Nguyễn Vũ Bình - Dân Chủ

<h2>Chương I: CƠ SỞ TƯ TƯỞNG</h2>

Lịch sử xã hội loài người là lịch sử quá trình con người
đấu tranh tìm kiếm tự do. Quá trình này bao gồm giai đoạn
tự do nguyên thủy của con người, giai đoạn mất tự do và
cuối cùng là giai đoạn con người tìm được tự do trong toàn
thức (ý thức toàn thể, toàn diện).

Nhu cầu có tính nền tảng của con người là tự bảo tồn.
Chính nhu cầu căn bản này của cuộc sống con người đã đưa
con người từ tự do nguyên thủy đến chỗ mất tự do. Đó là
một giai đoạn lịch sử rất dài, khởi đầu từ xung đột và
dẫn tới sự diệt vong của một số bộ lạc. Ý thức tự
bảo tồn nòi giống con người với tư cách bộ lạc xuất
hiện. Sự hình thành tập thể để bảo tồn nòi giống bắt
buộc con người phải tuân theo những quy định và sự quản
lý, lãnh đạo chính là bước đi đầu tiên của con người
tới chỗ mất tự do. Cùng với tiến trình của lịch sử, sự
xuất hiện tù binh, quá trình phóng thích tù binh và hoà nhập
vào xã hội đã làm phai nhạt ý thức bảo tồn nòi giống với
tư cách bộ lạc. Thay vào đó là ưu tư bảo tồn con người
với tư cách một vùng, một khu vực địa lý – đây chính là
quá trình xuất hiện các lãnh địa và lãnh chúa…tiếp theo là
vương quốc, nhà nước dân tộc. Nếu nhu cầu tự bảo tồn
của con người buổi bình minh đưa đến sự mất tự do của
mình thì chính nhu cầu tự bảo tồn con người với tư cách
nhân loại – trên phạm vi toàn cầu – chính là bước cuối
cùng để con người đạt được tự do trong toàn thức.

Có hai quan niệm làm cơ sở cho cách thức tổ chức đời sống
của con người. Một quan niệm cho rằng xã hội, hoặc quốc gia
là một thực tại bên trên cá nhân các công dân. Quốc gia có
thể sử dụng sức mạnh của nó trên các công dân nhân danh
toàn thể dân chúng. Quan niệm thứ hai cho rằng, không có cái
được gọi là xã hội. Chỉ có các cá nhân cùng nhau quyết
định các nguyên tắc và các quy định nhằm mang lại phúc lợi
cho nhau, và cùng nhau hợp đoàn để làm những điều vượt quá
khả năng của một con người hoặc một gia đình. Những lập
luận trong cuốn sách này đặt trên cơ sở Chủ nghĩa Tự do.
Theo đó, cá nhân là một thực thể độc đáo, hoàn toàn độc
lập, giữ vai trò quyết định và phải được ưu tiên trên
hết so với cộng đồng, tập thể, xã hội, nhà nước. Cá
nhân hoàn toàn có đầy đủ lý trí và năng lực để làm chủ
bản thân và quyết định tất cả các hành vi của mình, do đó
cá nhân được hoàn toàn tự do trong mọi hành động, miễn là
hành động của cá nhân này không làm tổn hại đến cá nhân
khác.

Sở dĩ có sự tồn tại song song hai quan niệm trên bởi vì nó
phản ánh thực tiễn vận động của hai cấu trúc dân chủ
tương đối khác nhau hiện nay. Một bên là thể chế dân chủ
Hoa Kỳ, đặt hoàn toàn trên cơ sở của chủ nghĩa tự do,
được hình thành và xây dựng trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Và một bên là toàn bộ các nhà nước dân chủ còn lại hiện
nay. Tính chất giằng co của hai quan niệm trên càng thêm quyết
liệt bởi cấu trúc dân chủ Hoa Kỳ, có ưu thế vượt trội
nhưng lại không (chưa) áp dụng được cho bất cứ quốc gia
nào. Đồng thời, sự mong manh của các thể chế dân chủ ngoài
Hoa Kỳ và Tây Âu đã tiếp sức cho sự tồn tại của quan
niệm đặt xã hội lên trên cá nhân.

Tại sao nền dân chủ Hoa Kỳ, đặt trên nền tảng là chủ
nghĩa tự do, trên thực tế đã thể hiện ưu thế vượt trội,
lại chưa áp dụng được cho bất kỳ quốc gia nào? Tại sao
các nền dân chủ ngoài Hoa Kỳ và Tây Âu lại mong manh và vô
cùng khó khăn để vượt qua cái ngưỡng dân chủ tuyển cử
để trở thành dân chủ tự do? Bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay có vai trò gì và tác động như thế nào trong hành trình tìm
kiếm tự do của loài người?

Trước hết cần phân biệt sự khác nhau của hai hình thái dân
chủ Hoa Kỳ và Tây Âu. Điểm khác biệt quan trọng nhất là
quá trình hình thành nền dân chủ Hoa Kỳ đi cùng với quá
trình hình thành quốc gia dân tộc, của những con người bình
đẳng, không bị ràng buộc vào quá khứ và vào bất cứ vấn
đề gì. Chính vì vậy, quốc gia (chính quyền) được xây dựng
phản ánh nguyện vọng bảo đảm và bảo vệ tự do cho các
thành viên. Nền dân chủ của các nước Tây Âu ra đời dựa
trên nhu cầu giải phóng con người khỏi sự áp bức của các
chính quyền chuyên chế trước đó. Việc giải phóng con người
như vậy (tự do con người có được) diễn ra từng bước, tùy
thuộc vào bối cảnh cụ thể và tương quan giữa các lực
lượng tiến bộ và bảo thủ của các cuộc cách mạng. Mặt
khác, các dân tộc của Tây Âu đã được hình thành trước khi
con người có tự do. Yếu tố dân tộc rất quan trọng vì nó
là cốt lõi của quốc gia – dân tộc, phản ánh nhu cầu tự
bảo tồn nòi giống với tư cách một quốc gia dân tộc.

Các quốc gia dân chủ ngoài Hoa Kỳ và Tây Âu cũng có quá trình
hình thành nền dân chủ giống như sự hình thành nền dân chủ
của các nước Tây Âu, tức là quá trình giải phóng con người
trên cơ sở các dân tộc sẵn có. Tuy vậy, do đi tiên phong
giải phóng con người nên các nền dân chủ Tây Âu đã phải
dò tìm và tự thiết kế lấy các thiết chế dân chủ của
mình. Các nước khác, dù nền dân chủ hình thành từ các cuộc
cách mạng xã hội toàn diện hay những thay đổi lớn trong
từng lĩnh vực, cũng đã có (và ứng dụng) các kinh nghiệm, cơ
chế, cấu trúc của các nền dân chủ trước đó. Do không có
các điều kiện hình thành nền dân chủ giống như Hoa Kỳ,
tức là nền dân chủ hình thành cùng với sự hình thành quốc
gia, dân tộc trên cơ sở những con người bình đẳng, không có
ràng buộc gì từ quá khứ là một nguyên nhân quan trọng mà
hình thái dân chủ ưu việt của Hoa Kỳ chưa áp dụng được
cho bất kỳ quốc gia nào. Nhưng quan trọng hơn, các nguyên lý
để xây dựng nên các nền dân chủ được rút ra từ hai hình
thái dân chủ Hoa Kỳ và Tây Âu chưa phản ánh được một cách
chính xác các yếu tố cốt lõi của một kết cấu dân chủ
thực sự. Đó chính là lý do cho sự mong manh của các nền dân
chủ ngoài Hoa Kỳ và Tây Âu hiện nay.

Bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay mở ra một cơ hội vô cùng
rộng lớn cho việc hình thành và xây dựng các nền dân chủ.
Không những thế, toàn cầu hoá đã làm phát lộ khả năng kết
nối các nền dân chủ, thúc đẩy và mở rộng quy mô dân chủ
trên phạm vi toàn cầu, đưa con người bước sang vương quốc
của tự do.

<h2>Chương II: KHÁI NIỆM, TIỀN ĐỀ VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN CỦA
DÂN CHỦ</h2>

Dân chủ là một phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao
nhất tự do của con người.

Tự do của con người là một ý niệm. Nó bao gồm quyền con
người và khả năng tự bảo vệ quyền con người của mỗi
một cá nhân.

Vì vậy:

Dân chủ là phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất
quyền con người và khả năng tự bảo vệ quyền con người
của mỗi một cá nhân.

Chúng ta đều biết rằng, có một sự tương đối trong các
khái niệm của triết học chính trị. Mặt khác, dân chủ là
một vấn đề lớn, phức tạp và liên quan tới nhiều phương
diện của cuộc sống. Chính vì vậy, đã có rất nhiều các
định nghĩa về dân chủ. Vậy thì định nghĩa trên đây
được khái quát từ đâu và tại sao lại là như vậy?

Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của hình thái dân
chủ Hoa Kỳ, một hình thái dân chủ vượt trội, vững chắc
lại được hình thành trong các điều kiện đặc biệt lý
tưởng, có một câu hỏi được đặt ra là, những yếu tố
nào đã khiến cho cấu trúc dân chủ Hoa Kỳ tồn tại và tự
hoàn thiện qua rất nhiều thử thách như vậy? Có hai yếu tố
quan trọng nhất, xuyên suốt giữ cho con tàu dân chủ Hoa Kỳ
không chệch hướng mà vẫn băng băng tiến lên phía trước,
đó là sự bình đẳng của những con người buổi đầu tham gia
thiết kế cấu trúc dân chủ đó (sau này phát triển lên thành
sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật) và ý
thức tự bảo vệ quyền con người của mỗi thành viên (sau
này chuyển hoá thành khả năng tự bảo vệ quyền con người
của mỗi cá nhân trong xã hội).

Như vậy, có hai yếu tố cốt lõi bảo đảm sự bền vững và
tự hoàn thiện của thể chế chính trị dân chủ Hoa Kỳ. Yếu
tố thứ hai, đã được khái quát thành định nghĩa về dân
chủ. Yếu tố thứ nhất, sự bình đẳng của các cá nhân trong
xã hội chính là tiền đề của dân chủ. Nhưng đối với Hoa
Kỳ, sự bình đẳng ban đầu là tự nhiên, phát triển thành
sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Còn đối
với các quốc gia khác, không có được sự may mắn này thì
làm thế nào để có được sự bình đẳng?

Tiền đề của dân chủ: là sự chấp nhận và thừa nhận sự
khác nhau và khác biệt của mỗi cá nhân con người, mỗi một
nhóm người, tập thể đại diện cho từng sắc tộc, tôn giáo,
vùng và địa phương

Như vậy, muốn có được sự bình đẳng thì cá nhân và xã
hội cần phải chấp nhận và thừa nhận sự khác nhau và khác
biệt của con người trên hai phương diện: cá nhân – là sự
khác nhau về chủng tộc, hình thức, tính cách…; tập thể -
sự khác nhau giữa các sắc tộc, tôn giáo, vùng và địa
phương.

Cần nhấn mạnh rằng, trải qua chiều dài của lịch sử, sự
khác nhau và khác biệt giữa những cá nhân và nhóm người là
rất lớn. Vì vậy, nói tới tiền đề của dân chủ cũng có
nghĩa là nói tới quá trình xây dựng tiền đề. Một câu hỏi
quan trọng được đặt ra là, làm thế nào để có sự thừa
nhận và chấp nhận lẫn nhau giữa những con người, sắc tộc,
tôn giáo, các địa phương đã có mâu thuẫn, hiềm khích và
thù hận trong quá khứ, thậm chí hiện tại? Chúng ta cần xây
dựng một triết lý, một văn hoá ứng xử tuy không mới nhưng
chưa trở thành phổ biến: tinh thần hoà giải và hoà hợp dân
tộc.

Như vậy, việc xây dựng tiền đề của dân chủ, trong phần
lớn các quốc gia, là xây dựng tinh thần hoà giải và hoà hợp
dân tộc.

Một nền dân chủ muốn được xây dựng thành công cũng cần
phải có những điều kiện xã hội nhất định. Có những
điều kiện tiên quyết (bắt buộc, phải có ngay lập tức) và
những điều kiện cần có được xây dựng theo thời gian.

Điều kiện tiên quyết: Không có chiến tranh hoặc nội chiến.
Bởi vì chiến tranh là trạng thái không bình thường của con
người và toàn xã hội. Không thể xây dựng một xã hội dân
chủ trong điều kiện con người và xã hội trong trạng thái
không bình thường.

Điều kiện cần có:

- không có sự phân biệt và kỳ thị chủng tộc
- không có sự phân biệt và xung đột sắc tộc
- không có sự phân biệt và xung đột tôn giáo

Ở đây cụm từ phân biệt và xung đột phải được hiểu theo
ý nghĩa của từ ghép, bởi vì có thể có phân biệt và giúp
đỡ một số sắc tộc ít người, hoặc một tôn giáo là quốc
giáo chỉ được phân biệt với ý nghĩa số đông dân chúng đi
theo tôn giáo đó.

Sự khác nhau và khác biệt của con người và tập thể cũng
chính là đặc trưng quan trọng của một nền dân chủ. Mỗi
một con người, với khả năng nhận thức, sở thích và điều
kiện sống khác nhau sẽ theo đuổi các việc làm, ngành nghề
khác nhau và sẽ đạt được các kết quả khác nhau trong xã
hội. Tương tự như vậy, một tập thể đại diện cho một
sắc tộc, một tôn giáo, một địa phương đều có những
đặc điểm, đặc trưng riêng biệt. Sự đa dạng, phong phú
trong hình ảnh của mỗi cá nhân, tập thể phản ánh sự chín
muồi của tiền đề và các điều kiện của dân chủ, cũng
như bản thân nền dân chủ.

<h2>Chương III: NỘI DUNG CỦA DÂN CHỦ</h2>

Có rất nhiều nội dung và vấn đề trong một phương thức tổ
chức xã hội. Song, bất kỳ một phương thức tổ chức xã
hội nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản sau đây
của xã hội: 1 – vấn đề Chính quyền; 2 –Vấn đề Luật; 3
– Vấn đề con người.

Bản chất của phương thức tổ chức xã hội sẽ được dùng
làm cơ sở để giải quyết ba vấn đề trên. Điều đó cũng
có nghĩa là, cách thức giải quyết ba vấn đề trên sẽ bộc
lộ bản chất của một phương thức tổ chức xã hội. Phương
thức tổ chức xã hội dân chủ sẽ giải quyết ba vấn đề
bằng các nội dung sau:

<h3>1- Vấn đề Chính Quyền</h3>

Hiện nay có hai cách hiểu khi đề cập tới vấn đề chính
quyền. Hiểu theo nghĩa rộng, chính quyền được hiểu là Nhà
nước với ba chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng
thời đại diện quốc gia. Theo nghĩa hẹp, chính quyền đồng
nghĩa với chính phủ, thực hiện chức năng hành pháp. Nhưng
trong nhiều trường hợp và văn bản, chính quyền đồng nghĩa
với Nhà nước. Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì bản chất
của chính quyền dân chủ không thay đổi: là một định chế
được xây dựng để bảo đảm và bảo vệ quyền con người
trong một phạm vi địa lý nhất định.

Xuất phát từ bản chất của chính quyền dân chủ, có hai nội
dung chính cần được xem xét, lý giải và thực hiện:

<h4>a. Chính quyền là một định chế được xây dựng để
bảo đảm quyền con người:</h4>

Đúng vậy, quyền con người, yếu tố cốt lõi trong nền dân
chủ, dù được tất cả mọi người trong xã hội công nhận
và thừa nhận, cũng không phải bỗng dưng mà có. Nó phải
được tổ chức trên bình diện xã hội, cực kỳ khoa học và
vô cùng công phu, gian khổ. Những khó khăn và hạn chế trong
việc bảo đảm quyền con người ở các nước dân chủ ngoài
Hoa Kỳ và Tây Âu phần lớn do việc tổ chức và xây dựng
chính quyền còn nhiều bất cập. Tuy nhiên, khi đã xác định
chính quyền được xây dựng để bảo đảm quyền con người
là chúng ta đã đóng khung được một một phần chức năng
của chính quyền, từ đó tổ chức chính quyền hợp lý và
hiệu quả hơn.

<h4>b. Chính quyền là một định chế được xây dựng để
bảo vệ quyền con người.</h4>

Trong hoạt động sống của mình, quyền con người thường bị
vi phạm bởi việc sử dụng sức mạnh. Trong xã hội văn minh,
việc sử dụng sức mạnh cần phải bị loại trừ. Quyền
sống của con người kéo theo quyền tự vệ, sử dụng sức
mạnh trả đũa nhắm vào những kẻ đã ra tay sử dụng sức
mạnh trước. Nhưng việc dùng sức mạnh trả đũa không thể
tùy thuộc vào ý muốn của mỗi một cá nhân. Nó đòi hỏi
những luật khách quan, do các bằng chứng đưa ra để xác
định một tội ác và chứng minh ai đã phạm tội ác đó. Khi
sức mạnh bị cấm trong quan hệ xã hội, con người cần một
thể chế nắm nhiệm vụ bảo vệ các quyền lợi của họ,
dưới sự điều chỉnh của một tập hợp các luật lệ khách
quan.

Mặt khác, trong xã hội tự do, một người không bị bắt buộc
giao dịch với người khác. Họ chỉ giao dịch trên cơ sở tự
nguyện, có hợp đồng nếu giao dịch diễn ra trong một thời
gian. Nếu hợp đồng bị phá vỡ do quyết định tùy tiện của
một bên sẽ gây tổn hại tài chính và thảm họa cho người
kia…và ở đây cũng cần một thể chế làm chức năng trọng
tài giải quyết các bất đồng giữa mọi người với nhau, theo
luật khách quan.

Ngoài ra, quá trình xây dựng các định chế của một chính
quyền là quá trình phức tạp, chưa có nguyên lý chuẩn xác, là
quá trình tìm tòi, trải nghiệm. Bản thân quá trình xây dựng
và vận hành định chế chính quyền cũng bao hàm trong nó những
vi phạm quyền con người. Vì vậy, trong định chế chính quyền
được lập ra cũng phải bao hàm trong nó một cơ chế để cá
nhân có thể tự bảo vệ quyền con người của mình.

Như vậy, chính quyền được xây dựng để bảo đảm quyền
con người, bảo vệ con người khỏi tội ác, khỏi các thế
lực ngoại xâm, làm trọng tài giải quyết tranh chấp giữa con
người theo luật khách quan và cũng là để cá nhân tự bảo
vệ quyền con người của mình.

<h3>2– Vấn đề Luật</h3>

Theo nghĩa chung nhất, luật là những quy định để điều
chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Bất kỳ xã hội
nào cũng cần và cũng có luật. Sự khác nhau về luật giữa
các phương thức tổ chức xã hội khác nhau là nguồn gốc,
chức năng, việc thực hiện và bảo vệ luật. Trong một xã
hội dân chủ, điều đặc biệt dễ thấy nhất là luật có
mặt ở khắp mọi nơi, tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, các
cấp trong đời sống, sinh hoạt của mọi tầng lớp người
dân. Theo ý nghĩa cơ học, sự đa dạng, phong phú và số lượng
luật phản ánh mức độ của một xã hội văn minh. Số lượng
luật chính là số lượng các tương quan lợi ích được đưa
vào điều chỉnh. Chúng ta xem xét mối tương quan của luật
đối với quyền con người, và cao hơn nữa, là đối với tự
do trong xã hội dân chủ.

Các quyền con người muốn được ra đời cần phải có luật,
bản thân quyền con người tồn tại bằng luật, và việc bảo
vệ quyền con người cũng phải dùng công cụ là luật. Tương
tự như vậy, khả năng bảo vệ quyền con người của mỗi cá
nhân (ngoại trừ yếu tố khát vọng, động cơ của bản thân
con người) đều được bảo đảm và liên quan mật thiết tới
luật. Như vậy, ta có thể kết luận: luật chính là bà đỡ,
là hiện thân, là linh hồn của tự do và cũng là công cụ để
bảo vệ tự do. Chúng ta xây dựng nên luật, đối xử với
luật như thế nào cũng chính là chúng ta xây dựng nên tự do
và đối xử với tự do như vậy. Đây chính là tinh thần
thượng tôn pháp luật trong các xã hội dân chủ.

Để bảo đảm đúng tinh thần thượng tôn pháp luật, một xã
hội dân chủ cần đặt luật như một đối tượng đặc biệt
cần được xây dựng và hoàn thiện với tư cách một cơ chế,
một cấu trúc và một thiết chế. Đồng thời, định hướng
nội dung của luật không gì khác hơn ngoài việc: bảo đảm và
bảo vệ quyền con người.

<h4>a - Luật là đối tượng đặc biệt, được xây dựng và
hoàn thiện với tư cách là một cơ chế, một cấu trúc và
một thiết chế</h4>

Trong quá trình xây dựng chính quyền, việc xây dựng và thực
thi luật cũng được đặt ra và thực hiện, đặc biệt có cả
một cơ chế tam quyền phân lập để làm việc này. Tuy nhiên,
khi chúng ta đặt luật là một đối tượng đặc biệt, như
một chỉnh thể riêng biệt và hoàn chỉnh thì sẽ có sự khác
biệt rất lớn, từ quan niệm đến việc tập trung sự chú ý
và nguồn lực, cũng như sự giám sát của nhân dân và sẽ dẫn
tới sự khác biệt tích cực trong xây dựng, thực thi và hoàn
thiện luật.

Sự tách biệt lập pháp, hành pháp và tư pháp thực ra là sự
phân công chức năng để bảo đảm luật được ra đời và
hình thành phản ánh đúng nguyện vọng của người dân, để
việc thực thi luật được bình đẳng và nghiêm minh, để
luật được bảo vệ một cách khách quan và công bằng. Tức
là quá trình xây dựng và vận hành, thực thi và bảo vệ luật
không bị bóp méo bởi việc tập trung nhiều chức năng trong tay
một chủ thể. Mặt khác, để sự vận hành trôi chảy, từ
lúc hình thành cho tới khi thực thi và bảo vệ luật không bị
tắc nghẽn, chúng ta cần có một cấu trúc xã hội tương ứng
với cơ chế phân công chức năng. Sau một thời gian, khi mà cả
cơ chế và cấu trúc xã hội, trải qua quá trình tìm tòi, trải
nghiệm, đã bảo đảm được chức năng, nhiệm vụ của mình,
chúng ta cần xác lập một thiết chế xã hội dựa trên cơ
chế và cấu trúc đó.

<h4>b - Chức năng của luật: bảo đảm và bảo vệ quyền con
người</h4>

Để thực hiện được chức năng bảo đảm và bảo vệ quyền
con người, luật và hệ thống luật cần thực hiện những
nhiệm vụ sau:

- Xác quyết quyền con người: không nghi ngờ gì nữa, yêu cầu
quan trọng nhất đối với luật là xác quyết quyền con
người. Đó là các quyền cơ bản về tự do cá nhân của con
người bao gồm: quyền sống, quyền sở hữu, quyền tự do ngôn
luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền mưu cầu hạnh phúc. Xác
quyết các quyền cơ bản về tự do dân sự - chính trị như:
quyền tự do ứng cử, bầu cử; quyền tự do hội họp và lập
hội; quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật;
quyền được tố tụng đúng đắn và xét xử công bằng….
luật cũng phải xác quyết một hệ thống các quyền đi theo
các quyền cơ bản và các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội
và đời sống.

- Luật tham gia quá trình xây dựng cơ chế, cấu trúc và thiết
chế xã hội bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Quá trình
xây dựng chính quyền, quá trình xây dựng cơ chế, cấu trúc
và thiết chế xã hội đều có sự tham gia của luật. Những
định hướng nội dung bảo đảm và bảo vệ quyền con người
của luật giúp cho các quá trình này được thực hiện nhanh
chóng, hoạt động được hiệu quả và bền vững hơn bởi sự
cộng hưởng mục đích.

- Luật tham gia xây dựng nhận thức về quyền con người, về
tự do, dân chủ và ý thức tự bảo vệ quyền con người cho
người dân. Vai trò của nhận thức về quyền con người, về
tự do, dân chủ để từ đó hình thành ý thức tự bảo vệ
quyền con người của người dân là vô cùng quan trọng. Việc
nhận thức này không thể do người dân tự tìm hiểu mà cần
phải được sự hướng dẫn, giáo dục và quy định bằng
luật pháp đối với các cơ quan chức năng của chính quyền.
Vì vậy, việc tham gia xây dựng nhận thức cho người dân về
quyền con người và về tự do, dân chủ là nội dung quan trọng
trong chức năng bảo đảm và bảo vệ quyền con người của
luật.

<h3>3. Vấn đề Con Người</h3>

Các phương thức tổ chức xã hội đều phải giải quyết vấn
đề con người. Một cách giản dị: ai, nhóm người nào chi
phối quá trình xây dựng và hoạt động của chính quyền, của
hệ thống luật? và hệ thống chính quyền và luật pháp đó
hoạt động đem lại và bảo vệ lợi ích cho ai, nhóm người
nào? Phương thức tổ chức xã hội dân chủ đã xác quyết,
trong nguyên lý và trong các hiến pháp dân chủ: nhân dân chính
là chủ thể của quá trình xây dựng và hoạt động của hệ
thống chính quyền và luật pháp. Đồng thời hoạt động của
chính quyền và hệ thống luật pháp bảo đảm và bảo vệ
lợi ích của nhân dân. Nói cách khác, quyền lực thuộc về
nhân dân. Vấn đề đặt ra ở đây là, làm thế nào để
người dân thực sự tham gia vào quá trình xây dựng các thể
chế xã hội và làm thế nào để các thể chế xã hội đó
bảo đảm quyền con người và khả năng tự bảo vệ quyền con
người của mỗi cá nhân? Có hai nội dung phương thức tổ
chức xã hội dân chủ cần thực hiện. Đó là xây dựng nhận
thức về quyền con người, về tự do, dân chủ cho người dân
và xây dựng cơ chế để mỗi cá nhân có thể tự bảo vệ
quyền con người của mình.

<h4>a. Nhận thức về quyền con người, về tự do, dân chủ</h4>

Quyền con người là một khái niệm rất mới trong lịch sử
nhân loại. Có hai luận thuyết về nguồn gốc quyền con
người, một số người khẳng định quyền là tặng phẩm của
chúa trời, số người khác thì cho rằng quyền là tặng phẩm
của xã hội. Nhưng trên thực tế, nguồn gốc quyền là bản
chất con người [*]. Con người là thực thể thuộc một loài
đặc biệt - thực thể có lý trí – con người không thể hành
động hiệu quả dưới sự cưỡng ép, quyền là điều kiện
cần cho sự tồn tại đặc biệt của con người. Vậy, quyền
là nguyên tắc đạo đức xác định và thừa nhận sự tự do
hành động của con người trong một xã hội nhất định. Chỉ
có một quyền cơ bản mà thôi – tất cả các quyền khác là
kết quả hoặc hệ quả tất yếu của quyền cơ bản này –
quyền của con người đối với đời sống cá nhân. Đời
sống là một quá trình hành động tự duy trì và tự sinh sôi;
quyền đối với đời sống tức là quyền hành động tự duy
trì và tự sinh sôi – có nghĩa là: tự do tiến hành tất cả
các hành động mà tự nhiên đòi hỏi từ một thực thể có
lý trí, để hỗ trợ, thúc đẩy, hoàn thành và hưởng thụ
đời sống riêng của mình. Đó là ý nghĩa của quyền sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Trong thực tế cuộc sống, quyền con người được xác định
trên hai phương diện: quyền tự do cá nhân con người và quyền
tự do chính tri - dân sự của con người (quyền công dân).

- Quyền tự do cá nhân con người bao gồm các quyền cơ bản
sau:

+ Quyền Sống: là nguồn của mọi quyền

+ Quyền sở hữu tài sản: là cách duy nhất để thi hành
các quyền. Không có quyền sở hữu, tất cả các quyền khác
là bất khả thi. Bởi vì con người phải tự mình duy trì đời
sống của mình, cho nên người nào không có quyền đối với
sản phẩm do nỗ lực cá nhân mình tạo ra thì sẽ không có
cách nào sống được. Người nào sản xuất và bị những kẻ
khác chiếm đoạt sản phẩm, thì người đó ắt là nô lệ.

+ Quyền tự do ngôn luận: là quyền tự do thể hiện, trình
bày ý kiến mà không bị can thiệp, đàn áp và trừng phạt.

+ Quyền tự do tín ngưỡng: quyền theo hoặc không theo một
tôn giáo nào đó. Thể hiện tinh thần khoan dung tôn giáo, kết
quả đấu tranh hàng nghìn năm của con người.

+ Quyền mưu cầu hạnh phúc: là quyền làm những gì cá nhân
coi là cần thiết để đạt được hạnh phúc.

- Quyền tự do chính trị-dân sự của con người (quyền công
dân) bao gồm:

+ Quyền tự do ứng cử và bầu cử
+ Quyền tự do báo chí
+ Quyền tự do hội họp và lập hội
+ Quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật
+ Quyền được tố tụng đúng đắn và xét xử công bằng

Ngoài ra, còn một số các quyền khác để thể hiện và thực
thi các quyền cơ bản của con người. Ví dụ: quyền tự do cư
trú, tự do đi lại, quyền thừa kế, quyền được bảo vệ
nhân phẩm, v.v.

Nhận thức của người dân về tự do, dân chủ cần nhấn
mạnh phương diện tham gia xây dựng hệ thống chính quyền, hệ
thống luật pháp của người dân. Cùng với đó là hệ thống
thủ tục, trình tự, các địa chỉ để người dân có thể
khiếu nại, tố cáo, khởi kiện nhằm bảo vệ các quyền tự
do của họ. Mặt khác, kiến thức về tự do, dân chủ cần
phải được trình bày đơn giản, dễ hiểu, và quan trọng hơn,
phải gắn chặt và liên quan mật thiết với cuộc sống người
dân.

<h4>b. Xây dựng cơ chế bảo đảm khả năng tự bảo vệ quyền
con người của mỗi cá nhân: Toà án nhân quyền</h4>

Đây là yếu tố, là cơ chế quan trọng nhất của nội dung dân
chủ, của thiết chế dân chủ, của phương thức tổ chức dân
chủ. Đây là yếu tố cốt lõi, hạt nhân của cấu trúc tự
hoàn thiện của bất kỳ nền dân chủ nào. Xây dựng được
cơ chế này, thực hiện được nội dung này, nền dân chủ sẽ
vượt qua mọi khó khăn, thử thách và tự đi tới trạng thái
hoàn thiện. Có hai nguyên nhân lý giải điều này:

Thứ nhất, quyền con người là đối tượng luôn luôn bị xâm
hại, bị vi phạm mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Sự vi
phạm quyền con người là do:

- Việc xây dựng hệ thống chính quyền và luật pháp, với
mục đích bảo đảm và bảo vệ quyền con người, là quá
trình phức tạp cần tìm tòi, trải nghiệm. Bản thân quá trình
này cũng bao hàm trong nó sự vi phạm quyền con người.

- Sự cám dỗ tự nhiên về quyền lực và lợi ích đối với
cá nhân tham gia xây dựng các thiết chế dân chủ sẽ hàng
ngày, hàng giờ đưa tới sự vi phạm quyền con người cả trên
phạm vi cá nhân và tập thể.

- Vấn đề tội phạm

Vì vậy, việc bảo vệ quyền con người phải được đặt lên
hàng đầu và phải có cơ chế để thực hiện việc bảo vệ
đó.

Thứ hai, không ai có thể bảo vệ quyền con người hiệu quả
bằng chính bản thân cá nhân bảo vệ quyền con người cho
mình. Đồng thời, toà án Nhân quyền cũng là nơi tôn nghiêm và
hiệu quả nhất để bảo vệ quyền con người, nhất là đối
với những người nghèo và dân thường.

[*] Theo Ayn Rand.


<h2>Chương IV: HIỆN THỰC HOÁ DÂN CHỦ</h2>

Xét dưới góc độ dân chủ, các quốc gia trên thế giới hiện
nay được nhiều người nhìn nhận có ba mức độ khác nhau.
Các quốc gia có nền dân chủ tương đối hoàn hảo, còn gọi
là dân chủ tự do, gồm Hoa Kỳ và các quốc gia Tây Âu. Các
quốc gia cũng có thể chế dân chủ, nhưng đi sâu vào quyền con
người mới chỉ dừng ở mức dân chủ trong tuyển cử. Và
cuối cùng là các quốc gia chưa có dân chủ bao gồm độc tài
cá nhân, độc tài tập thể hoặc toàn trị.

Trên góc độ hiện thực hoá dân chủ, theo các nội dung cuốn
sách này đưa ra, thì không có gì nhiều để vận dụng (hoặc
áp dụng) đối với các quốc gia dân chủ tự do. Tuy nhiên, các
toà án nhân quyền vẫn là một yêu cầu cần đặt ra trong
việc hoàn thiện các thể chế dân chủ. Đồng thời, các nhà
nước của Hoa Kỳ và Tây Âu hiện nay vẫn quá cồng kềnh so
với chức năng thực sự của nó cũng như xu hướng hoà hợp
và toàn cầu hoá đặt căn bản trên nhận thức chung về trách
nhiệm toàn cầu của các quốc gia hiện nay.

Hiện thực hoá dân chủ, vì vậy, đặt ra chủ yếu đối với
các quốc gia đã có các thể chế dân chủ nhưng người dân
chưa thực sự tự do và trong tương lai, là các quốc gia độc
tài chuyển sang dân chủ. Như ở đầu cuốn sách có đề cập,
tình trạng các quốc gia đã có những thể chế nhất định,
nhưng người dân chưa được tự do, xuất phát từ những
nguyên lý để xây dựng nền dân chủ chưa phản ánh được
các yếu tố cốt lõi của một kết cấu dân chủ thực sự.
Nhưng mặt khác, cách thức xây dựng, trình tự tiến hành để
xây dựng các thể chế dân chủ cũng là một nguyên nhân quan
trọng dẫn tới việc các quốc gia khó vượt qua ngưỡng dân
chủ tuyển cử để trở thành dân chủ tự do.

Các quốc gia thường bắt đầu tiến trình xây dựng thể chế
dân chủ, sau một cuộc cách mạng ôn hoà hoặc bạo lực, bằng
việc soạn thảo một hiến pháp dân chủ (thuê các nhà hiến
pháp nổi tiếng trên thế giới); định hình các đảng phái
chính trị quốc gia; xây dựng lộ trình bầu cử quốc hội,
chính quyền (chế độ tổng hoặc bán tổng thống); tiến hành
vận động tranh cử và thực hiện tổng tuyển cử. Người ta
cho rằng, thành công trong xây dựng thể chế dân chủ chính là
việc giữ cho các tiến trình trên diễn ra trôi chảy, không có
biến động làm thay đổi hoặc phá vỡ tiến trình đó. Điều
nguy hiểm hơn, là sự mặc định các thể chế vừa xây dựng
cho toàn bộ tiến trình dân chủ. Ví dụ, có lập luận cho
rằng, hiến pháp phản ánh tương quan lực lượng giữa các
đảng phái vào thời điểm xây dựng hiến pháp?!? Nhận xét
toàn bộ quá trình này, chúng ta nhận thấy hoạt động xây
dựng thể chế dân chủ chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia,
với một số ít người tham gia. Còn người dân, có lẽ chỉ
có một việc duy nhất là đi bỏ phiếu, trong tình trạng nhận
thức một điều duy nhất là hình như đất nước vừa thay
đổi chế độ!

Đó là một tiến trình đảo ngược, hay như người Việt Nam
thường nói "xây nhà từ nóc". Điều quan trọng nhất trong
cách thức tiến hành xây dựng thể chế dân chủ là, nó phải
được diễn ra từ/ở đơn vị dân chủ cơ sở - là đơn vị
địa lý, hành chính nhỏ nhất có thể xây dựng thể chế dân
chủ - đồng thời được toàn thể người dân tham gia. Toàn
bộ nội dung của dân chủ phải được thực hiện trên bình
diện dân chủ cơ sở, và gắn chặt với cuộc sống của
người dân. Chỉ có ở đây, người dân mới thực sự tham gia
vào xây dựng hệ thống chính quyền, hệ thống luật cũng như
cơ chế về toà án nhân quyền để họ tự bảo vệ quyền con
người của mình. Tất cả các hoạt động xây dựng thể chế
dân chủ ở cấp cao hơn cấp cơ sở chỉ có mục đích mở
đường, hỗ trợ và tạo điều kiện để bảo đảm yêu cầu
cho việc xây dựng và hoạt động của thể chế dân chủ ở
cơ sở. Thước đo quyền con người, mức độ dân chủ của
quốc gia không phải bằng sinh hoạt chính trị dân chủ trên
bình diện quốc gia mà bằng quyền con người, mức độ tham gia
của người dân, khả năng tự bảo vệ quyền con người của
người dân trong không gian sinh hoạt dân chủ cơ sở.

Trên tinh thần này, một chính quyền (hay nhà nước) chỉ nên
là một chính quyền gọn nhẹ, thực hiện các chức năng tối
thiểu để duy trì sinh hoạt quốc gia. Các chức năng chính yếu
của nhà nước, là đại diện quốc gia, duy trì đoàn kết dân
tộc; xây dựng và duy trì lực lượng vũ trang (quân đội và
cảnh sát); toà án để giải quyết tranh chấp giữa con người
với nhau. Và, một chức năng quan trọng là thúc đẩy, hỗ trợ
và tạo điều kiện cho tiến trình xây dựng và hoạt động
của thể chế dân chủ ở cơ sở.

Tựu trung lại, đối với các quốc gia đã có hình thái dân
chủ tuyển cử, thì việc hiện thực hoá dân chủ cần được
tiến hành như thế nào?

- Trước hết, cần trang bị nhận thức về quyền con người,
về tự do, về phương thức tổ chức xã hội bảo đảm tự do
của con người (dân chủ) cho mọi người dân, mà ban đầu là
tầng lớp tinh hoa, có ý chí để hiện thực hoá dân chủ. Lưu
ý rằng, việc trang bị nhận thức trên cho mọi người dân là
việc làm bắt buộc. Vì vậy, cần xây dựng kiến thức về
tự do, dân chủ thật đơn giản, dễ hiểu và phải gắn với
cuộc sống của người dân.

- Xây dựng thể chế xã hội dân chủ bao gồm chính quyền, hệ
thống luật và cơ chế tự bảo vệ quyền con người (toà án
nhân quyền) trong không gian dân chủ cơ sở. Để thực hiện
được điều này, trước hết phải xoá bỏ sự mặc định
về thể chế chính trị đang tồn tại; chuyển trọng tâm xây
dựng thể chế xã hội trên bình diện quốc gia sang bình diện
cơ sở; đặt toàn bộ việc xây dựng và hoạt động của các
thể chế cấp trên cơ sở trong phạm vi ảnh hưởng của cấp
cơ sở. Nói cách khác, sự tồn tại và hoạt động của các
thể chế ngoài cấp cơ sở chỉ để phục vụ cho việc xây
dựng và hoạt động của thể chế dân chủ cơ sở.

- Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá hiện nay, vấn đề
xây dựng thể chế dân chủ cần được đặt trong xu thế dân
chủ hoá toàn cầu. Có nghĩa rằng, các quyền con người được
tuyên ngôn nhân quyền đặt ra phải được bảo đảm, đồng
thời tham khảo và tham chiếu các thể chế dân chủ của các
quốc gia khác nhau để đi tới sự kết nối tự do trên toàn
thế giới.

Lô gic của cuốn sách thật ra không khó hiểu: Dân chủ là
phương thức tổ chức xã hội bảo đảm cao nhất quyền con
người và khả năng tự bảo vệ quyền con người của mỗi cá
nhân. Muốn bảo đảm được quyền con người thì người dân
phải trực tiếp tham gia vào việc xây dựng thể chế xã hội
đó, vì vậy nội dung xây dựng thể chế xã hội trước hết
và cơ bản phải được xây dựng tại cơ sở - tức đơn vị
dân chủ nhỏ nhất – gắn liền với cuộc sống của nhân
dân. Mặt khác, khả năng tự bảo vệ quyền con người của
mỗi cá nhân phụ thuộc vào nhận thức của người dân về
các quyền con người, về tự do, dân chủ. Đồng thời, cần
có cơ chế để bảo vệ quyền con người, đó là toà án nhân
quyền. Như vậy, Dân chủ là quá trình xây dựng thể chế xã
hội và nhận thức của con người để bảo đảm và bảo vệ
quyền con người của mỗi một cá nhân.

<h2>Chương V: DÂN CHỦ HOÁ TOÀN CẦU</h2>

Hiện nay con người đang sống ở giai đoạn có ý nghĩa nhất
trong lịch sử. Đó là giai đoạn con người bắt đầu thời
kỳ xác định chính xác mục tiêu và phương thức để đạt
được tự do mà con người đã tìm kiếm hàng vạn năm qua. Tự
do của con người đang sống trên trái đất, đúng nghĩa nhất,
phải là tự do hoàn toàn. Có nghĩa là một con người khi ở
Mỹ, ở Xô-ma-li, ở Nhật Bản, ở Bắc Triều Tiên, ở Pháp,
ở Vê-nê-zuê-la đều phải được tự do như nhau. Dân chủ
phải được xây dựng, với cùng nguyên lý, ở tất cả các
châu lục, các bờ đại dương và tất cả các quốc gia. Tóm
lại, đó là tiến trình dân chủ hoá toàn cầu.

Cơ sở quan trọng nhất để nói rằng chúng ta đang trong tiến
trình dân chủ hoá toàn cầu là các tiến trình tự nhiên của
lịch sử đang kích hoạt nhu cầu tự bảo tồn của con người
với tư cách nhân loại, trên phạm vi toàn cầu. Một cách dễ
hiểu, con người hiện đang phải đối mặt với nguy cơ tự
diệt vong, bị diệt vong trong tương lai gần.

- Nguy cơ tự diệt vong: có hai nguy cơ hiển hiện trước mắt,
đó là chiến tranh nguyên tử trên phạm vi toàn cầu và thảm
họa môi trường sinh thái toàn cầu.

- Nguy cơ bị diệt vong: các lý thuyết, dấu hiệu về ngày tận
thế và khả năng nhân loại bị tấn công bởi người ngoài
trái đất, bởi một nền văn minh khác.

Sự hợp tác tự nguyện của con người trên phạm vi toàn cầu
được dẫn dắt bởi bản năng và tiềm thức nhân loại (nhu
cầu tự bảo tồn con người) sẽ được kết hợp với nhận
thức, ý thức của con người được phản ánh từ thực tiễn
cuộc sống, đó là:

+ Nhận thức về sự phụ thuộc ngày càng tăng giữa các quốc
gia, khởi nguồn từ toàn cầu hoá kinh tế, lan sang các lĩnh
vực văn hoá, xã hội và chính trị.

+ Nhận thức về sự thiệt hại chung, sự vô nghĩa của xung
đột, của chiến tranh giữa các quốc gia.

Tiến trình dân chủ hoá toàn cầu, đã và đang diễn ra, sẽ
được xác định và thúc đẩy trên những trụ cột cơ bản
nào? Có ba trụ cột để thực hiện dân chủ hoá toàn cầu.

Một là, Sự kết nối kinh tế - kỹ thuật trên toàn cầu.
Tiến trình này đang diễn ra mạnh mẽ với dòng chính là toàn
cầu hoá kinh tế được sự dẫn dắt, hỗ trợ bởi sự kết
nối về khoa học, kỹ thuật: hệ thống Internet. Trên góc độ
này, thế giới đã và đang ngày một "phẳng" hơn.

Hai là, Sự kết nối về ngôn ngữ. Ý nghĩa về sự kết nối
của ngôn ngữ có lẽ không cần đề cập nhiều thì mọi
người đều biết được, muốn sống chung, hợp tác có hiệu
quả bắt buộc phải xảy ra tiến trình kết nối về ngôn
ngữ. Vấn đề ở đây là cách thức kết nối. Hiện nay đã
có máy dịch các ngôn ngữ, xu hướng sử dụng Anh ngữ trên
toàn thế giới. Nhưng cả hai cách thức này thực sự không
đáp ứng được yêu cầu kết nối ngôn ngữ toàn cầu. Nhân
loại cần xác lập một ngôn ngữ chung, dễ học, dễ đọc,
dễ viết và dễ hiểu. Một gợi ý là tìm trong số các ngôn
ngữ quốc tế (quốc tế ngữ) hiện nay, ngôn ngữ nào đáp
ứng được tiêu chuẩn trên, được chỉnh sửa và hoàn thiện
bởi các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, dùng làm ngôn ngữ
chung trên toàn cầu. Chúng ta thử hình dung, một ngôn ngữ dễ
học, dễ đọc và dễ viết được tất cả các quốc gia,
ngoài tiếng mẹ đẻ, dùng làm ngôn ngữ giao tiếp trên thế
giới sẽ tiện ích đến nhường nào cho sự giao lưu, hợp tác
của con người.

Ba là, sự kết nối tự do. Đây là đích đến, cũng là nội
dung quan trọng nhất của dân chủ hoá toàn cầu. Ở đây có hai
tiến trình song song tồn tại và hỗ trợ mạnh mẽ cho nhau. Đó
là dân chủ hoá quốc gia và xây dựng thể chế dân chủ toàn
cầu. Dân chủ hoá trên bình diện quốc gia có chức năng kiến
tạo tự do, còn dân chủ hoá toàn cầu thực hiện việc kết
nối tự do. Cả hai tiến trình này cần sự hợp tác để thực
hiện nhiệm vụ chung, hết sức quan trọng:

• Xây dựng và phổ biến nhận thức cho mọi người về
quyền con người, về tự do, dân chủ. Đây là yêu cầu bắt
buộc, cả trên bình diện quốc gia và toàn cầu. Để thực
hiện được nội dung này, thế giới cần xây dựng một Học
viện Dân chủ Toàn cầu, mỗi quốc gia đều có một học viện
Dân chủ, các trường đại học đều có một khoa Dân chủ
học, xây dựng môn học Dân chủ, đưa dân chủ học vào giảng
dạy tại các trường trung học trên phạm vi quốc gia. Quá
trình chuẩn hoá các kiến thức về dân chủ cần được các
học giả trên thế giới thực hiện dưới hình thức dễ
hiểu, sinh động và dễ phổ biến nhất. Phải làm sao để
kiến thức cơ bản nhất về quyền con người, về tự do, dân
chủ đến được với mọi người dân trên thế giới như
những bảng Cửu chương trong toán học!

• Đồng nhất hoá quy trình, quy phạm của toà án nhân quyền
các cấp của quốc gia với toà án nhân quyền quốc tế. Điều
này khá dễ hiểu, các quyền con người có giá trị phổ quát
trên toàn cầu, các nguyên lý về dân chủ của các quốc gia là
như nhau, vậy thì sự bảo vệ quyền con người ở các cấp
độ khác nhau đều phải được thống nhất về quy trình tố
tụng, quy phạm pháp luật.

• Toàn bộ tiến trình Dân chủ hoá toàn cầu muốn được
chủ động thực hiện cần phải có một phong trào rộng khắp
và mạnh mẽ trên thế giới. Đồng thời, cần có lực lượng
để dẫn dắt và thực hiện tiến trình vĩ đại này – đó
là các đảng phái xuyên, hoặc liên quốc gia.

Hà Nội, ngày 31 tháng 01 năm 2011
Nguyễn Vũ Bình

© Nguyễn Vũ Bình - Tác giả giữ bản quyền

Điạ chỉ liên hệ:

Số nhà 26, ngách 349/30
Phố Minh Khai, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 0987 572 844 -- 0987 572 847

© Thông Luận 2011

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7768), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét