Nguyễn Gia Kiểng - Người trong một nước?

Ông Hồ Chí Minh để lại một câu nói nổi tiếng, đã rất
nhiều lần được nhắc lại và phá vài kỷ lục về in ấn:
<em>Nước Việt nam là một, dân tộc Việt nam là một, sông có
thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không thể nào
thay đổi</em>, ông ấy không nói thêm nhưng mọi người đều
hiểu: nước Việt nam phải thống nhất dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng Sản Việt nam. Đó là một câu nói bày tỏ
quyết tâm sắt đá áp đặt bằng mọi giá chế độ cộng sản
trên toàn cõi Việt nam. ở vào thời điểm 1969, khi cuộc chiến
Nam Bắc đang diễn ra khốc liệt, đó là một khẩu hiệu chiến
tranh. Mọi người đều đã hiểu như vậy và đúng là phải
hiểu như vậy.

Ngoài ra, câu nói Nước Việt nam là một chỉ có
thể là một quyết tâm chứ không phải là một sự thực nếu
nhìn vào lịch sử nước Miền Nam Việt nam được mở ra cùng
với thế kỷ 17, khi Nguyễn Hoàng, còn gọi là chúa Tiên, bắt
đầu khai phá, một thời gian sau khi đem dân vào Nam tránh họa
Trịnh Kiểm. Con cháu Nguyễn Hoàng thiết lập ra một đất
nước riêng biệt, đánh nhau với họ Trịnh để giữ bờ cõi
trong gần một thế kỷ, sau đó Đàng Trong (tức miền Nam) và
Đàng Ngoài (tức miền Bắc) sống như hai quốc gia riêng biệt
và thù địch cho tới khi nhà Nguyễn bị Tây Sơn tiêu diệt vào
năm 1778. Kế đó anh em Tây Sơn chia rẽ nhau và đất miền Nam
của chúa Nguyễn bị chia làm hai, phía Bắc thuộc Nguyễn Huệ,
phía Nam thuộc Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Ngay khi nhà Tây Sơn
dựng lên, Nguyễn ánh khởi binh khôi phục nhà Nguyễn, mấy
lần chiếm lại Gia Định rồi lại bị đánh bại. Nhưng khi anh
em Tây Sơn chia rẽ nhau, Nguyễn ánh đã làm chủ được vùng
đất từ Biên Hòa trở vào cho tới mũi Cà Mau. Cho tới trận
Đống Đa, năm 1789, nước ta thực sự bị chia làm bốn nước.
Miền Bắc của vua Lê, từ Nghệ An cho tới Quang Nam của Nguyễn
Huệ, miền Nam Trung Phần của Nguyễn Nhạc, và Nam Phần thuộc
về Nguyễn ánh. Có lúc chúng ta có tới ba hoàng đế: Chiêu
Thống tức Lê Duy Kỳ, Quang Trung tức Nguyễn Huệ và Thái Đức
Hoàng Đế tức Nguyễn Nhạc, và một vương: Nguyễn ánh. Sau
trận Đống Đa, Nguyễn Huệ diệt nhà Lê, ta còn lại hai hoàng
đế và một vương. Đến năm 1802, Gia Long mới thống nhất
được sơn hà. Như thế có nghĩa là một nửa của đất nước
mới bắt đầu được hội nhập dần dần theo một tiến trình
bắt đầu từ cách đây hơn bốn trăm năm và mới kết thúc
cách đây hai trăm năm. Trong khoảng thời gian bốn thế kỷ qua,
cùng với sự mở rộng đất nước, chúng ta chia đôi trong hơn
hai thế kỷ, có lúc chia ba, có lúc chia bốn. Gia Long thống
nhất đất nước được sáu mươi hai năm thì Nam Phần bị
Pháp chiếm làm thuộc địa, rồi hai mươi năm sau đó cả
nước bị Pháp đô hộ và chia ra làm ba Kỳ: miền Bắc, miền
Trung và miền Nam với ba chế độ chính trị khác nhau. Sau thế
chiến hai, nước Việt nam bị chia làm hai vùng quốc gia và
cộng sản, dưới hai chế độ khác nhau. Từ năm 1954 đến năm
1975, hai vùng quốc gia và cộng sản tập trung lại thành hai
miền Nam Bắc tiếp giáp nhau ở sông Bến Hải, vĩ tuyến 17.
Đất nước lại thống nhất trở lại từ năm 1975.

Nói chung là từ ngày bắt đầu mở ra miền Nam, cách đây trên
bổn trăm năm, chúng ta có được tám mươi năm thống nhất.
Tám mươi năm trong thời gian hơn bốn trăm năm kể ra là quá
ít, nhưng con số rất khiêm nhường đó cũng đã bỏ qua đi
những chuyện các sứ quân nói lên hùng cứ một phương như
vẫn xảy ra thường xuyên dưới triều Nguyễn. Nó cũng không
kể tới sự kiện là ngay cả khi có thống nhất về mặt hành
chánh chúng ta cũng không có thống nhất trong dân tộc. Dưới
thời nhà Nguyễn, nhân dân bị chia làm hai loại, giữa những
người không có hay có đạo Công giáo. Khoảng một trăm ngàn
người Công giáo đã bị sát hại chì vì tín ngưỡng của họ.
Từ sau 1975, dân tộc cũng bị chia làm hai loại người, những
người cộng sản rất thiểu số nhưng lại chiếm tất cả
mọi quyền hành và những người không cộng sản chiếm đại
đa số nhưng lại chỉ có quyền phục tùng.

Tóm lại, từ bốn thế kỷ qua, đất nước Việt nam ít khi là
một, còn dân tộc Việt nam thì chưa bao giờ là một cả. Không
những có chia cắt và chia rẽ, mà còn chia cắt để tàn sát
lẫn nhau, chia rẽ để chà đạp và bách hại lãn nhau. Làm sao
có thể ngạc nhiên nếu chúng ta không vươn lên được?

Cái quá trình chia cắt và chia rẽ đó khiến chúng ta nhìn nhau
không phải như người cùng một nước, mà là những người
quốc gia hay cộng sản, người Bắc hay người Nam hay người
Trung, người Công Giáo hay người Phật tử, người giàu hay
người nghèo. Không những chia rẽ nhau mà còn thù ghét nhau.

Năm 1946, khi người Pháp trở lại Nam Phần, họ lập tức tìm
được những người cộng tác để lập ra Nam Kỳ Cộng Hòa
Quốc với chủ trương tách Nam Phần thành một quốc gia riêng.
Phong trào đầu tiên mà chính quyền này phát động là bách
hại những người gốc miền Bắc không may có mặt tại Sài
gòn. Kỹ thuật rất giản dị, một người khả nghi bị chặn
lại và bị bắt phải nói ba tiếng Tân Sơn Nhất. Nếu phát âm
là Tâng Sưng Nhức thì được coi là người Nam, tức là người
tốt; còn nếu phát âm là Tân Sơn Nhất là bị nhận ra là Bắc
kỳ và bị ăn đòn. Điều đáng buồn là đây không phải chỉ
là một chủ trương tồi tệ của một thiểu số manh động,
đa số những người tham dự vào cái trò chơi đánh Bắc kỳ
này là những người rất bình thường. Tất cả những nạn
nhân đều không phải là những người giàu có và thế lực,
những người này có đầy đủ mọi quan hệ cần thiết để
che chở cho họ, họ vẫn sống yên ổn. Tất cả những nạn
nhân đều là những người cùng khổ bị đem vào làm phu ở
trong Nam. Năm 1945, sau khi tuyên bố thành lập nước Việt nam
Dân Chủ Cộng Hòa và nam được chính quyền, đảng cộng sản
đã tàn sát thẳng tay những phần tử Việt nam Quốc Dân Đảng
và Đại Việt, mà họ thừa biết là rất yêu nước, vì không
chấp nhận chủ nghĩa của họ.

Ông Hồ Chí Minh coi tất cả những người cộng sản trên thế
giới là anh em (ông từng viết: Năm châu bốn bề là nhà, bốn
phương vô sản đều là anh em), nhưng ông lại coi những đồng
bào Việt nam của ông không chia sẻ lý tưởng Mác-Lênin của
ông là thù địch và ông giết họ không gớm tay. Ngay cả
những người cộng sản Đệ Tứ, cũng tôn sùng Mác và Lênin
như ông nhưng không thuộc trường phái Stalin, ông cũng thẳng
tay tiêu diệt. Dĩ nhiên để có lý cớ tàn sát họ, ông buộc
cho họ đủ thứ tội phản động, phản quốc, Việt gian, v.v.
Yêu nước trước hết là phải yêu đồng bào. Ai muốn nói ông
Hồ Chí Minh tài giỏi, quyết tâm, can đảm là quyền của họ,
nhưng không ai có thể thuyết phục tôi rằng ông là một
người yêu nước. Phải nghĩ thế nào về cuộc cải cách
ruộng đất tại miền Bắc năm 1955? Những tài liệu và nhân
chứng khác nhau ước lượng số người bị giết từ 20.000
đến 100.000. Trong đại bộ phận họ không phải là những
người giàu - mà giàu có phải là một tội đáng chết không? -
họ chỉ là những người có năm, mười mẫu ruộng, tuy không
đến nỗi cùng khổ như những người bần cố nông khác nhưng
cũng là những người nghèo. Tôi đã gặp rất nhiều người
từng chứng kiến những vụ đấu tố hồi đó, họ cho hay
rằng có những người dân quê rất bình thường đã tham gia
một cách man rợ vào những cuộc giết người đó, không phải
vì bị ép buộc mà với những con mắt rực lửa hận thù. Nếu
cải cách điền địa chỉ là do đã tâm của đảng cộng sản
và của các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Viết
Thắng thì cũng đã là ghê gớm lắm rồi. Nhưng thực tế còn
đau lòng gấp nghìn lần. Nó chứng tỏ rằng người Việt nam
ác độc với nhau, và do đó không đáng với tên gọi là một
dân tộc.

Ngay gần đây, vào năm 1992, tại trại cấm Hồng Ông, nơi hàng
chục ngàn người Việt nam tị nạn bị nhốt vào các trại tù
để sắp sửa bị đuổi về cũng đã xảy ra một trường hợp
hổ nhục. Những con người cùng xấu số và đều khổ như nhau
đó đã không thương nhau mà còn tàn sát nhau giữa người ra đi
từ miền Bắc và người ra đi từ miền Nam.
Tôi may mắn được đi du học rồi lớn lên và làm việc tại
các nước phương Tây. Điều tôi học hỏi được không phải
ở trong những cuốn sách mà ở trong những cái nhìn. Người
Mỹ nhìn nhau là người Mỹ, rất ít khi họ để ý nhãn hiệu
dân chủ hay cộng hòa, người ở bang New York hay người ở bang
Michigan. Người Pháp nhìn nhau như những người Pháp trước khi
là người ủng hộ đảng Xã Hội hay đảng De Gaulle, người Anh
nhìn nhau như những người Anh trước khi là những người lao
động hay bảo thủ. Họ là những dân tộc. Hơn hai ngàn năm
lịch sử dựng nước của ta không đem ta lại gần nhau mà còn
khiến ta thù địch với nhau. Chúng ta phải nhìn lại mình và
nghĩ lại mình.
Dĩ nhiên chúng ta đều muốn nước Việt nam thống nhất và dân
tộc Việt nam hòa hợp. Đó là điều kiện bắt buộc. Hoặc là
thế, hoặc là chúng ta sẽ không có một tương lai nào cả.
Nhưng nước Việt nam là một, dân tộc Việt nam là một là
điều mà chúng ta phải xây dựng ra chứ chưa sẵn có. Và để
xây dựng đất nước Việt nam đó chúng ta cần một tinh thần
mới. Đó là tinh thần chấp nhận nhau, quí mến nhau, tôn trọng
những dị biệt của nhau để cùng nhau xây dựng một tương lai
chung.

Tinh thần đó là bắt buộc nhưng chưa đủ, chúng ta cần ý
thức được một cách thật sâu đậm sự phân hóa và thù hận
trầm trọng của đất nước ta. Chúng ta cần ý thức được
rằng Hòa Giải và Hòa Hợp Dàn Tộc là một vấn đề vô cùng
nặng nề và gai góc, cho nên cần được thực hiện với tất
cả quyết tâm, với tất cả tâm hồn và với tất cả kiên
nhẫn.

Khi nhóm Thông Luận để xướng ra lập trường Hòa Giải và
Hòa Hợp Dân Tộc, cái nhìn của chúng tôi không phải chỉ hạn
hẹp trong khuôn khổ cuộc tranh chấp quốc gia - cộng sản, mà
là cái nhìn bao quát cho cả một dòng lịch sử đau thương của
dân tộc này. Chúng tôi đã gặp sự tiếp nhận nào? Chúng tôi
đã gặp những đả kích gay gắt và hằn học từ đủ mọi
phía. Người ta mạt sát chúng tôi là bọn cơ hội chủ nghĩa,
bọn đón gió trở cờ, bọn phản bội. Nhưng phản bội cái
gì?

Cũng có những người phản bác rằng Dân tộc Việt nam là một
khối thống nhất, không có gì để thù hằn nhau. Cường điệu
hay vô ý thức?
Ôn hòa hơn, nhiều người đánh giá chúng tôi là ngây thơ ấu
trĩ, là thiếu căn bản dân tộc, là mất gốc, là không thuộc
lịch sử. Nhưng dân tộc nào, gốc nào và lịch sử nào? Một
số người độ lượng hơn cho chúng tôi là những người tình
cảm và không tưởng. Nhưng làm sao có thể đoạn tuyệt được
với cái quá khứ đau buồn đè nặng từ nhiều thế kỷ và
vượt lên trên được cả một khối hận thù chồng chất này
nếu không có một tấm lòng thực lớn?

Để thắng những trở ngại quá lớn lao, thái độ thực tiễn
nhất là phải ước mơ. Vấn đề thống nhất đất nước -
thống nhất không những về mặt hành chánh mà cả trong lòng
người - và hòa hợp dân tộc chắc là không thể giải quyết
xong ngay trong sinh thời của tác giả và độc giả cuốn sách
này, nhưng nếu dồn mọi cố gắng, chúng ta có thể giải
quyết một phần trong thời đại của chúng ta, và tạm xong sau
vài thế hệ kế tiếp.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7207), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét