Tự do, dân chủ đi trước và tạo ra phát triển kinh tế chưa
phải là một niềm tin phổ cập. Cho tới nay vẫn có một số
khá đông người cho rằng phát triển kinh tế tạo ra dân chủ,
với hệ luận là các dân tộc đang chịu ách độc tài hãy cứ
tạm gác những đòi hỏi về tự do dân chủ để tập trung cố
gắng phát triển kinh tế, sau đó chính phát triển kinh tế sẽ
mang lại tự do dân chủ. Đây là một lý luận rất tiện nghi
cho các chế độ độc tài như Việt Nam; không có gì ngạc
nhiên nếu họ sử dụng nó. Điều đáng tiếc là nhiều người
khao khát tự do dân chủ cũng hoài nghi và không thể phản bác
luận điệu "kinh tế đi trước chính trị" một cách thực dứt
khoát.
Những phân vân về tương quan giữa dân chủ và phát triển có
ít nhất ba nguyên nhân.
Một là, trên thực tế phát triển kinh tế cũng thúc đẩy dân
chủ và tự do vì thế mà chúng ta dễ lẫn lộn hậu quả với
nguyên nhân.
Hai là do chính hiệu lực nhanh chóng của tự do dân chủ: nó
lập tức đưa đến tiến bộ về mặt kinh tế, do đó một số
người không nhận ra cái gì trước cái gì sau.
Ba là, vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là sự
kháng cự của những người lãnh đạo không chịu từ bỏ lập
tức những đặc quyền đặc lợi, dân chủ và tự do không
tới toàn bộ cùng một lúc mà thường tới từng đợt một,
dưới sức ép của thực tại xã hội theo từng mức độ phát
triển, người quan sát thiếu chăm chú khó thấy được rằng
ở mỗi giai đoạn một mức độ dân chủ tự do lớn hơn đã
cho phép một mức độ phát triển lớn hơn.
Trong cuộc kháng cự lồng lộn để cố giữ nguyên quyền lực
của họ, các chế độ độc tài dùng đủ mọi lập luận,
nhiều khi dựa vào những giải thích gian trá của chính hiện
tượng phát triển tại các quốc gia đang dân chủ hóa. Những
kinh nghiệm thường được viện dẫn để phản bác những đòi
hỏi dân chủ và nhân quyền là trường hợp của những nước
được mệnh danh là "các con rồng châu Á" như Đài Loan, Nam
Hàn, Mã Lai, Thái Lan, Singapore, Indonesia và Brunei, và đôi khi ngay
cả Hồng Kông. Các chế độ độc tài châu Á, nhất là Việt
Nam, thường căn cứ vào đó để nói rằng có thể phát triển
mà không cần dân chủ và chính phát triển kinh tế sẽ đem
lại dân chủ. Sự thực như thế nào? Chúng ta lại thử làm
một vòng khảo sát.
<h2>Hồng Kông, mẫu mực dân chủ phương Tây</h2>
Cần loại bỏ ngay trường hợp Hồng Kông. Đó là một nhượng
địa của nước Anh cho tới ngày 30-6-1997. Một toàn quyền
người Anh đại diện cho nước Anh, giao toàn bộ việc quản lý
đời sống hàng ngày cho một guồng máy hành chính người Hồng
Kông. Vị toàn quyền không ở đó để áp đặt một ách thống
trị, vai trò của ông là đảm bảo các quyền tự do theo quan
niệm của nước Anh. Trong những năm cuối cùng trước khi trao
trả Hồng Kông cho Bắc Kinh, toàn quyền Chris Patten còn xuất
hiện như một người luật sư của tự do, dân chủ và nhân
quyền tại châu Á. Ông bị nhiều chế độ châu Á đả kích
như một nhân vật "giáo điều nhân quyền".
Dưới sự giám sát và bảo vệ của nước Anh, Hồng Kông là
một mẫu mực thành công của khuôn mẫu dân chủ tư bản
phương Tây. Hồng Kông không những không chứng minh rằng có
thể phát triển mà không cần dân chủ, trái lại nó còn là
bằng chứng đầu tiên tại châu Á về phép mầu dân chủ tư
bản.
Cũng phải loại bỏ trường hợp của Brunei trong cuộc thảo
luận về tương quan giữa dân chủ và phát triển. Đúng là
vương quốc nhỏ bé này không có dân chủ, chế độ của nó
là một chế độ quân chủ tuyệt đối, mặc dầu vậy nó vẫn
có một mức sống rất cao. Nhưng trước hết Brunei chỉ giàu
chứ không phát triển. Brunei là một quốc gia giàu có lạc
hậu. Hãy cứ nhìn trong những phim tài liệu những rác rưởi
trôi lềnh bềnh và ngập ngụa dưới chân những làng cất trên
cọc cao bên mé sông, mé biển. Brunei cũng không phải là một
quốc gia mà chỉ là một giếng dầu. 260.000 dân sống trên một
diện tích nhỏ xíu chưa đầy 6.000 km2, trong đó quá ba phần tư
là rừng hoang. Brunei không muốn độc lập mà đã bị nước Anh
bắt phải độc lập và đã tự an ủi bằng cách xây một
hoàng cung tốn kém 350 triệu USD, tốn kém này nếu đem chia cho
dân số thì mỗi người phải "đóng góp" 1.500 USD. Muốn hình
dung sự hoang phí này phải tưởng tượng nước Mỹ bỏ ra 350
tỷ USD để xây tòa Bạch Ốc. Sự giàu có của Brunei không do
con người làm ra mà đã phun từ lòng đất lên. Con người ở
đây không cần làm gì cả, cũng không phải đóng một loại
thuế nào, mà được chu cấp tất cả một cách dồi dào. Chắc
chắn họ có thể chấp nhận bỏ qua dân chủ và tự do với
giá này. Nhưng thực ra là họ cũng không mất gì cả. Họ sống
quá sung túc và không cần tranh đấu đòi hỏi bất cứ gì, do
đó không có ý định chống lại nhà vua, và ngược lại nhà
vua cũng không cần kiểm soát họ. Nhà vua cũng không cần cấm
đoán họ đi đâu vì đi đâu họ cũng không sung túc như ở
chính nước họ. Cũng không có một quốc gia nào ngăn cản
những du khách Brunei tới nước họ để tiêu xài. Kết quả là
do sự sung túc cực kỳ người Brunei có tất cả mọi quyền
tự do, trừ quyền tự do trai gái hôn nhau ngoài đường do phong
tục Hồi Giáo. Brunei vẫn thiếu mở mang.
<h2>Singapore: một thị trưởng xuất sắc</h2>
Singapore cũng là một trường hợp rất hi hữu. Nó là một
thành phố thương cảng hơn là một quốc gia và cũng không
phải là một thành phố lớn, với một diện tích 639 km2 và
một dân số chưa đầy ba triệu. Nhưng Singapore không phải là
một ngoại lệ đối với qui luật "tự do dân chủ tạo ra phát
triển". Được thành lập từ đầu thế kỷ 19 bởi một
người Anh, bắt đầu từ một làng đánh cá với khoảng một
trăm người, Singapore chưa hề biết tới một tổ chức xã hội
nào khác hơn là khuôn mẫu tự do dân chủ phương Tây. Singapore
được hoàn toàn tự trị dưới sự giám sát của người Anh
tương tự như Hồng Kông từ 1959 và trở thành một nước
độc lập từ 1965. Chính quyền nằm trong tay một quốc hội
xuất phát từ bầu cử tự do và quốc hội chỉ định một
thủ tướng. Chắc chắn Singapore không phải là một chế độ
dân chủ gương mẫu. Đảng Nhân Dân Hành Động, cầm quyền
từ ngày độc lập, đã sử dụng những biện pháp không mấy
lương thiện để tiếp tục nắm chính quyền, chẳng hạn như
trợ cấp cho những khu nào bầu cho đảng cầm quyền. Nhưng các
đảng đối lập không bị cấm, người đối lập không bị
bỏ tù, báo chí không là độc quyền của nhà nước. Đảng
cầm quyền dùng các biện pháp bất chính để thắng cử nhưng
không cấm đối lập ứng cử và không gian lận kết quả các
cuộc bầu cử. Singapore cũng là một nước có luật lệ khá khe
khắt, nhưng với một diện tích quá nhỏ và một mật độ dân
số 5.000 người trên một cây số vuông, đó có lẽ là cái giá
phải trả để giữ gìn trật tự an ninh. Vả lại luật pháp
tuy khe khắt nhưng lại được áp dụng một cách đứng đắn
cho tất cả mọi người. Và dầu sao nhu cầu dân chủ cũng
không đặt ra cho một thành phố nhỏ như Singapore một cách gay
gắt như đối với một quốc gia lớn. Dân chủ chủ yếu là
phương thức sinh hoạt cho một nước có tầm vóc đáng kể,
phải đương đầu với những chọn lựa lớn và phải cai trị
một dân số đông đảo với những điều kiện sinh hoạt,
những ưu tư và nguyện ước khác nhau. Singapore không có những
vấn nạn đó. Chức năng của nó rất rõ rệt vì con người ở
đây không có mục đích nào khác hơn là làm giàu; điều mà
họ mong muốn là được tự do sinh sống và làm ăn, và họ đã
đạt được. Nhu cầu dân chủ chỉ là thứ yếu.
Trong những năm gần đây, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu,
người đã có công dẫn dắt Singapore trong hơn ba mươi năm trên
con đường đi tới phồn vinh, đã lên tiếng nhiều lần đề
cao "những giá trị châu Á" với một giọng điệu bài bác chung
chung các giá trị của phương Tây. Vì tự do, dân chủ và nhân
quyền được coi là những giá trị của phương Tây nên những
phát biểu của họ Lý được hiểu là không thuận cho tự do,
dân chủ và nhân quyền. Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã
lập tức tôn ông Lý làm bậc thầy (trên thực tế họ đã
mời ông làm cố vấn, để rồi có lúc bị ông mắng là không
chịu cải tổ kịp thời).
Nhưng đối với Singapore, chúng ta không nên quên hai sự kiện
rất cơ bản:
Một là, dù Singapore có phồn vinh đến đâu đi nữa nó cũng
chỉ là một thành phố trung bình và dù ông Lý Quang Diệu có
thành công đến đâu đi nữa ông cũng chỉ có kinh nghiệm của
một viên thị trưởng. Ông có thể lấy kinh nghiệm của mình
để làm cố vấn cho một thành phố thương cảng như Sài Gòn,
Đà Nẵng, Hải Phòng nhưng ông không thể dạy bảo một quốc
gia với những vấn đề mà ông chưa bao giờ biết tới.
Hai là, có một cái gì rất khôi hài trong "những giá trị của
châu Á" mà Lý Quang Diệu đề cao khi đã về hưu. Hơn tất cả
mọi quốc gia và hơn cả Hồng Kông, Singapore là nước châu Á
bị Tây phương hóa nặng nhất. Mọi người Singapore đều thạo
tiếng Anh và đa số không viết thạo tiếng Tàu. Tập tính của
người Singapore là tập tính buôn bán, tôn giáo của Singapore là
của cải vật chất, cái Khổng Giáo mà ông Lý đề cao chỉ là
một thứ Khổng Giáo đô-la. Trong suốt cuộc đời hoạt động
của ông, Lý Quang Diệu đã dồn mọi cố gắng để bắt
chước phương Tây tối đa. Chỉ đến khi về già, ông mới bày
tỏ một sự lưu luyến muộn màng với nguồn gốc Trung Hoa của
ông. Đó chẳng qua là tâm lý lá rụng về cội thông thường
của con người. Người ta có thể hiểu ông nhưng không thể
lấy những lời nói của ông làm tiền mặt.
<h2>Mã Lai: dân chủ ngay từ khi thành lập</h2>
Mã Lai cũng không khác Singapore bao nhiêu về quan hệ với phương
Tây. Đó cũng là một quốc gia hoàn toàn do người phương Tây
thành lập ra, lãnh thổ chỉ mới tạm ổn định từ năm 1963.
Lịch sử của quốc gia này, với một diện tích 330.000 km2
(đúng bằng Việt Nam) nhưng chỉ có khoảng 20 triệu dân, chỉ
thực sự bắt đầu từ thế kỷ 16. Trước đó, trong những
thế kỷ đầu của công nguyên bán đảo Mã Lai chỉ là một
vùng rừng núi hoang vu với một số rất nhỏ thổ dân, và là
trạm dừng chân của các đoàn thuyền buôn từ phương Bắc,
phần lớn từ Ấn Độ, tới Sumatra. Những người Bumiputra, tự
coi là chủ nhân của đất Mã Lai, chỉ bắt đầu đến từ
Sumatra từ thế kỷ thứ 8. Dấu vết chính trị đầu tiên
được ghi nhận là một vương quốc nhỏ được thành lập ở
phía Nam bán đảo đầu thế kỷ 15. Khi một số người Bồ
Đào Nha đến chinh phục mỏm Malacca năm 1511, họ chỉ gặp một
sự kháng cự rất yếu ớt của những bộ lạc rất lẻ tẻ.
Người Bồ Đào Nha đã đóng góp làm cho sinh hoạt thương mại
phát triển mau chóng. Hơn một thế kỷ sau, năm 1641, Mã Lai lại
được may mắn khác : người Hòa Lan, một dân tộc rất sáng
tạo và giàu óc kinh doanh, hất cẳng người Bồ Đào Nha và
chiếm lấy Mã Lai. Sự thịnh vượng lại càng gia tăng dưới
sự cai trị của người Hòa Lan, nhưng nó cũng bắt đầu cám
dỗ một đế quốc mới vừa qua mặt Hòa Lan về sức mạnh :
nước Anh. Năm 1795 Hòa Lan phải nhường bán đảo Mã Lai và
vùng Bắc Borneo cho Anh để rút về cố thủ quần đảo
Indonesia.
Sự khác biệt rất lớn giữa hai đế quốc thực dân lớn
nhất trong thế kỷ 19, Anh và Pháp, là ở chỗ người Pháp cố
gắng phá vỡ mọi giềng mối quốc gia có sẵn để dễ thống
trị, trong khi người Anh cố thành lập ra những quốc gia ngay
cả ở những nơi không có quốc gia để có những đối tác
kinh doanh. Trong suốt một thế kỷ họ đã tạo dựng ra nước
Mã Lai bằng cách kết hợp những cộng đồng rất khác khau
trên bán đảo. Họ thành lập ra Liên Bang Mã Lai năm 1891, mở
rộng dần dần lãnh thổ và quyền tự quản của người địa
phương, rồi trả độc lập cho Mã Lai năm 1957, sau khi đã ký
kết một hiệp ước quân sự. Cũng chính người Anh năm 1963
đã sáp nhập vùng đất phía Bắc đảo Borneo vào Liên Bang Mã
Lai.
Sự nhắc lại vắn tắt lịch sử Mã Lai này cho thấy nó hoàn
toàn được tạo dựng lên do người phương Tây, cho nên tinh
thần nền tảng của nó không thể khác phương Tây, nghĩa là
tự do và dân chủ. Quốc gia tân lập này gồm 55% người
Bumiputra nói tiếng Mã Lai (tiếng nói chung của nhiều sắc dân
thuộc quần đảo Indonesia nơi họ xuất phát), hơn 30% người
gốc Trung Hoa và non 10% người gốc Ấn Độ. Người Trung Hoa tuy
ít hơn về dân số nhưng lại hơn hẳn người Bumiputra về
kiến thức và tài sản. Với một cấu tạo nhân chủng như
vậy, Mã Lai không thể tồn tại dưới một chế độ độc
tài. Nó đã tồn tại được nhờ một thỏa thuận : người Hoa
nhường nhịn người Bumiputra, và người Bumiputra chấp nhận
người Hoa. Cũng cần lưu ý một đặc điểm của người Hoa ở
Mã Lai : họ là những người thích buôn bán làm giàu hơn là
thích quyền lực chính trị. Trong thời gian thế chiến II, hầu
như đã chỉ có một nhóm nhỏ cộng sản gốc Hoa kháng chiến
chống lại quân chiếm đóng Nhật. Tháng 8-1945 khi Nhật đầu
hàng, họ đã nắm được chính quyền tại Mã Lai nhưng đã hạ
khí giới khi người Anh trở lại vì tự thấy không đủ sức
mạnh và hậu thuẫn quần chúng để chống lại. Người Anh vì
thế đã lấy lại được quyền lực một cách không tốn kém
và tiếp tục tạo dựng ra Liên Bang Mã Lai. Về sau này, khi
Đảng Cộng Sản Mã Lai phát động kháng chiến trở lại, họ
cũng chỉ qui tụ được, ở lúc mạnh nhất, không đầy bảy
ngàn người, chủ yếu là người Hoa, và dần dần tàn lụi đi.
Tập tính hiếu hòa, chăm làm giàu và không ham quyền lực của
người gốc Hoa là bí quyết của sự phát triển của Mã Lai sau
này, đồng thời cũng là lý do khiến cho Mã Lai tiếp tục
đứng vững.
Gần đây, những lời tuyên truyền chống các giá trị phương
Tây, hàm ý chống dân chủ và nhân quyền, của thủ tướng
Mahathir Bin Mohamad đã làm những người dân chủ Việt Nam khó
chịu và chính quyền cộng sản Việt Nam khoái chí, nhưng ta
cần phải hiểu rằng đó chỉ là những lời tuyên bố dùng cho
nhu cầu tiêu thụ nội địa mà thôi. Sự thực không phải như
vậy. Mã Lai ngay từ ngày thành lập đã được hưởng không
khí tự do dưới sự giám sát của người Anh. Từ khi có độc
lập nó là một nước dân chủ (chế độ chính trị của Mã
Lai là quân chủ lập hiến nhưng rất ít ai biết đến vua Mã
Lai). Nền dân chủ đó không hoàn chỉnh do điều kiện dân trí,
nhưng có tất cả mọi yếu tố cốt lõi của dân chủ: tự do
ngôn luận, tự do kết hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Các
chính đảng được hoạt động tự do, các cuộc bầu cử diễn
ra một cách đúng hạn kỳ và lương thiện từ ngày độc lập.
Mã Lai hoàn toàn không phải là một chế độ độc tài. Luật
pháp Mã Lai có nhiều khe khắt nhưng do một quốc hội dân cử
biểu quyết ra. Những diễn văn bảo thủ của Mahathir chỉ có
mục đích tuyển cử : toàn bộ giới lãnh đạo Mã Lai, kể cả
Mahathir, đều thuộc giai cấp trưởng giả thành thị Tây
phương hóa 100%, nên luôn luôn lo sợ bị một đảng bảo thủ
mị dân nổi lên đánh bại. Mahathir bài xích phương Tây chỉ
để tỏ ra mình vẫn là Mã Lai, vẫn truyền thống và không
mất gốc.
Mã Lai hoàn toàn không phải là bằng chứng cho rằng một quốc
gia có thể phát triển mà không cần tự do dân chủ. Ngược
lại, hoàn toàn ngược lại, đó là bằng chứng rằng dân chủ
và tự do đã có khả năng biến một quốc gia tân lập, với
dân trí thấp và chủng tộc phức tạp thành một trong những
quốc gia giàu mạnh nhất vùng Đông Nam Á.
<h2>Đại Hàn Dân Quốc: sự thành công của những chế độ
độc tài sáng suốt?</h2>
Một ngộ nhận khác của người Việt Nam là trường hợp Nam
Cao Ly (tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc). Quốc gia nhỏ bé
này, với diện tích 98.500 km2, chưa bằng một phần ba Việt Nam,
và dân số 47 triệu, trong vòng ba thập niên đã vươn lên từ
địa vị một nước nghèo và bị chiến tranh tàn phá thành
cường quốc kinh tế thứ 11 của thế giới. Trong vòng hơn ba
mươi năm, từ 1960 đến 1993, Nam Cao Ly được các tướng lãnh
cai trị cho nên dưới mắt thế giới đó là một nước độc
tài quân phiệt. Thành công ngoạn mục của Nam Cao Ly vì thế
đã được nhiều tập đoàn độc tài, đặc biệt là chính
quyền cộng sản Việt Nam, lấy làm bằng cớ là một chế độ
độc tài sáng suốt có khả năng phát triển kinh tế hiệu lực
hơn là một chế độ dân chủ. Sự thực như thế nào?
Các tướng lãnh thay nhau lên làm tổng thống Nam Cao Ly chắc
chắn không phải là những người yêu chuộng dân chủ và nhân
quyền. Pak Chung Hee [Phác Chính Hy] đã bắt cóc và định thủ
tiêu lãnh tụ đối lập Kim Dae Jung [Kim Đại Trung], tướng Chun
Doo Hwan [Toàn Đầu Hoán] đã tàn sát hàng trăm sinh viên tại
Kwangju. Họ là những tay võ biền, và chính tình trạng căng
thẳng do sự hiện diện của một chính quyền quân phiệt hung
dữ tại Bắc Hàn đã đưa họ lên cầm quyền. Nhưng vấn đề
là họ không áp đặt được chế độ độc tài. Nam Cao Ly vẫn
là một nước dân chủ, với đầy đủ những yếu tố cơ bản
của một chế độ dân chủ: tự do ngôn luận, tự do kết
hợp, tự do bầu cử và ứng cử. Trên thực tế, những cuộc
bầu cử tại Nam Cao Ly đã rất sôi nổi với những kết quả
rất khít khao. Syng Man Rhee [Lý Thừa Vãn] bị lật đổ năm 1960
bởi những cuộc xuống đường rầm rộ phản đối bầu cử
gian lận. Tướng Pak Chung Hee chỉ hơn đối thủ Djang Myon không
đầy 1% trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1963. Do thành công
ngoạn mục về kinh tế, ông đắc cử vẻ vang năm 1967 (87%),
nhưng bốn năm sau đó, năm 1971, chỉ thắng khít khao đối thủ
Kim Dae Jung (54% / 46%). Một giai đoạn sôi động diễn ra sau đó
khi Pak Chung Hee, dựa vào hậu thuẫn mà quần chúng dành cho ông
ta, sửa đổi hiến pháp để tiếp tục nắm chính quyền. Dù
bản hiến pháp mới đã được dân chúng Nam Cao Ly ủng hộ
mạnh mẽ (73% qua trưng cầu dân ý), trí thức và sinh viên đã
tỏ ra sáng suốt và dũng cảm, họ nhìn thấy một âm mưu
thiết lập chế độ độc tài mị dân và đã chống đối mãnh
liệt. Chun Doo Hwan, cầm quyền sau khi Pak Chung Hee bị ám sát,
đắc cử với 90% số phiếu của một "Đại Hội Quốc Dân
Thống Nhất Đất Nước" năm 1982 đã chống trả hung bạo
những tranh đấu của sinh viên trí thức, nhưng càng ngày cuộc
đấu tranh càng được quần chúng hiểu và ủng hộ đưa tới
những cuộc biểu tình khổng lồ. Chun Doo Hwan phải nhượng bộ
và chấp nhận rút lui, tướng Roh Tae Woo [Lư Thái Ngu] chấp
nhận trở lại cách bầu tổng thống theo phổ thông đầu
phiếu và chỉ thắng cử với 36% trong cuộc bầu cử năm 1987
nhờ sự chia rẽ của đối lập dân chủ mà tổng số phiếu
của hai ứng cử viên, Kim Dae Jung và Kim Yong Sam, cộng lại là
55%. Lực lượng dân chủ ngày càng mạnh lên, buộc đảng cầm
quyền phải làm một thỏa hiệp kỳ lạ với đảng của cựu
ứng cử viên tổng thống Kim Yong Sam [Kim Đồng Tam] theo đó hai
đảng hợp nhất, với Kim Yong Sam làm chủ tịch và là ứng cử
viên tổng thống. Năm 1992, Kim Yong Sam đắc cử tổng thống
trong một cuộc bầu cử lương thiện. Cuối năm 1997 Kim Dae Jung
đánh bại ứng cử viên đảng cầm quyền và đắc cử tổng
thống.
Các cuộc bầu cử quốc hội cũng diễn ra một cách đều đặn
và lương thiện từ 1963, trong đó đảng cầm quyền chưa bao
giờ được đa số tuyệt đối.
Như vậy, Nam Cao Ly đã là một nước dân chủ từ thập niên
1960. Cho tới đầu thập niên 1990 đó chưa phải là một nền
dân chủ hoàn hảo, nhưng vẫn là một nền dân chủ thực sự,
một lần nữa nếu hiểu dân chủ là một chế độ bảo đảm
tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kết hợp, tự do bầu
cử và ứng cử. Điều khác với Mã Lai là tại Nam Cao Ly các
tướng lãnh cầm quyền đã chủ trương áp đặt chế độ
độc tài và trí thức Nam Cao Ly đã phải tranh đấu cam go để
đánh bại họ và bảo vệ dân chủ. Thật là sai khi nói rằng
Nam Cao Ly đã phát triển mạnh mẽ trong hơn ba mươi năm dưới
chế độ độc tài quân phiệt. Càng bất lương khi lấy
trường hợp Nam Cao Ly để lập luận rằng có thể phát triển
mà không cần có dân chủ. Không, Nam Cao Ly đã chỉ bắt đầu
phát triển sau khi loại bỏ chế độ độc tài Syng Man Rhee, và
từ đó đã tiến lên nhờ dân chủ và tự do. Sự thực là Nam
Cao Ly đã vươn lên nhờ trí thức của nó đã sáng suốt và
dũng cảm để bảo vệ dân chủ và do đó duy trì được đà
phát triển. Không những không phải là một ngoại lệ, trường
hợp Nam Cao Ly còn chứng tỏ phải dân chủ hóa mới có thể
phát triển và dân chủ phải đi trước phát triển. Cũng đừng
nên quên rằng điều nổi bật nhất và đáng chú ý nhất là
Cao Ly đã bị chia cắt làm hai, miền Bắc (Cộng Hòa Nhân Dân
Triều Tiên) theo chế độ độc tài cộng sản trong khi miền Nam
(Đại Hàn Dân Quốc) theo chế độ dân chủ tư bản, miền Nam
tư bản đã trở thành một cường quốc trong khi miền Bắc suy
sụp và đói nặng.
<h2>Thái Lan: mãi đến 1992</h2>
Thái Lan chỉ được biết tới như một con rồng hay con cọp
tương lai trong vài năm trước cuộc khủng hoảng tài chánh châu
Á khởi đầu từ tháng 7-1997 tại chính Bangkok. Thái Lan không
phải là một mẫu mực thành công về kinh tế và vì thế về
cơ bản không chứng minh điều gì rõ rệt. Điều đáng nói là
Thái Lan đã phải thành công hơn.
Quốc gia này may mắn nhất Đông Nam Á, có lịch sử khá lâu
đời và không bị ngoại thuộc, ngoại trừ thời gian ngắn
ngủi bị Nhật chiếm đóng nhưng không gây đổ vỡ. Thái Lan
đã kháng cự một cách rất hình thức trong vòng vài giờ rồi
đầu hàng và sau đó cũng chỉ bị Nhật chiếm đóng một cách
hình thức cho đến khi Nhật đầu hàng. Thái Lan cũng may mắn
có một hình thức dân chủ thật sớm, ngay từ 1932 khi một
cuộc đảo chánh buộc vua Thái chấp nhận chế độ quân chủ
lập hiến, nhường thực quyền cho một chính phủ xuất phát
từ một quốc hội do dân bầu.
Với sự chuyển hóa mau chóng và bình ổn lâu dài như vậy
đáng lẽ Thái Lan phải là nước phát triển bậc nhất châu Á,
nhất là Thái Lan có đất rộng, vị trí khá thuận lợi và tài
nguyên khá phong phú. Nhưng sự thực đã không diễn ra như vậy,
vì có bề ngoài nhưng cũng còn có bề trong. Mà bề trong là gì?
Đó là các tập đoàn tướng lãnh đã thay nhau cầm quyền
dưới một chế độ dân chủ trong hình thức nhưng độc tài
quân phiệt trong nội dung. Lịch sử cận đại của Thái Lan có
thể tóm tắt như thế này : khi một nhóm tướng lãnh cảm
thấy đủ sức mạnh, họ đảo chính lật đổ đám tướng
lãnh đang cầm quyền và nhóm tướng lãnh bị hất cẳng quay ra
làm thương mại hoặc cạo đầu đi tu chờ cơ hội trở lại
cầm quyền. Những cuộc đảo chánh không đổ máu kế tiếp
nhau trước sự dửng dưng thụ động của quần chúng. Tình
trạng này đã chỉ thật sự chấm dứt tháng 9-1992, khi tập
đoàn quân phiệt phải nhượng bộ, sau khi đã đàn áp đẫm
máu mà không dẹp được, những cuộc xuống đường rầm rộ
đòi dân chủ. Chế độ độc tài quân phiệt Thái Lan đã kéo
dài suốt sáu mươi năm bởi vì nó dựa trên một liên minh rất
vững chắc giữa quân phiệt, tài phiệt và nhà vua, nghĩa là
một liên minh vừa có bạo lực, vừa có tiền lại vừa có
tính chính đáng do lịch sử và truyền thống. Chưa kể là nó
còn có một đồng minh gián tiếp là Phật Giáo Tiểu Thừa,
một tôn giáo nhẫn nhục và thụ động.
Nếu trường hợp Thái Lan có chứng minh điều gì thì đó là
dân chủ không do phát triển kinh tế mang lại. Trong suốt thời
gian sáu mươi năm, mặc dù mức độ tăng trưởng không cao
nhưng sinh hoạt kinh tế xã hội cũng đã thay đổi rất nhiều.
Tuy nhiên, cuộc đấu tranh giành dân chủ đã chỉ do sinh viên
chủ động, mà sinh viên thì không thuộc một thành phần kinh
tế nào, còn gia đình họ thì hầu hết thuộc thành phần quân
phiệt hoặc tài phiệt, nghĩa là những thành phần được ưu
đãi và đáng lẽ phải gắn bó với chế độ. Người ta không
ghi nhận một cuộc đấu tranh có động cơ kinh tế nào trong
suốt thời gian này. Các sinh viên đã chỉ xuống đường vì
những lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền do ảnh hưởng
của văn hóa và truyền thông. Mọi cuộc biểu tình của sinh
viên đều bị đàn áp thẳng tay, mỗi lần vài chục sinh viên
thiệt mạng, trong khi những cuộc đảo chánh quân sự rất ít
khi có người chết hay bị thương. Mùa Xuân 1992, sau một cuộc
bầu cử gian dối, lực lượng sinh viên xuống đường đã
mạnh gấp bội những lần trước, không phải vì cơ cấu kinh
tế đã thay đổi mà vì sự sụp đổ của bức tường Bá Linh
và khối cộng sản đã đẩy thế giới vào kỷ nguyên dân
chủ. Khí thế đấu tranh cho dân chủ đạt một cường độ
chưa từng có, trong khi tập đoàn quân phiệt Thái vừa lung lay
như mọi tập đoàn độc tài trên thế giới, vừa mất lý cớ
cầm quyền để chống nguy cơ cộng sản. Chế độ quân phiệt
Thái cáo chung.
Về mặt kinh tế, Thái Lan đã chỉ phát triển chậm chạp cho
tới giữa thập niên 1960, sau đó Thái Lan, nhờ vị trí hậu
cần cho đoàn quân Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã nhận được một
khoản viện trợ lớn và kinh tế đã có phần khởi sắc, tuy
vậy Thái Lan cũng vẫn còn thua xa nước láng giềng Mã Lai.
Phải chờ đợi đến sau 1992, khi chế độ quân phiệt chấm
dứt, kinh tế Thái Lan mới thực sự cất cánh. Từ đó trở đi
người ta mới bắt đầu nói tới Thái Lan như con rồng mới.
Cuộc khủng hoảng tài chánh ập tới, đưa Thái Lan trở lại
với một tham vọng khiêm nhường hơn. Mùa hè 1998, đúng một
năm sau cuộc khủng hoảng, tôi có dịp trở lại thăm viếng
Thái Lan và nhận xét một cách rất khác với nhiều người.
Tôi thấy đó là một quốc gia dân chủ, với sinh hoạt kinh tế
đang được lành mạnh hóa và một tâm lý kinh doanh rất rõ
rệt. Trái với nhiều người, tôi lạc quan cho Thái Lan sau này
hơn là trước mùa hè 1997.
Điều cần chú ý là Thái Lan đã phát triển mạnh sau khi dân
chủ hóa, và từ đó không còn những xung đột đẫm máu như
trước nữa. Trường hợp Thái Lan như vậy cũng không phải là
một ngoại lệ của qui luật dân chủ đi trước và kéo theo
phát triển. Hơn nữa nó còn bẻ gãy một lý cớ quen thuộc
của các tập đoàn độc tài là dân chủ đưa tới hỗn loạn.
Chính dân chủ đã tránh cho Thái Lan một thảm kịch. Thử
tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra vào mùa hè năm 1997, khi một
cách rất đột ngột kinh tế gần như sụp đổ hoàn toàn, nếu
chế độ vẫn là độc tài quân phiệt? Chắc chắn sẽ có bạo
loạn và đổ máu lớn.
(Còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6102), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét