Nadegda Kuznetsova - Nhà nước toàn trị

<h2>Khái niệm chung về chế độ toàn trị</h2>

Chế độ toàn trị không ngừng thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu.

Đây là một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu của
khoa chính trị học hiện đại. Đối với nước ta thì vấn
đề này không chỉ mang ý nghĩa hàn lâm.

Nghiên cứu chủ nghĩa toàn trị có ý nghĩa to lớn trong giai
đoạn chuyển tiếp của nước Nga từ chế độ toàn trị sang
chế độ dân chủ.

Hệ thống chính trị được hiểu là toàn bộ các thể chế
chính trị, các chủ thể quyền lực và quan hệ gữa các chủ
thể đó, các quá trình diễn ra trong các chủ thể đó khi thực
thi quyền lực. Tổ chức chính trị bao gồm tổ chức bộ máy
quyền lực, quan hệ giữ nhà nước và xã hội.

Các thể chế và tổ chức chính trị (chính phủ, đảng
phái…) là những thành phần của hệ thống chính trị.

Chính phủ, cơ quan thực thi quyền lực là thể chế quan trọng
nhất, các thể chế khác phải quần tụ xung quanh nó.

Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu thì quan hệ chính trị,
chế độ chính trị, tính chất chính thống của chính quyền
và các hoạt động chính trị cũng phải được coi là thành
phần của hệ thống chính trị.

Dưới đây hệ thống chính trị của chế độ toàn trị sẽ
luôn luôn đặt trong tương quan với chế độ dân chủ-tự do,
một đối cực của chủ nghĩa toàn trị. Theo Friedrich von Hayek
thì "<em><strong>bất cứ cái gì ngược với chủ nghĩa tự do
thì đều là toàn trị cả</strong></em>".

Phân tích so sánh hai hệ thống trái ngược nhau - toàn trị và
dân chủ tự do (hay dân chủ lập hiến) - sẽ cho ta thấy rõ
những đặc trưng cơ bản của chế độ toàn trị.

Các chế độ toàn trị được đem ra so sánh là nước Đức
phát xít và Liên Xô.

Xin được nói thêm rằng Liên Xô dưới thời Stalin (1929-1953)
gần với mô hình toàn trị "lí tưởng" hơn là giai đoạn
trước và sau đó. Nền chuyên chính Bolsevich dưới thời Lenin
và những năm ngay sau khi ông qua đời cũng như chế độ hậu
Stalin không phải là chế độ toàn trị "lí tưởng" như dưới
thời Stalin.

Trong trường hợp lí tưởng nhất chức năng của hệ thống
chính trị trong các nước dân chủ là phát hiện ra các quyền
lợi khác nhau của xã hội, tạo ra sự đồng thuận, "đưa về
mẫu số chung", tìm cách giải quyết một cách dân chủ, một
cách văn minh các mâu thuẫn xã hội.

Chỉ trong mối liên hệ với "môi trường bên ngoài", với các
lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội và tinh thần hệ thống
chính trị mới có thể thực hiện được chức năng nêu trên.

Bản thân hệ thống chính trị trong các nước dân chủ chỉ là
một phần (tiểu hệ thống) của cả hệ thống xã hội.

Nói chung toàn bộ xã hội có thể được coi là tập hợp của
các hệ thống: kinh tế, xã hội, tinh thần và chính trị (các
lĩnh vực xã hội và tinh thần đến lượt mình lại tạo thành
hệ thống xã hội dân sự).

Trong đó hệ thống chính trị liên hệ với các hệ thống khác
nhưng không được đàn áp chúng để không dẫn tới sự thoái
hoá toàn bộ xã hội cũng như thoái hoá chính hệ thống chính
trị.

Chúng ta phải ghi nhận ngay rằng trong chế độ toàn trị chỉ
tồn tại có một hệ thống, đấy là chính trị, ngoài ra không
còn một tiểu hệ thống nào khác.

Hệ thống chính trị đã nuốt chửng hệ thống xã hội, tinh
thần và cả kinh tế. Trong chế độ toàn trị không có xã hội
dân sự, toàn bộ xã hội đã bị khuất phục và hoàn toàn
tuân phục nhà nước toàn trị (Đúng hơn phải nói rằng toàn
bộ xã hội và nhà nước đã bị độc đảng cầm quyền nuốt
chửng).

Tất cả các mặt của đời sống xã hội bị trộn lộn làm
một. Đặc điểm quan trọng nhất của chế độ toàn trị là
sự hợp nhất một cách tuyệt đối tất cả các lĩnh vực
của đời sống. Chế độ toàn trị cố gắng xoá nhoà gianh
giới giữa cá nhân, gia đình, xã hội, nhà nước, lãnh tụ,
đảng, quần chúng.

Cả nhà nước và xã hội đều bị đảng cầm quyền nuốt
chửng, còn văn hoá tinh thần, bao gồm văn học nghệ thuật,
triết học, đạo đức thậm chí cả khoa học đều bị hệ tư
tưởng toàn trị nuốt chửng.

Công cụ quan trọng nhất để biến xã hội thành đám đông vô
tổ chức, thành các cá nhân "hạt nhân" chính là khủng bố.

Sau khi mất hết các mối liên hệ theo chiều ngang giữa người
với người, các cá nhân trở thành đơn độc, trở thành một
mình đối diện với đảng-nhà nước.

Tất cả tổ chức đều phải bị giải tán bởi vì chúng có
thể cản trở sự thống trị của đảng cầm quyền, ngăn
chặn quyền lực của nó đối với xã hội. "<em>Chế độ toàn
trị luôn luôn biến các giai cấp thành đám đông</em>", Hannah
Arendt đã viết như thế.

Không gian chính trị (lĩnh vực hoạt động của chính trị,
chính quyền và tư tưởng) đã bao trùm lên toàn bộ xã hội,
mọi biểu hiện của đời sống con người đều bị đặt
dưới sự giám sát của chính trị.

Trong chế độ toàn trị hoạt động chính trị là vô giới
hạn cho nên không gian chính trị cũng là vô cùng tận, không có
biên giới.

Như vậy nghĩa là trong chế độ toàn trị khái niệm "phi chính
trị" là không tồn tại. Chỉ thị của chính quyền và tư
tưởng của đảng cầm quyền ngấm vào tất cả các tế bào
của cơ thể xã hội, ngấm vào kinh tế, văn hoá, và đời
sống, kể cả riêng tư cũng như đời sống xã hội của cá
nhân. Ngay các giá trị đạo đức cũng được nhà nước toàn
trị ấn định.

Tất cả các quyết định của chính quyền đều mang tính chất
chính trị và đều được biện giải về mặt tư tưởng
(nhưng thực ra sự biện giải chỉ là để che đậy lí do thực
sự của những quyết định đó). Ngay Lenin, người tạo lập
cơ sở của nhà nước toàn trị đầu tiên trong lịch sử loài
người đã đòi hỏi sự kiểm soát toàn diện của đảng đối
với đời sống xã hội:

"<em>Hiến pháp Liên Xô cả về mặt luật pháp lẫn thực tiễn
được xây dựng trên cơ sở là đảng uốn nắn, ấn định và
xây dựng theo một nguyên tắc duy nhất</em>", ông đã tuyên bố
như vậy vào năm 1920.

Cũng trong năm đó ông còn viết: "<em>Không một vần đề chính
trị hay tổ chức nào do bất kì cấp chính quyền nào giải
quyết mà không có chỉ đạo của Ban chấp hành trung
ương</em>".

Nhưng Lenin đã không đưa được sự kiểm soát toàn diện của
đảng đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội tới thắng lợi cuối cùng.

Từ đặc điểm của chế độ toàn trị là ngoài hệ thống
chính trị ra, tất cả các hệ thống khác của đời sống xã
hội đều không tồn tại, chúng đã bị trộn lộn vào làm
một, được một hệ tư tưởng duy nhất thấm đẫm và cố
kết, tất cả đều được chỉ huy và kiểm soát từ một trung
tâm, có thể rút ra đặc điểm thứ hai của chế độ toàn
trị: đấy là về nguyên tắc, chế độ này không thể "học
hỏi" được vì nó không có mối liên hệ ngược giữa quyết
định của chính quyền và phản ứng của xã hội.

Chính quyền chỉ tác động lên xã hội khi đưa ra một quyết
định hay thực hiện một bước đi nào đó; không có một tín
hiệu nào theo hướng ngược lại, những người ra quyết định
không hề biết hay không cần biết phản ứng của xã hội
đối với quyết định của mình.

Một đặc điểm nữa của chế độ toàn trị là mặc dù xã
hội bị chính trị hoá từ trên xuống dưới, hoạt động
chính trị thực sự chỉ xảy ra trên đỉnh cao nhất của kim
tự tháp quyền lực.

<h2>I. Cơ cấu và nguyên tắc hoạt động của chế độ toàn
trị</h2>

Sau khi đã xem xét các đặc trưng cơ bản của chế độ toàn
trị chúng ta sẽ tiến hành khảo sát cơ cấu và các nguyên lí
hoạt động chủ yếu của nó.

Trước hết ta xét nhiệm vụ chủ yếu của hệ thống chính
trị trong chế độ toàn trị. Nếu trong chế độ dân chủ lập
hiến nhiệm vụ của hệ thống chính trị là điều hoà và
kết hợp các quyền lợi của các nhóm xã hội khác nhau, là
giải quyết các xung đột quyền lợi của các nhóm đó bằng
con đường dân chủ và văn minh thì trong chế độ toàn trị
hệ thống chính trị có nhiệm vụ tái tạo, củng cố và mở
rộng quyền lực của nhóm quan liêu đương quyền. Nếu trong
chế độ dân chủ tự do, hệ thống chính trị phục vụ xã
hội thì trong chế độ toàn trị toàn bộ xã hội phải phục
vụ hệ thống chính trị.

Hệ thống chính trị của chế độ toàn trị bao gồm bộ máy
chính trị quan liêu và một loạt phương tiện (bộ máy tuyên
truyền, cảnh sát mật, v.v.) để đảm bảo cho nó tiếp tục
nắm giữ quyền lực.

Phương tiện quan trọng nhất là đảng toàn trị, còn đặc
điểm nổi bật nhất của hệ thống chính trị toàn trị là
độc đảng và phù hợp với nó là tư tưởng nhất nguyên.

Sau khi đã tiêu diệt các đảng phái khác, sau khi đã hợp nhất
bộ máy đảng với bộ máy nhà nước và đàn áp sinh hoạt có
tính chất tự trị trong nội bộ đảng, chính đảng toàn trị
này trở thành trụ cột của bộ máy nhà nước và bộ máy
quản lí nằm trong tay những nhân vật chóp bu của đảng.

Trong hệ thống toàn trị, đảng chính là kênh cho người ta
thăng tiến vì nó nắm toàn quyền trong việc chỉ định các
chức vụ từ lớn đến bé. Chỉ có đảng viên mới được
giữ các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy nhà nước, trong các
đơn vị sản xuất, trong quân đội, trong lĩnh vực ngoại giao
và tất cả các lĩnh vực khác.

Vì vậy vào đảng là con đường duy nhất để có thể leo lên.

Như vậy đảng toàn trị ("Đảng ngoại vi", theo cách gọi của
George Orwell) là đội hậu bị cho bộ máy đảng trị thành lập
ra những bộ máy quan liêu dưới quyền khác như hành chính, kinh
tế, công đoàn, tư tưởng-văn hoá, quân sự, v.v.

Ngoài ra "Đảng ngoại vi" còn là chỗ để lôi kéo những thành
phần tích cực, có chí tiến thủ của xã hội; nếu đảng
không kết nạp họ thì những cá nhân tích cực này sẽ là
mối đe doạ tiềm ẩn đối với chế độ toàn trị.

"<em>Không thể quản lí được khối quần chúng đã biến thành
một lũ tiểu nhân… nếu không phân tách chúng thành giai cấp.
Chế độ đảm bảo cho mình một cơ sở tự nguyện vững chắc
bằng cách liên tục lôi kéo những thành phần tích cực và tài
năng từ nhân dân để lập nên tầng lớp thượng lưu
mới.</em>"

Một điểm quan trọng cần phải nhấn mạnh là sau khi thiết
lập được nền chuyên chế độc đảng thì chính đảng lại
phân thành "đảng nội bộ" (bộ máy có đặc quyền đặc lợi)
và "Đảng ngoại vi" (các đảng viên thường) theo thuật ngữ
của G. Orwell.

Như vậy nghĩa là nhóm cầm quyền đầu sỏ của đảng phát
triển ngay từ trong nội bộ đảng mà cơ sở của nó, đối
với đảng Bolsevich thì là "những người cách mạng chuyên
nghiệp" của Lenin; còn đối với đảng phát xít thì là bộ
máy của Đảng Quốc Xã. Đặc quyền đặc lợi của những
người cầm quyền phụ thuộc trực tiếp vào vị trí của họ
trên nấc thang quyền lực của bộ máy.

Giai cấp cầm quyền đảng trị này (ở nước Đức phát xít
họ được gọi là "tập đoàn các nhà lãnh đạo chính trị",
còn ở Liên Xô thì gọi là "nomenklatura") tồn tại không phải
trên cơ sở sở hữu tài sản mà là trên cơ sở nắm giữ
quyền lực.

Nếu trong các xã hội có giai cấp, được Karl Marx phân tích,
thu nhập của một người trong giai cấp bóc lột phụ thuộc
trực tiếp vào số tài sản mà hắn sở hữu thì trong chế
độ toàn trị thu nhập phụ thuộc vào mức độ tham gia của
hắn vào bộ máy quyền lực, vào quyền lực mà hắn nắm giữ.

Chính sự tồn tại của giai cấp quan liêu nắm quyền lực
chính trị này là nguyên nhân sinh ra hiện tượng sùng bái lãnh
tụ.

Lãnh tụ toàn trị được gán cho những tính chất siêu phàm:
không bao giờ sai, biết tuốt, sức mạnh vô địch, có thể suy
nghĩ cho tất cả mọi người…

Nguyên nhân chính của hiện tượng này là bộ máy quan liêu
đảng trị cần có ở trên đầu mình một siêu trọng tài,
bất khả xâm phạm, một người có thể giải quyết mọi mâu
thuẫn trong nội bộ nhóm chóp bu đương quyền và đảm bảo cho
nó quyền lực và đặc quyền đặc lợi.

"<em>Thần thánh hoá Stalin là một thành tố tất yếu của chế
độ</em>", Lev Trotski đã viết như thế năm 1936. "<em>Bộ máy
quan liêu cần một trọng tài bất khả xâm phạm, một cố vấn
tối cao, nếu ta không muốn gọi đấy là một vị hoàng đế,
nó sẽ đặt ngay lên vai mình kẻ đáp ứng được tham vọng bá
chủ của nó</em>".

Milovan Djilas cũng có quan điểm tương tự: "<em>Hôm nay tôi có
thể nói rằng việc thần thánh hoá Stalin, hay như người ta nói
"tệ sùng bái cá nhân" Stalin không phải chỉ do ông ta tạo ra
mà chủ yếu là do những người xung quanh ông ta, do bộ máy quan
liêu cố tình tạo ra, bộ máy này cần một lãnh tụ như
vậy</em>".

Hitler đã nói thẳng như vậy với những đồng đảng của
mình: "<em>Tất cả những gì các anh đạt được là nhờ có
tôi. Tất cả những gì tôi đạt được là nhờ có các
anh</em>".

<h2>II. Lãnh tụ toàn trị - điều kiện cần của hệ thống
toàn trị</h2>

Lãnh tụ toàn trị là trung tâm châu tuần những mục đích ích
kỉ của những người cầm quyền quan liêu và chính những
người này tạo ra tệ sùng bái lãnh tụ đối với cá nhân ông
ta.

Max Weber là người đã nghiên cứu một cách kĩ lưỡng vấn
đề lãnh tụ siêu nhân và chỉ rõ rằng nếu lãnh tụ không
còn đảm bảo quyền lợi cho các đệ tử thì tiền đề cho
việc mất uy tín đã hiện hữu.

Lí do thứ hai là đảng toàn trị có tham vọng trở thành
người nắm được chân lí tuyệt đối, không bao giờ sai.

Sự tự thần thánh hoá này của đảng được thể hiện trong
sự sùng bái lãnh tụ và gán những tham vọng nói trên của
đảng cho lãnh tụ của mình.

Lí do thứ ba của việc thần thánh hoá lãnh tụ là ước muốn
thần phục chúa tể của đám đông hạt nhân hoá, đám đông
muốn khuất phục ngay một người có uy tín và nó lập tức
biến người này thành một vị thánh sống (Cơ chế tâm lí
của hiện tượng này đã đuợc S. Freud phân tích trong tác
phẩm: "Tâm lí đám đông và phân tích cái Tôi"
("Massenpsychologie und Ich-Analyse")

Cần phải nhấn mạnh rằng sau khi lãnh tụ siêu nhân chết thì
việc sùng bái lập tức chuyển ngay sang người kế vị dù
đấy chỉ là một kẻ rất tầm thường.

Ở đây xảy ra hiện tượng mà M. Weber gọi là "chính thức hoá
và phi cá nhân hoá" tính chất thần thánh của lãnh tụ, nghĩa
là tự động chuyển những tính chất siêu phàm và uy tín đặc
biệt của lãnh tụ sang cho người kế nhiệm. Theo Weber tính
chất thần thánh của lãnh tụ đã được "chính thức hoá",
nghĩa là gắn kết với một chức vụ nhất định và lập tức
chuyển sang cho người nắm vị trí đó không phụ thuộc vào
phẩm chất cá nhân của hắn.

Hiện tượng này chỉ có thể quan sát được trong các chế
độ cộng sản vì chúng tồn tại trong một thời gian dài (so
với chế độ phát xít).

Việc sùng bái người lãnh đạo mới của đảng xảy ra là vì
sau khi lãnh tụ thần thánh chết thì những nhân tố tạo nên
việc thần thánh hoá đó lại tự động được kích hoạt. Vì
vậy đúng ra không nên nói đến tệ sùng bái cá nhân lãnh tụ
toàn trị vì cá nhân không có vai trò quan trọng mà phải nói
đấy là tệ sùng bái cái ghế, nghĩa là sùng bái chức vụ,
sùng bái địa vị của người lãnh đạo đảng.

"<em>Tại sao lại gọi việc thần thánh hoá đó bằng một từ
rất tù mù là sùng bái cá nhân?</em>", V.A. Antonov-Ovseenko viết.
"<em>Sùng bái quyền lực, sùng bái cái ghế của bí thư thứ
nhất - gần với sự thật hơn</em>".

<h2>III. Cơ cấu của đảng toàn trị – cơ cấu của nhà nước
toàn</h2>

Các nguyên tắc lãnh đạo đảng được Lenin chuyển thành
nguyên tắc quản lí nhà nước. "<em>Mục đích được Lenin theo
đuổi một cách nhất quán</em>", N. A. Berdiaev đã viết, "<em>là
tạo ra một đảng mạnh, một thiểu số có tổ chức và kỉ
luật sắt, dựa trên thế giới quan mác-xít cách mạng hoàn
chỉnh. Đảng phải có một chủ thuyết trong đó mọi điều
đều đã hoàn thiện và đảng phải chuẩn bị để quản lí
toàn diện xã hội. Bản thân đảng là một tổ chức cực kì
tập trung nghĩa là một nền chuyên chế trong một không gian
hẹp. Mỗi đảng viên phải khuất phục chế độ chuyên chế
của trung ương. Đảng Bolsevich do Lenin thành lập trong nhiều
năm trời phải đóng vai trò mô hình tổ chức cho cả nước Nga
trong tương lai. Nước Nga quả thật đã được tổ chức theo
mô hình tổ chức của đảng Bolsevich. Tất cả nước Nga, toàn
thể dân tộc Nga phải chịu khuất phục không chỉ chế độ
chuyên chế của đảng cộng sản, ban chấp hành trung ương của
nó mà còn phải khuất phục, cả trong tư tưởng, cả trong tâm
hồn, học thuyết của nền độc tài cộng sản. Lenin phủ
nhận tự do trong nội bộ đảng và sự phủ nhận này được
chuyển sang cho toàn thể nước Nga</em>".

Đấy chính là nền chuyên chế của một thế giới quan mà Lenin
đã chuẩn bị.

Như vậy nghĩa là đảng toàn trị ngay từ trước khi chiếm
được chính quyền đã thai nghén trong lòng nó hệ thống chính
trị của chế độ toàn trị, chế độ sinh hoạt đảng báo
trước chế độ chính trị mà nó thiết lập, đảng toàn trị
là phôi thai, là "hạt mầm" nảy nở ra nhà nước toàn trị.

Tất cả các tổ chức còn lại trong chế độ toàn trị (thanh
niên, công đoàn, thể thao…) trên thực tế chỉ còn là những
chi nhánh của đảng độc quyền, đảng dùng những tổ chức
này để kiểm soát tư tưởng và hành vi của những người
không phải là đảng viên.

Xã hội toàn trị được T. Riga gọi một cách chính xác là xã
hội của chỉ một tổ chức. Đó là một xã hội không có
những tổ chức tồn tại một cách độc lập.

Những tổ chức tồn tại trong xã hội chỉ là các công cụ
của bộ máy quan liêu của đảng, là những mắt xích trung gian
giữa đảng và quần chúng.

Tất cả các tổ chức đó (trong chế độ toàn trị "toàn hảo"
mọi người dân đều phải tham gia vào một hoặc nhiều tổ
chức nào đó) thực ra chỉ là những bộ phận của một tổ
chức to lớn duy nhất do bộ máy của đảng quản lí.

Như vậy nghĩa là trong xã hội toàn trị, một mặt là một
đám đông vô tổ chức vì mọi liên kết theo chiều ngang giữa
các cá nhân bị phá vỡ, nhân dân bị biến thành đám đông ô
hợp của những cá nhân hạt nhân hoá; mặt khác lại được
tổ chức theo chiều dọc vì tất cả mọi cá nhân đều phải
tham gia vào một tổ chức xã hội có tính chính thức nào đó.
Xuất hiện một tổ chức kết cấu vững chắc theo chiều dọc,
nhưng các thành phần cấu tạo nên tổ chức đó chỉ làm
nhiệm vụ kiểm soát dân chúng chứ không thể hiện quyền lợi
và cũng không bảo vệ các thành viên của mình.

Độc đảng (chuyên chính của một đảng) nhất định sẽ dẫn
tới độc quyền tư tưởng (một hệ tưởng chính thức buộc
mọi người phải công nhận và xâm nhập vào mọi lĩnh vực
của đời sống con người). Hệ tư tưởng toàn trị trước
hết là phương tiện loè bịp quần chúng và củng cố quyền
lực của bộ máy đảng. Hệ tư tưởng toàn trị có thể
được định nghĩa như là "nhận thức sai lạc", phản ánh chủ
yếu quyền lợi vật chất của tầng lớp nắm quyền lực
chính trị và xuyên tạc các mối quan hệ xã hội, che dấu bản
chất thật sự của chính xã hội đó.

Chính tầng lớp chóp bu nắm quyền đứng trên học thuyết của
mình và chẳng có mối quan hệ gì với nó cả. Như H. Rauschning,
một chiến hữu của Hitler, sau này chạy sang Mĩ vì thất vọng
với chủ nghĩa phát xít đã nói: "<em>Học thuyết là để dành
cho quần chúng… Nó là phương tiện nô dịch quần chúng. Giới
tinh hoa đứng trên học thuyết. Giới tinh hoa sử dụng nó để
thực hiện tham vọng của mình</em>". Tất cả các lãnh tụ toàn
trị đều biết (hay chí ít cũng đoán được) rằng tất cả
các phong trào quần chúng đều cần huyền thoại, huyền thoại
là để nô dịch quần chúng. Trong một bài nói chuyện, Mussolini
đã phát biểu về quan hệ của lãnh tụ toàn trị và tầng
lớp ưu tú đối với hệ tư tưởng (huyền thoại) mà nó tuyên
truyền như sau: "<em>Chúng tôi tạo ra huyền thoại; huyền thoại
là niềm tin, là lòng nhiệt tình; nó không phải là hiện thực,
nó là động lực và hi vọng, là niềm tin và lòng dũng
cảm</em>".

"<em>Lãnh tụ đứng đầu phong trào biết rõ</em>", Karl Mannheim
đã viết, "<em>rằng tất cả các tư tưởng chính trị và
lịch sử chỉ là huyền thoại. Ông ta tránh được tác động
của những tư tưởng đó, nhưng ông ta đánh giá cao chúng... vì
chúng... kích động lòng nhiệt tình, khởi động những tình
cảm... những tầng tâm thức phi lí trong con người và chính
những tầng này đưa người ta đến những hành động chính
trị</em>".

Hành động của các viên chức quan liêu của đảng thường
thường không được quyết định bởi hệ tư tưởng chính
thức mà được quyết định bởi ước muốn củng cố và mở
rộng quyền hành của mình.

Như vậy nghĩa là trong chế độ toàn trị dường như cùng một
lúc tồn tại hai hệ tư tưởng. Một là hệ thống giá trị
dành cho bộ máy lãnh đạo chính trị và thứ hai là để dành
cho toàn bộ quần chúng còn lại.

<h2>IV. Công tác tư tưởng trong nhà nước toàn trị</h2>

Trong chế độ toàn trị công tác tư tưởng thực hiện một
số chức năng sau:

1. Chức năng chính, chức năng chủ yếu là hợp thức hoá chế
độ hiện thời. Công tác tư tưởng phải thường xuyên biện
giải cho việc nắm quyền của đảng và lãnh tụ. Tán dương
quá khứ, vẽ ra tương lai tươi sáng mà đảng và lãnh tụ đang
toàn tâm toàn ý xây dựng.

Tuyên truyền cả những qui luật (lịch sử và sinh học) nhờ
đó mà dường như chế độ hiện hành nhất định sẽ chiến
thắng.

Hòn đá tảng trong hệ tư tưởng toàn trị là lời khẳng
định rằng chế độ xã hội hiện thời được thiết lập là
do nhu cầu tất yếu của lịch sử và tự nhiên. Trong trường
hợp chủ nghĩa cộng sản thì đấy là chiến thắng tất yếu
của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản và chế độ
xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ thành công.

Trong trường hợp chủ nghĩa phát xít thì đấy là khẳng định
rằng động lực của lịch sử là cuộc đấu tranh giữa các
dân tộc và các giống người, trong cuộc đấu tranh đó sẽ
diễn ra quá trình chọn lọc tự nhiên, mạnh được yếu thua.

Theo đó chủ nghĩa toàn trị xuất hiện là do nhu cầu của
lịch sử (chủ nghĩa cộng sản) hay nhu cầu sinh học (chủ
nghĩa phát xít). Nó chỉ thực hiện ý chí của lịch sử hay
tự nhiên khi tiến hành tiêu diệt "các giai cấp bóc lột" hay
các "chủng tộc hạ đẳng" vì một chế độ hoàn thiện hơn
mà thôi.

2. Chức năng thứ hai là động viên quần chúng thực hiện các
nhiệm cụ do chế độ đặt ra. Chế độ toàn trị cố gắng
giữ cho quần chúng luôn ở trong tình trạng khích động vì khi
tình trạng căng thẳng xã hội giảm thì sẽ xuất hiện vấn
đề tự do chính trị. Vì vậy chế độ toàn trị luôn luôn
giữ vững và hướng dẫn tính tích cực của quần chúng, bằng
cách tìm ra những kẻ thù mới, chuẩn bị chiến tranh hay các
phong trào, có khi là phong trào thực hiện những kế hoạch kinh
tế vĩ đại. Việc động viên quần chúng dĩ nhiên là được
thực hiện từ trên xuống bằng biện pháp cưỡng ép hoặc
lừa mị về tư tưởng.

3. Chức năng thứ ba, có thể gọi theo Aleksandr L'vovich Shapiro,
là "làm tê liệt về đạo đức". Để có thể biến một
người được giáo dục theo tinh thần Cơ đốc giáo thành công
cụ trong tay chế độ toàn trị nhằm buộc anh ta thực hiện
các kế hoạch tội lỗi của chế độ thì cần phải cung cấp
cho anh ta một tập hợp các tiêu chuẩn đạo đức, hay các
điều răn mới (theo Hannah Arendt thì điều răn đầu tiên là:
"Ngươi phải giết").

Hệ tư tưởng toàn trị gần giống với tôn giáo, nó có xu
hướng không chỉ cải biến hiện thực khách quan mà cải biến
cả bản chất con người, nó cung cấp cho người ta những
nguyên tắc đạo đức và giá trị mới, sau khi đã tiếp thu
những giá trị này thì công dân của nhà nước toàn trị không
hề cảm thấy lương tâm dằn vặt khi thực hiện những tội
ác mà nhà nước toàn trị giao cho nữa.

Từ đó có thể thấy rằng hệ tư tưởng toàn trị làm cho
người ta không còn cảm thấy kinh tởm những hành động tội
ác của chính quyền hay của chính mình thực hiện nữa. Tư
tưởng này biện hộ cho mọi hành động dã man được thi hành
nhằm chống lại kẻ thù.

Như vậy nghĩa là việc tách nhà thờ khỏi nhà nước chỉ để
che đậy việc hợp nhất nhà nước với nhà thờ kiểu khác,
đấy chính là đảng toàn trị giả tôn giáo. Đảng này trang
bị cho mình hệ tư tưởng, giống như một giáo lí trên cơ sở
những quan niệm về trạng thái toàn thiện toàn mĩ cuối cùng
của xã hội mà loài người sẽ đạt đến bằng cách cải
tạo triệt để xã hội hiện tại.

Stalin từng tuyên bố: "<em>Chủ nghĩa Marx là tôn giáo của giai
cấp, là biểu tượng của đức tin</em>". Hitler cũng cho rằng
"<em>giáo lí của nhà thờ đóng vai trò thế nào đối với
đức tin thì nguyên tắc đảng cũng có vai trò như thế đối
với một đảng chính trị kiểu mới</em>". Còn cương lĩnh của
đảng là: "<em>biểu tượng chính trị của niềm tin</em>". Hệ
tư tưởng toàn trị đã "<em>trở thành một cái gì đó giống
như tôn giáo của nhà nước với những giáo lí đặc biệt,
những cuốn kinh, những vị thánh, những tông đồ, những vị
thánh sống (lãnh tụ, Führer, v.v.) và các buổi lễ
trọng…</em>"

Hệ tư tưởng toàn trị biện hộ cho tham vọng giải quyết
được mọi vấn đề vì nó chính là chân lí cuối cùng. Nhưng
rõ ràng rằng khi tuyên bố là chân lí tuyệt đối trong chính
trị, nó đã tiêu diệt tính đa nguyên của các quan điểm, tiêu
diệt tự do lựa chọn. Tuyên bố chân lí tuyệt đối trong
chính trị nhất định sẽ dẫn đến phủ nhận tự do, phủ
nhận dân chủ. Louis de Saint-Just, một lãnh tụ phái tiền-toàn
trị Jacobin, từng tuyên bố rằng: "<em>Dưới chế độ… dựa
trên chân lí tuyệt đối… mọi đảng phái và mọi phe phái
đều là những hiện tượng lỗi thời đáng chê trách</em>".
Chính vì vậy mà hệ tư tưởng toàn trị có thái độ hoàn
toàn bất dung đối với mọi trào lưu tư tưởng, mọi quan
điểm khác với nó và thái độ bất dung này ngấm vào toàn
bộ hệ thống chính trị. "<em>Thế giới quan chân chính</em>",
Hitler viết trong cuốn Cuộc đấu tranh của tôi (Mein Kampf),
"<em>bất dung và không chấp nhận vai trò "đảng giữa các
đảng"; nó đòi một sự sự công nhận vô điều kiện và
tuyệt đối và đòi hỏi rằng toàn bộ đời sống xã hội
phải được xây dựng trên cơ sở những chỉ dẫn của nó.
Một thế giới quan nhất quán vì vậy không thể dung hoà với
những người tiếp tục bảo vệ trật tự cũ</em>".

Mọi phương tiện thông tin: báo chí, đài phát thanh, phim ảnh
đều được sử dụng cho mục đích tuyên truyền; văn học
nghệ thuật cũng không thoát. Viêc nhồi sọ được thực hiện
trong hệ thống giáo dục (có thể nói rằng chế độ toàn trị
xoá dần ranh giới giữa giáo dục và tuyên truyền), trong các
tổ chức chính thức mà trước hết là tổ chức của thanh
thiếu niên. Vì bộ máy đảng-nhà nước kiểm soát toàn bộ
các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã hội và
hệ thống giáo dục nên có thể nói hoạt động tuyên truyền
thấm sâu và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hoạt động tuyên truyền được lãnh đạo và phối hợp từ
một trung tâm duy nhất, ở Liên Xô thì đấy là một Ban trực
thuộc Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Liên Xô, ở
Đức thì đấy là Bộ giáo dục và tuyên truyền.

<h2>V. Đàn áp – một công cụ của chế độ toàn trị</h2>

Chế độ dựa trên sự độc quyền, độc đảng, độc tôn tư
tưởng còn cần cả hệ thống đàn áp để loại bỏ các đối
thủ chính trị.

Cảnh sát mật do đảng thành lập có thể tiến hành thủ tiêu
từng đối thủ riêng lẻ cũng như từng nhóm xã hội, thậm
chí cả các dân tộc mà chế độ toàn trị muốn thủ tiêu.

Sau đó, như chủ nghĩa Stalin đã cho thấy, cảnh sát mật có
thể được lãnh tụ đảng sử dụng để tiêu diệt tận gốc
các nhóm đối lập trong nội bộ đảng cũng mọi đối thủ
của đảng cầm quyền. Việc đàn áp kẻ thù của chế độ có
thể được thực hiện bên ngoài cũng như bên trong các cơ quan
tư pháp, mà chính các cơ quan này lại nằm dưới quyền kiểm
soát toàn diện của đảng và cảnh sát mật. Người ta đã
lập ra cả một hệ thống các trại tập trung để cách li các
đối thủ chính trị. Việc đàn áp về mặt thể xác là đặc
trưng của thời kì đầu của các chế độ toàn trị. Khi các
nhóm đối lập trong xã hội cũng như trong đảng đã bị dẹp
tan thì việc đàn áp dã man về thể xác, như trong trường hợp
Liên Xô đã cho thấy, có thể giảm đi và lùi lại phía sau,
nhường chỗ cho đàn áp về mặt tinh thần.

Đặc điểm của chế độ toàn trị cũng như việc đàn áp
của nó là trong chế độ toàn trị đàn áp về thể xác và
tinh thần trở thành công cụ quản lí cũng như các công cụ
quản lí khác đều nằm trong tay bộ máy quan liêu của đảng.

<h2>VI. Bầu cử trong chế độ toàn trị</h2>

Hệ thống chính trị của chế độ toàn trị còn có một số
đặc trưng nữa. Trước hết đấy là việc hợp thức hoá chế
độ.

Chế độ toàn trị luôn luôn dựa vào sự công nhận của quần
chúng đối với tính chất hợp pháp của mình (bầu cử toàn
dân). Về mặt hình thức, trong chế độ toàn trị vẫn có
quốc hội và các cuộc bầu cử, nhưng các cuộc "bầu bán" này
đã được ấn định sẵn, chỉ là một trò hề không hơn
không kém.

Các ứng viên đã được bộ máy của đảng toàn trị cầm
quyền chọn sẵn và chỉ những người được bộ máy ấy
thông qua mới được đưa vào danh sách. Kết quả các cuộc
"bầu bán" ấy đã được định đoạt từ trước và không
thể có tí bất ngờ nào. Luôn luôn có 99% cử tri tham gia và
đảng cầm quyền bao giờ cũng thu được trên 99% số phiếu
bầu.

Kết quả các cuộc bầu cử phải luôn luôn chứng tỏ "sự
thống nhất không gì lay chuyển nổi" giữa đảng và nhân dân.
Việc không tham gia bầu cử có thể bị coi là hành động
chống đối chế độ.

Nhà cầm quyền cần những cuộc bầu cử chỉ mang tính hình
thức này là để chứng tỏ rằng trong chế độ toàn trị,
cũng như trong các chế độ dân chủ thực sự, chính quyền là
do dân, quần chúng ủng hộ đảng đương quyền, không có đối
lập chính trị, nghĩa là không có nhu cầu phải có đảng đối
lập. Điều này không chỉ để tác động đến dư luận xã
hội trong các nước dân chủ mà còn có tác dụng tuyên truyền
trong nước nữa.

Ngoài ra, việc quần chúng tham gia vào các cuộc bầu cử, việc
ủng hộ chế độ và các tội ác do nó tiến hành ở một khía
cạnh nào đó đã biến tất cả mọi người đều là đồng
phạm của các tội ác do chế độ thực hiện, tội lỗi
được chia đều cho tất cả mọi người.

Chế độ toàn trị dĩ nhiên rất quan tâm đến việc trút trách
nhiệm về đường lối chính trị mà nhóm chóp bu của đảng
thực hiện sang cho tất cả các công dân, việc gán ghép tội
lỗi cho tất cả mọi người, làm cho mọi người đều là
đồng phạm chính là cơ sở tâm lí của lòng trung thành đối
với chế độ toàn trị.

Ngoài việc tham gia "bầu cử" việc hợp thức hoá còn được
thực hiện dưới những hình thức khác như: tham gia vào các
cuộc mít tinh, biểu tình, các cuộc "thảo luận toàn dân"
(dưới sự kiểm soát của đảng) các tài liệu từ bên trên
đưa xuống, v.v.

<h2>VII. Nhóm đầu sỏ trong đảng</h2>

Một đặc điểm nữa của hệ thống chính trị trong chế độ
toàn trị là việc hợp nhất cả ba nhánh chính quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp vào tay nhà độc tài và nhóm ưu tú
của đảng.

Nhóm đầu sỏ đương quyền của đảng tự chọn ra thành phần
của quốc hội giả hiệu (lập pháp) ủng hộ mọi việc làm
và thông qua mọi điều luật mà bộ máy quan liêu của đảng
cần.

Bộ máy lãnh đạo chính trị quan liêu của đảng chuyển các ý
nguyện của mình thành các nghị quyết, nghị định của chính
phủ, một chính phủ cũng gồm toàn các quan chức ao cấp của
đảng. Đảng cũng kiểm soát công tác của toà án, nhiều khi
đảng viết sẵn cho các quan toà các bản án, đấy là nói khi
đảng cảm thấy cần có toà án.

"<em>Như vậy nghĩa là ba nhánh quyền lực chỉ là những mắt
xích… của đảng, giống như các tổ chức của đảng.</em>"

Một đặc điểm nữa của chế độ toàn trị là việc bất
bình đẳng giữa các công dân trước pháp luật và toà án, các
công dân bị kì thị vì quan điểm chính trị, vì thành phần
và dân tộc xuất thân của người đó nữa.

Việc kì thị trong chế độ toàn trị - theo cách nói rất chính
xác của ông S. Milhaun-Delsol, một nhà nghiên cứu chính trị
học người Pháp - là do người ta "viện cớ rằng một số
người xứng đáng với giống người hơn là một số khác".
Nếu các cuộc cách mạng giải phóng (cách mạng của các xã
hội dân sự) tuyên cáo quyền bình đẳng giữa các công dân
trước pháp luật thì cách mạng Bolsevich tuyên cáo sự bất
bình đẳng và tước quyền công dân của "những kẻ bóc lột".
Ngay trong Hiến pháp đầu tiên được ban bố năm 1918 đã nói
rằng những người sống "không phải bằng lao động", những
người buôn bán, các doanh nhân, giới tăng lữ bị tước tất
cả các quyền công dân.

Không chỉ người chủ mà tất cả các thành của gia đình
tước hết quyền y như thế. Cho đến giữa những năm 30 của
thế kỉ trước những người có nguồn gốc "tư sản" vẫn
không được vào đại học, không được tham gia công đoàn,
"gốc gác tư sản" còn bị hạn chế trong việc lựa chọn nghề
nghiệp nữa.

Tương tự như vậy, luật pháp của nước Đức phát xít
được thông qua ở Nürnberg năm 1935 cũng tước quyền công dân
của người Do Thái. Trong những năm sau đó nhà nước Đức đã
thông qua 13 nghị định, thực chất là đặt người Do Thái ra
ngoài vòng pháp luật. Người Do Thái bị cấm làm nhiều nghề,
cấm kết hôn người Đức, v.v.

Như vậy là chế độ toàn trị giết chết sự năng động của
những người có nguồn gốc giai cấp (chế độ cộng sản) hay
chủng tộc (chế độ phát xít) "không thích hợp".

Trong các chế độ có ý định tiêu diệt "những giai cấp phản
động" hay "các chủng tộc" hạ đẳng thì nói đến vấn đề
bình đẳng trước pháp luật là thừa. Toà án bị bộ máy
đảng và bộ máy đàn áp kiểm soát một cách toàn diện và
triệt để, toà án chỉ có mỗi một việc là thi hành chỉ
thị của đảng mà thôi, năm 1921 Lenin đã từng tuyên bố: "toà
án của chúng ta mang tính giai cấp, chống lại bọn tư bản".

Như vậy là trong chế độ toàn trị không có chuyện bình
đẳng của tất cả các công dân trước pháp luật và toà án,
không có chuyện nhà nước đối xử một cách bình đẳng với
các công dân (không phụ thuộc vào nguồn gốc xã hội, tôn
giáo, chủng tộc, quan điểm chính trị…), mà đây là một
trong những nguyên tắc quan trọng nhất của nhà nước pháp
quyền. Ngược lại, có thể nói đã có sự kì thị, thậm chí
giết hại những người thuộc thành phần "tư sản" (chế độ
cộng sản) hay chủng tộc "hạ đẳng" (chế độ phát xít).

Trong khi đó thành phần lãnh đạo và lãnh tụ của các chế
độ toàn trị lại đứng trên và đứng ngoài pháp luật. Pháp
luật nhà nước không có hiệu lực đối với đảng và các
đảng viên. Điều đó có nghĩa là nhà nước đảng trị hành
động một cách phi pháp (vì không có một khung pháp lí tối
thượng áp dụng cho cả người cai trị và kẻ bị trị). Nếu
chưa bị khai trừ thì đảng viên đảng toàn trị không thể
bị đưa ra toà, không thể bị kết án. Quyền lực của lãnh
tụ và nhóm đầu sỏ cầm quyền là vô giới hạn vì không có
lực lượng nào có thể ngăn cản, có thể buộc họ phải tuân
thủ pháp luật cả.

<strong>Nguồn:</strong> http://www.zhurnal.lib.ru/k/kuznecova_n/polis.shtml

<em>Đã đăng trên Talawas</em>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7513), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét