khía cạnh xã
hội của chế độ lập hiến mà không nhận thấy tính chất
pháp quyền của nó, bản chất của nó trước hết là nhà
nước pháp quyền. Mà tính chất pháp quyền của nhà nước
hiến định được thể hiện rõ nhất trong việc bảo vệ cá
nhân, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm và tự do của cá
nhân.
(Còn 1 kì)
<strong>Nguồn:</strong> Những cột mốc (Vekhi) – 1909.
Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản
trí thức, Trang 73-111, Hà Nội, 2009.
<em>B. A. Kistiakovski (1869-1920) là nhà triết gia, luật học và xã
hội học nổi tiếng, đảng viên Đảng dân chủ lập hiến.
Kiến thức về pháp luật Nga của ông sâu sắc đến mức Max
Weber đã chọn ông làm cố vấn khi viết về các đảng phái
chính trị ở Nga. Bài Trí thức và nhận thức pháp quyền
được đăng trong Những cột mốc, xuất bản lần đầu năm
1909.</em>
_______________________
[1] Thomas Hobbes (1588-1679), triết gia và chính khách người Anh
[2] Sir Robert Filmer (1588-1653), lí thuyết gia chính trị; tác phẩm
Patriacha, or the Natural Power of Kinhgs nói tới ở đây xuất bản
năm 1680.
[3] John Milton (1608 – 1674), nhà thơ, nhà văn, nhà hoạt động
xã hội nổi tiếng người Anh.
[4] John Lilburne (1615-1657), nhà hoạt động chính trị người Anh.
[5] John Locke (1632-1704), một trong những triết gia vĩ đại nhất
của châu Âu thế kỉ XVII, tác phẩm Two Treatises of Government (Hai
khảo luận về chính quyền) xuất bản năm 1689, trong đó Khảo
luận thứ hai về chính quyền. Chính quyền dân sự đã được
Lê Tuấn Huy dịch, nhà xuất bản trí thức ấn hành năm 2006.
[6] Montesquieu (1689-1755), người tiên phong trong phong trào Khai
sáng Pháp thế kỉ XVIII. Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật
được Hoàng Thanh Đạm dịch, nhà xuất bản Lý luận chính
trị ấn hành năm 2004
[7] Jean-Jacque Rousseau (1789-1794), tác phẩm Bàn về Khế ước xã
hội được Hoàng Thanh Đạm dịch, nhà xuất bản Lý luận
chính trị ấn hành năm 2004
[8] Johannes Althusius (1557-1638), triết gia người Đức.
[9] Pufendorf Samuel (1632-1694), luật sư nổi tiếng người Đức
[10] Thomasius Christian (1655-1728), triết gia người Đức
[11] Christian Wolff (1679-1754), tư tưởng gia người Đức
[12] Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển
Đức.
[13] Johann Gottlieb Fichte (1762 – 1814), triết gia nổi tiếng
người Đức.
[14] Hegel G. (1770-1831), triết gia người Đức, ông tổ của phép
biện chứng.
[15] Iohann Friedrich Herbart (1776-1841), triết học, nhà tâm lí học
và giáo dục học nổi tiếng người Đức.
[16] Christian Friedrich Krause (1781-1832), triết gia người Đức.
[17] Jakob Friedrich Fries (1773-1843), triết gia người Đức.
[18] Thibaut (1772-1840), luật gia nổi tiếng người Đức
[19] Savigny Friedrich Karl (1814-1875), luật gia nổi tiếng người
Đức.
[20] Puchta (1798-1846), luật gia nổi tiếng người Đức.
[21] Beseler (1809-1888), luật gia và chính trị gia nổi tiếng
người Đức
[22] von Ihering (1818-1892), luật gia nổi tiếng người Đức
[23] Tritrerin G. V. (1828-1804), luật sư, triết gia và nhà sử học
nổi tiếng người Nga.
[24] Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng
người Nga.
[25] Gersen A. I. (1812-1870), nhà triết học, nhà chính luận và
nhà văn nổi tiếng người Nga.
[26] K. S. Aksakov (1817-1860), nhà chính luận, nhà sử học, nhà
ngôn ngữ học, nhà thơ Nga.
[27] Petr (1672-1720), thường gọi là Petr Đại đế.
[28] B. N. Almazov (1827-1876), nhà phê bình văn học, nhà thơ trào
phúng Nga.
[29] Leontiev K. N. (1831-1891), triết gia tôn giáo người Nga.
[30] Không có giá trị đáng kể - Tiếng Pháp, ND.
[31] Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[32] Max Stirner, tên thật là Johann Kaspar Schmidt (1806-1858), triết
gia người Đức.
[33] K. D. Kavelin (1818-1885), nhà sử học, nhà xã hội học và
luật học nổi tiếng người Nga.
[34] Aleksander II (1818-1881), hoàng đế Nga từ năm 1885. Bị những
người dân tuý ám sát.
[35] N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà
phê bình văn học Nga, lí thuyết gia của phong trào dân tuý.
[36] Xem Mikhailovski N. K. Toàn tập, tập IV, trang 949.
[37] Tác phẩm đã dẫn, trang 952.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8666), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét