Nguyễn Gia Kiểng - Đi tìm một mô thức phát triển đất nước [I]

<div class="rightalign">Tuổi hai mươí tuổi của không ngờ</div>
<div class="rightalign">Tuổi hai mươi tuổi của dại khờ</div>
<div class="rightalign">Nguyễn Chí Thiện</div>

Trong thập niên 1960, tại châu Âu, và nhất là tại Pháp, nở
rộ lên một phong trào nghiên cứu phát triển kinh tế. Có cả
một trường đại học chỉ chuyên giảng dạy về phát triển
kinh tế, như thể phát triển kinh tế phải được coi là một
khoa học riêng. Trường này tên là Institut d'Etudes de
Développement Economique et Social [IEDES hay Viện Nghiên Cứu Phát
Triển Kinh Tế và Xã Hội]. Nhiều bạn tôi đã tốt nghiệp
tại trường này. Nhưng dù học trường này hay không thì mọi
người đều bị lôi cuốn vào các cuộc tranh luận về phát
triển kinh tế. Thời trang lúc đó là cố gắng động não để
tìm ra những kế hoạch và mô thức kinh tế có khả năng phát
triển một nước lạc hậu. Các mô thức được đặc biệt
quí trọng, nhất là nếu chúng lại được trình bày bằng
những phương trình toán học phức tạp với những dấu hiệu
dẫy số, vi phân, tích phân, lũy thừa, v.v... Vô số các mô
thức đã được "phát minh" ra trong các quán cà phê Paris bởi
những ứng cử viên giải Nobel kinh tế không qua bất cứ một
kinh nghiệm thực tiễn nào. Kinh nghiệm lúc đó gần như bị
phủ nhận, vì một lý do rất hùng hồn là người ta coi những
gì học hỏi được trong các nước tư bản là không thể áp
dụng cho các nước chưa mở mang. Hầu hết các nước châu Phi
và châu Mỹ La Tinh đã là những nạn nhân đau đớn của những
lý thuyết thành hình trong giai đoạn này. Đặc biệt nước
Algeria đã tiêu hao hết cả tài nguyên về dầu khí cho hai lý
thuyết thời thượng của giai đoạn đó: thuyết lệ thuộc và
thuyết các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa.

Như mọi thanh niên có chút tâm huyết, tôi cũng đã tốn nhiều
thì giờ và công sức cho những lý thuyết đó, để rồi nhận
ra sự trống rỗng của chúng và sự khờ khạo của chính mình.
Than ôi, cái tuổi dại khờ! Những mô thức phát triển kinh tế
có thể rất khác nhau về góc nhìn, về lý luận, về các thông
số và phương trình, nhưng chúng đều có một đặc điểm
chung: chúng đều sai.

Lý do đầu tiên là không thể có công thức giải quyết được
sự nghèo khổ. Vấn đề chỉ giản dị như vậy thôi sao? Làm
sao có thể coi những sự kiện thực tế như là những thông
số của toán học? Mô thức toán học nào hội nhập được
những đức tính như chuyên cần hay lười biếng, thực thà hay
gian dối, trách nhiệm hay phá hoại? Và còn vấn đề tham nhũng?
Dĩ nhiên các lý thuyết gia về phát triển không giải đáp
được những câu hỏi đó và tác phẩm của họ nói chung, thay
vì là những lý thuyết về phát triển phần lớn chỉ là
những phân tích hiện tượng không phát triển, kèm theo những
cáo trạng gay gắt đối với các nước tư bản phát triển và
các công ty đa quốc gia bị coi như là nguyên nhân của sự
nghèo khổ tại các nước chưa phát triển. Lý thuyết "thực
dân mới" rất thời thượng trong giai đoạn này. Nó có thể
tóm tắt như sau: các nước tư bản sau khi đã thấy chính sách
chiếm đóng và thống trị không áp dụng được nữa bèn
chuyển qua ý đồ thống trị kinh tế, dùng viện trợ và các
công ty đa quốc gia làm vũ khí. Tinh thần chủ đạo của nó là
các nước tư bản và phát triển có dụng ý ác độc muốn
giữ các nước chưa mở mang trong tình trạng lạc hậu để có
thể tiếp tục thống trị. Các lý thuyết gia cố quên đi là
sự nghèo khó đã có từ muôn kiếp trước và chính nhờ tiếp
xúc với các nước phát triển mà các nước lạc hậu đã bớt
lạc hậu.

Lý do thứ hai, trầm trọng hơn nhiều, là họ đã nhầm đối
tượng nghiên cứu. Điều cần phân tích và nhận định là
hiện tượng phát triển chứ không phải là hiện tượng không
phát triển, bởi vì không phát triển là tình trạng chung của
cả thế giới từ hồi khai thiên lập địa đến giờ, có gì
là lạ đâu. Phát triển trên qui mô quốc gia là một hiện
tượng rất mới và cũng chỉ giới hạn ở một số rất ít
quốc gia mà thôi. Nó xuất hiện tại nước Hòa Lan nhỏ xíu
khoảng hơn 400 năm về trước, rồi non một thế kỷ sau đó
tại Anh và Hoa Kỳ, các nước Tây Âu khác đã chỉ biết đến
hiện tượng phát triển sau đó. Nhiều cụ già người Pháp
vẫn còn nhớ rất rõ những ngày đói lạnh. Các thống kê cho
thấy cho đến cuối thế kỷ 19, quá phân nửa trẻ em các
nước Tây Âu chết trước tuổi dậy thì. Các nước tiến bộ
nhất cũng chỉ mới thực sự khắc phục được sự đói khổ
khoảng chừng một thế kỷ nay thôi, trong khi đối với ba phần
tư của nhân loại đói khổ vẫn còn là người đồng hành cố
hữu. Điều lạ chính là hiện tượng phát triển. Tại sao một
số quốc gia bỗng dưng trở thành giàu có và phồn vinh, vượt
hẳn phần còn lại của thế giới ? Đó mới là câu hỏi đáng
đặt ra và cần phải trả lời. Các lý thuyết gia về phát
triển khi tập trung phân tích hiện tượng không phát triển
không những chỉ lầm đối tượng mà còn sai về phương pháp :
có rất nhiều lý do để không phát triển, nhưng chỉ có rất
ít lý do để có phát triển, cũng như có muôn vàn cách để
giải sai một bài toán nhưng thường thì chỉ có một cách để
giải đúng, và chính cách đó mới cần khám phá. Điều rất
đáng ngạc nhiên, và phải được coi là một may mắn lớn, là
ở tất cả mọi nơi hiện tượng phát triển luôn luôn có cùng
một giải thích.

Cuộc phiêu du trí tuệ của thập niên 1960 đã sản xuất ra vô
số lý thuyết về phát triển mà tôi xin tóm lược sau đây
một vài "mẫu hàng" chính và đã có hậu quả đáng kể còn
sót lại trong trí nhớ để độc giả tiêu khiển.

Lý thuyết lệ thuộc [théorie de la dépendance], theo đó các
nước tư bản tiên tiến chỉ chuyển giao cho các nước chưa
mở mang những kỹ thuật sơ đẳng, thuộc "khâu dưới". Các
trung tâm nghiên cứu vẫn nằm tại "mẫu quốc", các kỹ thuật
hiện đại nhất cũng chỉ được áp dụng tại mẫu quốc, các
chi nhánh tại các nước lạc hậu chỉ làm công việc ít giá
trị thặng dư như chùi bóng, lắp rắp, đóng thùng, v.v... Hậu
quả là họ bị kềm giữ trong thế lệ thuộc thường trực.
Đây là cả một phương thức phân công lao động quốc tế
trong đó các quốc gia chưa mở mang hy sinh thị trường tiêu
thụ của chính mình để chỉ được trao những công tác thấp
kém. Lý thuyết này quên hẳn rằng các công ty đa quốc gia
không có tổ quốc mà chỉ có lợi nhuận. Một công ty Mỹ sẽ
quyết định đầu tư tại Bombay thay vì Detroit nếu đầu tư
tại Bombay đem lại một lợi nhuận 1% cao hơn mà cũng không
rủi ro hơn. Họ thiết lập những nhà máy tân tiến ở một
nước không phải vì đó là nước họ hay nước có cùng chủng
tộc và văn hóa với họ mà chỉ vì ở đó có nhân công giỏi
và giá rẻ, thuế nhẹ và xã hội ổn vững, nói chung là có
lợi nhuận cao và rủi ro thấp. Các lý thuyết gia cũng quên
rằng điều mà các nước thiếu mở mang cần học nhất không
phải là kỹ thuật mà là tâm lý, tổ chức và phương pháp làm
việc, những điều mà chính sự tiếp xúc với các công ty lớn
có thể đem lại. Lý thuyết ngây ngô này sở dĩ rất thời
thượng trong thập niên 1960 vì nó chống tư bản, đặc biệt
là chống Mỹ, và do đó phù hợp với tâm lý khuynh tả của đa
số trí thức lúc đó.

Lý thuyết các kỹ nghệ kỹ nghệ hóa [théorie des industries
industrialisantes], theo đó các đầu tư không có tác dụng kích
thích phát triển như nhau. Cùng một khoản tiền đầu tư vào
hai ngành khác nhau sẽ có hậu quả khác nhau trên sinh hoạt kinh
tế. Có những ngành trong khi phát triển cũng kích thích sự
phát triển của nhiều ngành khác, nói khác đi chúng có tác
dụng "kỹ nghệ hóa". Ngược lại, cũng có những đầu tư
không có, hoặc chỉ có rất ít, tác dụng thúc đẩy đối với
các hoạt động kinh tế khác. Do đó, theo lý thuyết này, các
nước thiếu mở mang nên tập trung cố gắng vào những kỹ
nghệ có tác dụng kỹ nghệ hóa mạnh. Đây là một thí dụ
điển hình của một quan sát đúng dẫn tới một kết luận
sai, tương tự như thấy người đeo kính đọc sách rồi kết
luận đeo kính có lợi cho sự đọc sách. Lý thuyết này cùó
ít nhất hai sai lầm. Sai lầm thứ nhất là nó quên rằng
người đầu tư, dù là người bản xứ hay người ngoại quốc,
phải đầu tư để có lợi nhuận chứ không đầu tư vì nhà
máy lập ra có tác dụng kỹ nghệ hóa. Đó là công việc của
nhà nước. Nhưng nhà nước cũng phải đầu tư làm sao cho có
lợi nhuận, nếu không sẽ phải tài trợ bằng ngân sách và
như thế vừa phải đánh thuế nặng hơn đối với các hoạt
động khác vừa phải giảm bớt những chi tiêu tối cần thiết
như giáo dục và sức khỏe. Sai lầm thứ hai, ngớ ngẩn hơn
nhiều và rất tai hại, là cho rằng kỹ nghệ nặng mới là kỹ
nghệ kỹ nghệ hóa, trong khi thực tế trái ngược hẳn, kỹ
nghệ tiêu dùng thúc đẩy kỹ nghệ nặng chứ không phải kỹ
nghệ nặng thúc đẩy kỹ nghệ nhẹ. Nhu cầu sản xuất vật
dụng bằng sắt thép đẻ ra nhu cầu có nhà máy luyện kim, chứ
không phải kỹ nghệ luyện kim đẻ ra nhu cầu sản xuất vật
dụng bằng sắt thép. Lý thuyết này là một phó sản của lý
thuyết lệ thuộc.

Lý thuyết về sự trật khớp [théorie de la désarticulation], theo
đó các công ty nước ngoài gây xáo trộn trong các xã hội
truyền thống vì nó tạo ra một lớp người mới, làm việc cho
các công ty nước ngoài, hưởng mức lương cao hơn, có nếp
sống khác, văn hóa cao và cách suy nghĩ khác, hậu quả là làm
mất đi sự đồng bộ trong xã hội, mặt khác chúng cũng làm
gia tăng hố phân cách giàu nghèo và gây căng thẳng trong xã
hội. Đây cũng là một lý thuyết cực kỳ ngớ ngẩn bởi vì
phúc lợi lớn nhất của sự tiếp xúc với các nước tân
tiến chính là bẻ gãy cái sự "đồng bộ" đã là nguyên nhân
của sự lạc hậu và đem lại một văn hóa mới, một cách suy
nghĩ mới, một cách làm việc mới. Chắc chắn là có sự xáo
trộn, nhưng đây là một xáo trộn phải có và có ích. Vấn
đề là phải quản lý sự xáo trộn đó, làm sao cho cách suy
nghĩ và làm việc mới được phổ biến nhanh chóng để xã
hội thay da đổi thịt, chứ không phải là để ngăn chặn.

Lý thuyết về các mô hình hướng nội và hướng ngoại
[modèles endogènes et modèles exogènes], theo đó có hai công thức
chính để phát triển, một là cố gắng sản xuất ra những
hàng hóa để thay thế hàng nhập cảng [substitutions des
importations] theo mô hình hướng nội, hai là dồn hết sức để
xuất cảng thật nhiều theo mô hình hướng ngoại. Rất ít nhà
lý thuyết nào đặt vấn đề lợi nhuận (sản xuất hàng thay
thế hàng nhập cảng có tốn kém hơn nhập cảng hay không ?
xuất cảng lời hay lỗ ? v.v...). Khi có đặt ra vấn đề lợi
nhuận thì các lý thuyết gia lại hoàn toàn đồng ý là phải
chịu lỗ trong giai đoạn đầu, nhưng không nói giai đoạn đầu
có thể kéo dài bao lâu và một nước nghèo khổ có thể tiếp
tục chịu đựng mãi sự thua lỗ này mà không sụp đổ hay
không. Lý thuyết này quả là sản phẩm của các lý thuyết gia
cố tìm khoái lạc trong việc xây dựng ra những lý thuyết phù
phiếm rồi cố gượng ép chúng vào thực tại. Cứ như là một
nhà nước không mất trí có thể nhân danh chủ trương hướng
nội để cấm cản một hoạt động xuất nhập cảng đang
phồn thịnh, hay ngược lại nhân danh mô hình hướng ngoại
để trù dập một sinh hoạt nội địa cần thiết.

Điều lạ lùng nhưng có thật là lý thuyết này đã được đem
thử nghiệm. Lý do là chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản
và cộng sản đã đưa rất nhiều phần tử vô học lên cầm
quyền.

Nói chung tất cả những lý thuyết này đều có cùng ba đặc
tính: hoàn toàn không kể đến vai trò của thị trường, coi
phát triển kinh tế chủ yếu là một vấn đề kỹ thuật có
thể giải quyết được bằng một kế hoạch, và đề cao vai
trò quyết định gần như duy nhất của chính quyền. Các trở
ngại về tâm lý và văn hóa chỉ được đề cập đến một
cách qua loa, có lệ. Những lý thuyết này đã cổ võ cho các
chế độ độc tài duy ý chí và đưa tới sự phá sản của
đại đa số các nước cộng sản, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.

Điều đáng ngạc nhiên của giai đoạn này là các nước châu
Á không cộng sản đã không bị ảnh hưởng của những lý
luận này, nhất là đã không bị ảnh hưởng tai hại của lý
thuyết lệ thuộc. Họ đã nồng nhiệt tranh thủ đầu tư quốc
tế và đã bắt chước một cách giản dị cách làm việc của
các nước đã phát triển. Họ cũng cố gắng xuất cảng thật
nhiều nhưng không phải là vì họ chọn mô hình phát triển
hướng ngoại mà chỉ vì xuất cảng có lời và họ cũng cần
ngoại tệ để nhập cảng nguyên liệu và trang thiết bị. Họ
sản xuất tất cả những gì có lợi dù là để xuất cảng hay
để tiêu thụ trong thị trường nội địa. Nhờ thế họ đã
không bị phá sản trong thập niên 1970 như các nước chậm
tiến khác, không những thế họ còn tiến lên cho đến mùa hè
1997, khi lâm vào khủng hoảng vì tham nhũng chồng chất, vay nợ
bừa bãi và đầu cơ điên dại vào nhà đất.

Ngày nay trường IEDES không còn nữa, môn phát triển kinh tế
cũng không còn được giảng dạy như một bộ môn riêng nữa.
Người ta trở lại với những nhận định mà các nhà nghiên
cứu đứng đắn đã nói từ rất lâu: phát triển không phải
là một vấn đề kinh tế mà là một vấn đề văn hóa xã
hội.

<h2>Vì đâu đã có phát triển?</h2>

Rất may là sự quan sát các nước đã cất cánh bay bổng từ
lạc hậu tới phồn vinh cho phép chúng ta rút ra những kết
luận rất rõ rệt, rõ rệt đến nỗi phải ngạc nhiên là tại
sao người ta đã không nhận ra ngay lập tức. Tôi sẽ mời
độc giả cùng quan sát những kinh nghiệm phát triển đầu tiên
và những nước mới phát triển gần đây. Ở đây xin hãy tạm
nói một cách cô đọng, các độc giả còn phân vân sẽ nhìn
rõ hơn khi đọc tiếp những trang sau.

Phát triển đã nảy sinh tại một số quốc gia khi, do một sự
tình cờ của hoàn cảnh lịch sử, bộ máy chính quyền trở
thành vắng mặt hay gần như vắng mặt, quần chúng được một
không gian tự do hơn hẳn và vì thế đã tổ chức cuộc sống
cộng đồng trên căn bản đồng thuận và tương kính. Hoặc vì
không muốn hoặc vì không được phép, họ đã không tìm kiếm
uy quyền để khống chế lẫn nhau mà chỉ thi đua nhau làm giàu
trong một luật chơi công bình.

Nhận xét này đúng với Hòa Lan, cái nôi phát triển của nhân
loại, đúng với nước Anh, càng đúng với nước Mỹ và cũng
đúng cả với nước Nhật, nếu ta nhìn lịch sử nước Nhật
một cách đúng đắn. Phát triển đã đến sau khi xã hội trở
thành tự do và dân chủ. Ngày nay chúng ta có thể liệt kê
những yếu tố cần thiết cho phát triển:

- một chế độ tự do, dân chủ và đa nguyên;
- một nhà nước nhẹ nhường không gian tối đa cho xã hội
dân sự, cho ý kiến và sáng kiến cá nhân;
- một sinh hoạt kinh tế thị trường bảo đảm cạnh tranh
công bằng;
- một xã hội linh động và bình đẳng, không bị trói
buộc bởi những thành kiến, không bị ngăn cách bởi những
giai cấp hay những đại gia đình ;
- một tâm lý tôn vinh kinh doanh và buôn bán;
- một tinh thần quốc gia (hay cộng đồng) mạnh;
- một xã hội trong đó thông tin được tự do, các kinh
nghiệm và kiến thức được truyền bá nhanh chóng và dễ dàng.

Tất cả đều là những yếu tố vô hình. Tư bản và nguyên
liệu chỉ là những yếu tố phụ.

Nói chung, phát triển là một vấn đề tâm lý và văn hóa. Có
những tâm lý kích thích phát triển và cũng có những tâm lý
ngăn cản phát triển. Có những nền văn hóa có lợi cho phát
triển và cũng có những nền văn hóa cấm cản sự phát triển.
Chính vì thế mà một nước không phát triển không giống như
một nước giàu mạnh trước khi phát triển. Có những quốc gia
phát triển nhanh, có những quốc gia phát triển chậm và cũng
có những quốc gia không thể phát triển nếu không tháo gỡ
được một số tắc nghẽn tâm lý. Chính vì thế mà phát
triển đã chỉ xuất hiện tại một số ít quốc gia mà thôi.
Phát triển rất dễ mà lại rất khó. Rất dễ vì không đòi
hỏi một lý thuyết phức tạp hay một kế hoạch cao siêu nào
cả. Rất khó vì đòi hỏi một tâm lý và một văn hóa mới.
Mà thay đổi tâm lý và văn hóa là điều khó nhất. Có ai nhận
là tâm lý của mình tồi đâu ? Và có dân tộc nào nhận văn
hóa của mình là kém đâu, trừ ra là một dân tộc đã rất
tiến hóa?

Chính vì khó thay đổi tâm lý và văn hóa mà có những dân tộc
rất phồn vinh và những dân tộc vô cùng cơ cực, mặc dù mọi
nhà bác học đều đồng ý rằng mọi con người thuộc mọi
chủng tộc đều có những khả năng ngang nhau vì đều có một
khối óc nặng trung bình 1.600 gam.

Chúng ta khó có thể từ bỏ một văn hóa bởi vì nó là một
phần của chính chúng ta. Vậy thì cái gì có thể giúp chúng ta
thay đổi văn hóa? Chúng ta cần một hiến pháp qui định rõ là
trên đất nước Việt Nam không có ý kiến nào cấm nêu ra và
cũng không có đề tài nào cấm bàn đến, nhờ thế chúng ta
mở tung cửa cho những phê phán các giá trị truyền thống và
làm cho chúng mất đi tính thiêng liêng không thể bàn cãi. Chúng
ta cũng cần một chính sách cổ võ cho tự do dưới mọi hình
thức: tự do suy nghĩ và phát biểu, tự do chọn lựa lối
sống, kể cả tự do cơ thể, bởi vì chính nhờ thay đổi cách
sống mà ta có thể thay đổi cách cách suy nghĩ.

Nhờ thay đổi cách sống và cách suy nghĩ mà ta có thể làm quen
với những giá trị mới và dần dần thấy chúng chấp nhận
được.

Tôi thường được nghe hai quan điểm, mỗi lần nghe là mỗi
lần đau nhói.

Một lập luận cho rằng văn hóa của chúng ta rất cao siêu.
Nếu quả thật văn hóa của ta cao siêu như thế thì tại sao
chúng ta lại thua kém thê thảm như ngày nay và tại sao ngay cả
những công trình nghiên cứu văn hóa phương Đông có giá trị
nhất cũng là do người phương Tây? Và nếu quả thật văn hóa
của chúng ta cao siêu như thế thì tại sao nó lại không có
một sức thu hút nào đối với tuổi trẻ, tại sao thanh thiếu
niên Việt Nam hải ngoại lớn lên lại thành Mỹ con, Pháp con,
Đức con trong một thời gian kỷ lục? Càng khư khư ôm lấy
một văn hóa độc hại, chúng ta càng ngụp lặn trong sự thấp
kém.

Lập luận thứ hai, mà tôi thường được nghe từ miệng những
người có học vị cao về kinh tế (và vì thế khiến tôi vững
tin rằng phát triển kinh tế không thể phó thác cho các kinh tế
gia, cũng như chiến tranh không thể phó thác cho các tướng
lãnh), là chúng ta cần phát triển trước đã rồi hãy nói
đến dân chủ và tự do. Vấn đề là chúng ta không thể có
phát triển nếu không có dân chủ và tự do. Nhưng đây lại là
một điều không nằm trong chương trình huấn luyện của các
nhà kinh tế thuần túy. Nếu trong cuộc thảo luận về phát
triển các nhà kinh tế khiêm tốn hơn một chút và các nhà tư
tưởng tích cực hơn một chút nữa thì may mắn biết bao!

(Còn tiếp)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6100), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét