"<em>chủ nghĩa xã hội</em>" (Socialism, socialisme), nhất là
trong giai đoạn hình thành các tổ chức chính trị đầu tiên
của giai cấp công nhân, danh xưng "<em>dân chủ - xã
hội</em>" được dùng để chỉ những người xã hội chủ
nghĩa nói chung, nhằm phân biệt họ với những người thuộc
phái vô chính phủ (anarchism, anarchisme).
Như chúng ta đã biết, Quốc tế I (First International, Première
Internationale) [1] được thành lập vào ngày 28.9.1864, và đại
hội đầu tiên diễn ra tại Geneva (Genève, Thuỵ Sĩ) vào năm
1866. Tố chức quốc tế này hoạt động cho đến năm 1872 thì
bị tê liệt và bốn năm sau (1876) phải tự tuyên bố giải tán
vì sự chia rẽ giữa hai phe: phe theo Marx và phe vô chính phủ
theo Bakunin.
Gần như đồng thời với Quốc tế I, thậm chí trước cả
Quốc tế I, một số tổ chức chính trị của công nhân cũng
lần lượt ra đời ở các nước châu Âu, nhất là tại Đức.
Năm 1863, Ferdinand Lassalle (1825-1864) - người được coi là kiến
trúc sư của phong trào công nhân Đức, đã sáng lập Tổng Hội
Công nhân Đức (Allgemeiner Deutscher Arbeiterverein, General German
Workers' Union, Association générale allemande de travailleurs; viết
tắt là ADAV). Tờ báo chính thức của ADAV lấy tên là Người
Dân chủ - Xã hội (Der Social-Demokrat, The Social Democrat), xuất
bản định kỳ ở Berlin mỗi tuần ba kỳ, kể từ cuối năm
1864 cho đến năm 1871. Trên tạp chí này có đăng một số văn
bản quan trọng của Quốc tế I như bản dịch tiếng Đức của
«Tuyên ngôn thành lập Hiệp hội Công nhân Quốc tế" - do
chính tay Marx viết (được đăng trên số 2 và số 3 - ngày 21
và 30.12.1864) hoặc lá thư của Quốc tế I gửi Abraham Lincoln
nhân dịp ông này tái đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ (đăng trên
số 3 – ngày 30.12.1864). Trong bức thư này, Karl Marx gọi Abraham
Lincoln là "người con vững như sắt thép của giai cấp công
nhân".
Song song với sự phát triển của ADAV, một số tổ chức chính
trị của công nhân cũng lần lượt hình thành ở vùng Saxony
(Saxe, Sachsen) và miền Nam nước Đức. Những nhóm này chịu
ảnh hưởng của Marx và tranh giành ảnh hưởng với phái
Lassalle. Đến năm 1869, dưới sự lãnh đạo của August Bebel và
Wilhelm Liebknecht, những nhóm này đã hợp nhất thành một đảng
chính trị lấy tên là Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội
(Sozialdemokratische Arbeiterpartei, Social Democratic Workers' Party, Parti
travailliste social-démocrate, viết tắt là SDAP) [2] . Sự chia rẽ
giữa phái mác-xít và phái Lassalle kéo dài mãi đến năm 1875,
khi hai tổ chức chính trị này hợp nhất với nhau trên cơ sở
của một cương lĩnh mang tính thoả hiệp (cương lĩnh Gotha).
Tổ chức hợp nhất này có tên gọi ban đầu là Đảng Công
nhân Xã hội Chủ nghĩa (Sozialistische Arbeiterpartei, Socialist
Workers' Party, Parti ouvrier socialiste ; viết tắt là SAP). Năm 1890,
đảng này đổi tên thành Đảng Dân chủ - Xã hội Đức
(Sozialdemokratische Partei Deutschlands, Social Democratic Party of Germany,
Parti social-démocrate d'Allemagne ; viết tắt là SPD) và giữ tên
đó đến tận ngày nay. Năm 1875, tức là thời điểm hợp nhất
giữa hai phái mác-xít và Lassalle, vẫn được coi là thời
điểm thành lập đảng.
Như vậy, danh xưng "dân chủ - xã hội" đồng nghĩa với danh
xưng "xã hội chủ nghĩa", được dùng để chỉ những
người xã hội chủ nghĩa nói chung, chưa có sự phân biệt
giữa dân chủ - xã hội và cộng sản như về sau này.
<h2>Sự chia rẽ trong lòng Quốc tế II</h2>
Karl Marx mất vào năm 1883. Sáu năm sau (1889), theo sáng kiến của
các nhà xã hội chủ nghĩa và các nhà hoạt động công đoàn
ở nhiều nước, Quốc tế II (Second International, Deuxième
Internationale) được thành lập với sự kết hợp của các
đảng xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức công đoàn trên
thế giới - chủ yếu là tại châu Âu [3] . Phái vô chính phủ
bộc lộ sự bất đồng ý kiến ngay từ đầu, nhưng sau đại
hội London (thủ đô Anh) năm 1896, bị loại bỏ hoàn toàn ra
khỏi tổ chức quốc tế này.
Về mặt tổ chức, Quốc tế II không phải là một tổ chức
mang tính tập trung cao độ như Quốc tế I mà là một liên minh
lỏng lẻo giữa các đảng chính trị và các tổ chức công
đoàn ở nhiều quốc gia. Mãi đến 11 năm sau khi thành lập,
tại Đại hội Paris (9.1900), một cơ quan chấp hành mới được
hình thành lấy tên là Văn phòng Xã hội Chủ nghĩa Quốc tế
[4] (International Socialist Bureau, Bureau Socialiste International), bao
gồm đại biểu của các đảng xã hội chủ nghĩa ở tất cả
các nước, với một bộ phận thường trực đóng tại Brussels
(Bruxelles, thủ đô Bỉ). Trong thực tế, đây là một cơ quan
liên lạc, phối hợp chứ không phải là một cơ quan chấp hành
có uy quyền như Tổng Hội đồng (General Council, Conseil
générale) của Quốc tế I.
Về mặt lý thuyết, Quốc tế II chịu sự chi phối mạnh mẽ
của chủ nghĩa Marx, mặc dù ảnh hưởng của nhiều trường
phái tư tưởng phi-mácxít (như phái Lassalle, phái Fabian…) vẫn
còn tồn tại trong lòng các đảng thành viên. Chưa đầy 10 năm
sau khi thành lập, sau khi Engels mất, một vài cuộc tranh luận
đã nổ ra trong lòng đảng SPD - chính đảng lớn nhất và quan
trọng nhất của Quốc tế II. Đặc biệt gây sôi nổi là các
luận điểm của Eduard Bernstein, một trong những lãnh tụ có uy
tín của đảng vào lúc ấy, được mệnh danh là <em>chủ nghĩa
xét lại</em> (revisionism, revisionisme).
Như trên đã nói, đảng SPD là sự kết hợp mang tính thoả
hiệp của hai phái: phái mác-xít và phái Lassalle. Sau khi thành
lập không bao lâu thì đảng bị đàn áp bởi đạo luật chống
những người xã hội chủ nghĩa do Thủ tướng Bismarck ban hành
vào năm 1878. Sau khi đạo luật này bị bãi bỏ (1890), đảng SPD
đã họp Đại hội tại Erfurt vào năm 1891 và sửa đổi lại
cương lĩnh. So sánh cương lĩnh Erfurt năm 1891 với cương lĩnh
Gotha năm 1875, chúng ta thấy rõ sự thắng thế của chủ nghĩa
Marx so với tư tưởng của Lassalle. Điều này bắt nguồn từ
sự đàn áp của chính quyền Bismarck trong hơn một thập niên
trước đó, làm củng cố xu hướng cách mạng trong đảng. Trong
hoàn cảnh đó, việc Bernstein đề xuất các luận điểm xét
lại đã vấp phải những phản ứng không thuận lợi. Tại
Đại hội Hanover (Hanovre, trong tiếng Đức là Hannover) họp vào
tháng 10 năm 1899, các đại biểu đã dành ra 3 ngày rưỡi để
thảo luận và sau cùng đi đến một nghị quyết bác bỏ các
luận điểm của Bernstein. Karl Kautsky, nhà lý luận chính thống
của đảng SPD lúc ấy, lên án Bernstein đã bỏ rơi các nguyên
tắc căn bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Rosa Luxemburg,
người tiêu biểu cho cánh tả của đảng SPD, người chủ
trương cách mạng triệt để, còn dành hẳn một cuốn sách
"Cải cách xã hội hay cách mạng?" để đấu tranh chống
lại xu hướng xét lại. Mặc dù vậy, qua thực tế hoạt
động, ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại ngày càng lớn
mạnh trong lòng đảng SPD, hình thành nên phái hữu (phái cải
cách) và đồng thời làm phát sinh phái tả (phái cách mạng)
trong lòng đảng này nói riêng và trong toàn bộ phong trào xã
hội chủ nghĩa nói chung.
Mặc dù "cải cách" hay "cách mạng" mới là mâu thuẫn
chủ yếu, sâu xa của Quốc tế II, cuộc xung đột lại bùng
nổ qua một chủ đề khác. Đó là thái độ, lập trường của
các nhà xã hội chủ nghĩa đối với chủ nghĩa quân phiệt và
chiến tranh.
Trước cuộc Chiến tranh Thế giới lần I, lập trường chung
của Quốc tế II là ngăn ngừa một cuộc chiến tranh nổ ra
trên toàn châu Âu. Tại Đại hội Stuttgart (1907), chiến tranh và
chủ nghĩa quân phiệt đã trở thành chủ đề chính. Sau nhiều
cuộc tranh cãi gay gắt, đa số đại biểu đã bác bỏ chủ
trương tiến hành tổng đình công và nổi dậy do Gustave Hervé
(đại biểu Pháp) đề xuất. Nghị quyết cuối cùng của Đại
hội có thể tóm tắt trong hai điểm chính: (1) cần thiết phải
ngăn ngừa chiến tranh bằng mọi cách và (2) trong trường hợp
chiến tranh nổ ra, lợi dụng cuộc khủng hoảng tạo ra bởi
chiến tranh để "đẩy nhanh sự sụp đổ của nền thống
trị tư bản chủ nghĩa." Điểm thứ hai chính là điều khoản
sửa đổi bổ sung do cánh tả của Quốc tế (Lenin, Rosa
Luxemburg, Clara Zetkin…) đề nghị.
Nhưng thực tế diễn ra cho thấy "chủ nghĩa quốc tế vô
sản" chỉ là sản phẩm của tư duy, không phù hợp với hiện
thực. Hiện thực của thế kỷ XX cho thấy "quốc gia-dân
tộc" chứ không phải "giai cấp" mới là nhân tố làm nền
tảng cho các thực thể chính trị - xã hội, và hoà bình chỉ
có thể thiết lập giữa các quốc gia chứ không phải giữa
giai cấp vô sản các nước.
Khi cuộc chiến tranh bắt đầu, trong hầu hết các quốc gia tham
chiến, đặc biệt là hai nước Đức và Pháp, những người xã
hội chủ nghĩa đã đứng về phía chính phủ, nghĩa là ủng
hộ chiến tranh. Ngày 3.8.1914, khi biểu quyết ngân sách chiến
tranh tại Quốc hội Đức (Reichstag), chỉ có một thiểu số
(14/78) trong đảng đoàn của SPD giữ lập trường chống chiến
tranh theo đúng nghị quyết của Quốc tế. Khi chiến tranh thật
sự nổ ra, tuyệt đại đa số đại biểu SPD ngả sang lập
trường ủng hộ chiến tranh, thậm chí đến đầu tháng 12 năm
1914, Karl Liebknecht trở thành đại biểu SPD duy nhất chống lại
ngân sách chiến tranh. Karl Kautsky, Rosa Luxemburg và Franz Mehring
phản đối chiến trạnh, nhưng lại không phải là đại biểu
Quốc hội. Ngay cả Eduard Bernstein lúc đầu cũng đứng về phía
ủng hộ chiến tranh, mãi về sau mới thay đổi ý kiến. Tại
Pháp, đảng Xã hội Pháp (SFIO) [5] lúc đầu vẫn chủ trương
hoà bình. Họ hy vọng đảng Đức sẽ tìm mọi cách ngăn ngừa
cuộc chiến và cũng tin rằng chính phủ "tư sản" Pháp sẽ
cố gắng tránh cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1914,
giữa lúc chiến tranh sắp bắt đầu, lãnh tụ Jean Jaurès của
SFIO, một người tích cực chống chiến tranh, bị một phần
tử cực hữu ám sát. Và khi chiến tranh thực sự bùng nổ, SFIO
ủng hộ ngân sách chiến tranh và đồng ý tham gia vào chính
phủ. Tình hình diễn ra tương tự tại nhiều nước khác (như
Áo, Hung, Tiệp, Bỉ, Anh…).
Tình hình đó làm cho Quốc tế bị rạn nứt, chia làm ba phái:
phái hữu giữ lập trường yêu nước, đứng về phía quốc gia
của mình để ủng hộ chiến tranh; phái trung dung bao gồm
những người chống chiến tranh, tìm kiếm hoà bình (pacifism,
pacifisme) và phái tả đứng trên lập trường quốc tế, chẳng
những chống chiến tranh mà còn muốn biến chiến tranh thành cơ
hội để tiến hành cách mạng. Trong thời kỳ đầu, phái ủng
hộ chiến tranh chiếm đa số. Ngay cả một số người thuộc
phái trung dung (như Kautsky chẳng hạn) tuy chống chiến tranh
nhưng trong thời gian đầu cũng chưa muốn tách khỏi khối đa
số. Trung thành với nghị quyết Stuttgart chỉ còn có phái tả,
trong đó đáng kể nhất là nhóm "Quốc tế" (International
Group) của Karl Liebknecht [6] và Rosa Luxemburg ở Đức và Lenin ở
Nga.
<h2>Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của trào
lưu cộng sản</h2>
Mặc dù cuộc Chiến tranh Thế giới là cơ hội làm bùng phát
mâu thuẫn giữa các phe phái trong lòng Quốc tế II, nhưng chính
mâu thuẫn giữa hai con đường cải cách và cách mạng mới
thật sự làm tan vỡ tổ chức Quốc tế này. Địa bàn làm
phát sinh mâu thuẫn lại không phải là Tây Âu, nơi Marx và
Engels trông chờ cuộc cách mạng vô sản nổ ra, mà là nước
Nga – nơi mà giai cấp vô sản yếu ớt bị chìm lỉm giữa
một môi trường nông thôn rộng lớn và lạc hậu.
Trong những năm cuối của triều đại Romanov, phần lớn các
đảng chính trị có ảnh hưởng ở Nga đều xưng danh là đảng
xã hội chủ nghĩa. Những người không chọn con đường xã
hội chủ nghĩa là những người thuộc phái tự do (liberals).
Giới tư sản và các trí thức theo chủ nghĩa tự do (liberalism,
libéralisme) lúc đầu tập hợp trong một tổ chức có tên là
Liên hiệp Giải phóng (Soyuz Osvobozhdeniya, Union of Liberation) -
được thành lập vào tháng 1 năm 1904. Về sau, tổ chức này và
một số trí thức khác có liên hệ với các hội đồng địa
phương (zemstvos) đã hợp nhất với nhau để thành lập Đảng
Dân chủ - Lập hiến (gọi tắt là K.D. hoặc Kadet) [7] vào tháng
10 năm 1905. Đây là một tổ chức chính trị chủ trương một
sự thay đổi cấp tiến ở Nga theo hướng tiến đến một chế
độ quân chủ lập hiến tương tự như nước Anh. Kadet chiếm
đa số tại Quốc hội (Duma) đầu tiên sau cuộc bầu cử năm
1906, nhưng trong những Duma tiếp theo, sức mạnh của đảng này
bị suy giảm dần. Tính chất bảo thủ, chuyên chế của chế
độ Sa hoàng, những khó khăn gây ra bởi cuộc Chiến tranh Thế
giới I, và sự gia tăng của bầu khí cách mạng trong quần
chúng cũng như tâm trạng lo âu của thời chiến đã làm cho
quần chúng ngả dần sang các đảng cách mạng. Mặc dù vậy,
sau Cách mạng Tháng hai năm 1917, Kadet vẫn là một trong những
đảng nằm trong hàng ngũ cách mạng. Bốn thành viên trong nội
các đầu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời là đảng
viên Kadet. Mãi đến khi những người Bolshevik nắm được chính
quyền, họ mới tuyên bố rằng Kadet là một tổ chức bất
hợp pháp vào cuối năm 1917, và kể từ đó các hoạt động
của đảng này chấm dứt trong nội địa nước Nga.
Trong số các đảng tự xưng danh là xã hội chủ nghĩa, đảng
có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong quần chúng là Đảng Xã
hội – Cách mạng. Điều này có nguyên nhân từ ảnh hưởng
của một trào lưu tư tưởng trong thế kỷ 19, được gọi là
chủ nghĩa dân tuý (populism, populisme). Những người dân tuý
(Narodniks, populists, populistes) cho rằng chủ nghĩa Marx không thể
áp dụng được ở nước Nga nông dân, nơi mà giai cấp vô sản
(giai cấp công nhân công nghiệp) hầu như không tồn tại.
Aleksandr Herzen (1812-1870), nhà tư tưởng tiêu biểu cho chủ nghĩa
dân tuý ở Nga, coi các công xã ở nông thôn là mầm mống của
xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai và lập luận rằng
nước Nga có thể bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để xây
dựng một cộng đồng hợp tác dựa trên truyền thống làng
xã.
Trong thập niên 1870, hoạt động của phái dân tuý rộ lên, mà
trung tâm là giới sinh viên đại học. Trong những năm 1873 và
1874, hàng trăm sinh viên - bao gồm cả nữ sinh viên, đã "đến
với nhân dân" [8] bằng cách xâm nhập vùng quê, mặc quần áo
nông dân, lao động cùng nông dân để tìm cách thức tỉnh nông
dân bằng những bài diễn thuyết. Nhưng một mặt họ gặp
phải sự thờ ơ của nông dân, mặt khác họ bị cảnh sát
đàn áp. Một số nhà cách mạng trẻ bị kết án tù, và hàng
trăm người bị đày đến những vùng đất xa xôi, thậm chí
đến tận Siberia. Năm 1876, một đảng mới được thành lập
lấy tên là Đất đai và và Tự do (Zemlia I Volia, Land and Freedom,
Terre et Liberté). Một số thành viên của đảng này chủ trương
ám sát các quan chức cao cấp để trả thù cho đồng đội bị
ngược đãi và coi khủng bố là phương pháp để gây áp lực
với chính quyền, buộc họ ban hành các quyền tự do theo kiểu
phương Tây. Kinh nghiệm cũng cho họ thấy trong khi nông dân
sống phân tán và thờ ơ với cách mạng thì công nhân ở các
đô thị công nghiệp hoá trở thành đối tượng có nhiều hứa
hẹn hơn. Một số nhóm khác không tán thành phương pháp ám
sát, và tiếp tục tin vào nông dân hơn là công nhân, đồng
thời cũng tỏ ra thờ ơ với cuộc đấu tranh để giành các
quyền tự do chính trị. Năm 1879, đảng bị chia rẽ. Cánh có xu
hướng chính trị và theo chủ nghĩa khủng bố lấy tên là Ý
chí của Nhân dân (Narodnaïa Volia, People's Will, Volonté du
Peuple). Sau một vài dự án thất bại, cuối cùng họ cũng thành
công trong việc ám sát Nga hoàng Alexander II vào ngày 1.3 năm 1881
(tức ngày 13.3 tính theo Lịch Mới). Các thủ lĩnh của nhóm bị
bắt, và có 5 người trong số đó bị treo cổ. Cánh thứ hai có
tên là Sự Tái phân phối Đen (Chorny Peredel, Black Repartition)
tiếp tục hoạt động trong nông dân cho đến khi chuyển dần
sự chú ý sang giai cấp vô sản thành thị trong thập niên 1880.
Đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa dân tuý được tái sinh qua Đảng
Xã hội - Cách mạng (Sotsialisty Revolyutsionery, Socialist
Revolutionary Party, gọi tắt là SR) - được thành lập vào năm
1901. Kế thừa chủ nghĩa dân tuý về mặt tư tưởng, đảng
này đề ra chủ trương xã hội hoá ruộng đất và thành lập
một chính quyền liên bang. Vào năm 1917, đảng này là nhóm xã
hội chủ nghĩa đông nhất và có ảnh hưởng nhất ở Nga. Một
số đảng viên SR nắm chức vụ cao trong Chính phủ Lâm thời
sau Cách mạng Tháng Hai như Aleksandr Kerensky, Viktor Chernov, và
trong cuộc bầu cử vào Quốc hội Lập hiến vào tháng 11 năm
1917, đảng này chiếm đến 410 ghế trong khi Đảng Bolshevik chỉ
chiếm có 175 ghế. Mặc dù vậy, đảng này không đề ra được
một đường lối có tính thuyết phục, lại bị chia rẽ nội
bộ, và trong đảng vẫn luôn tồn tại một xu hướng muốn áp
dụng các phương pháp khủng bố. Nhóm ly khai của đảng này,
thường được gọi là những người Xã hội – Cách mạng
cánh Tả (Left Socialist Revolutionaries) đã cộng tác với Đảng
Bolshevik trong cuộc Cách mạng Tháng Mười và sau đó tham gia
chính quyền xô-viết cho đến khi bị trục xuất bởi Đại
hội Các Xô-viết lần thứ năm (tháng 7 năm 1918). Sau khi phe
Bolshevik chiến thắng trong cuộc Nội Chiến, Đảng Bolshevik đã
xoá bỏ hoàn toàn đảng Xã hội – Cách mạng.
Đóng vai trò lịch sử quan trọng nhất ở Nga là những người
xã hội chủ nghĩa mác-xít. Những người này tin rằng giai cấp
công nhân là lực lượng chủ yếu của cách mạng. Họ thành
lập nên Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga [9].
Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga được thành lập chính
thức vào năm 1898 tại thành phố Minsk (nay là thủ đô của
Belarus [10] ) trên cơ sở hợp nhất nhiều tổ chức chính trị
mác-xít đã có trước đó. Nhưng đại hội thành lập này gần
như không có kết quả bởi vì không bao lâu sau khi thành lập,
phần lớn các nhà lãnh đạo của đảng đều bị bắt. Mặt
khác, tại đại hội thành lập, hàng loạt vấn đề (như
cương lĩnh, điều lệ…) chưa được giải quyết. Đại hội
lần thứ hai (tháng 7 – tháng 8 năm 1903) đã diễn ra tại hải
ngoại [11] . Chính tại Đại hội này, bắt đầu có sự chia
rẽ giữa hai quan điểm khác nhau. Cánh cấp tiến, đứng đầu
là Lenin, chủ trương xây dựng một đảng hành động bao gồm
những nhà cách mạng chuyên nghiệp, sử dụng mọi phương tiện
để xây dựng cho bằng được một xã hội cộng sản. Ngược
lại, những đối thủ của Lenin lại chủ trương kết nạp
tất cả những ai tuyên bố tán thành những mục tiêu của
đảng, không kể có trực tiếp tham gia hoạt động hay không.
Mặc dù đại hội tán thành phương án thứ hai (do Martov đề
xướng), nhưng khi biểu quyết một số vấn đề khác - như
bầu ban biên tập báo Tia lửa (Iskra) hay bầu ban lãnh đạo, phe
Lenin lại chiếm đa số, do phái Bund [12] bất ngờ rời bỏ
đại hội. Từ đó phái theo Lenin được gọi là Bolshevik (trong
tiếng Nga có nghĩa là "đa số") trong khi phe đối lập
được gọi là Menshevik (trong tiếng Nga có nghĩa là "thiểu
số"). Cách gọi tên được giữ mãi về sau, mặc dù trong
thực tế, không phải lúc nào phe Bolshevik cũng là phe đa số
trong phong trào cách mạng Nga.
Kể từ sau khi cuộc Cách mạng năm 1905 thất bại, sự chia rẽ
giữa hai phái càng ngày càng sâu sắc. Cả Menshevik lẫn Bolshevik
đều đồng ý về sự cần thiết của một cuộc cách mạng,
nhưng lại không đồng ý về phương pháp đấu tranh cách mạng.
Khi Quốc hội (Duma) được thành lập như một sự nhượng bộ
của Sa hoàng trước sức ép của quần chúng, những người
Bolshevik chỉ coi đây là một diễn đàn để tuyên truyền trong
khi phái Menshevik lại chủ trương cộng tác với các nhà chính
trị "tư sản" trong quốc hội để hợp pháp hoá các quyền
dân sự và sử dụng các quyền đó trong việc tổ chức công
nhân, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
kế tiếp. Cuối cùng, vào năm 1912, Lenin đã quyết định triệu
tập đại hội riêng của phái Bolshevik tại Prague (Tiệp Khắc).
Kể từ đó, hai phái trở thành gần như hai đảng riêng biệt,
có ban chấp hành và cơ quan ngôn luận riêng và tìm cách tranh
giành ảnh hưởng trong giai cấp công nhân cũng như trong chính
trường Nga nói chung. Điều đáng lưu ý là cả hai đảng đều
giành lấy danh xưng cũ (Đảng Công nhân Dân chủ - Xã hội Nga).
Đảng Bolshevik được gọi là Đảng Công nhân Dân chủ -Xã
hội Bolshevik Nga (Russian Social Democratic (b) Worker's Party) [13] .
Cuộc Cách mạng Tháng Hai [14] năm 1917 nổ ra là kết quả của
sự phối hợp giữa các lực lượng cánh tả với những phần
tử tiến bộ trong giai cấp tư sản, tức là những người
thuộc phái tự do (liberals). Khi Lenin, với sự giúp đỡ của
chính phủ Đức, bí mật trở về Nga bằng con đường Thuỵ
Điển - Phần Lan vào tháng 4 năm 1917, cả bốn đảng đều có
mặt trên chính trường: đảng Kadet, đảng Xã hội – Cách
mạng, đảng Menshevik và đảng Bolshevik. Trong khi chờ đợi bầu
cử Quốc hội Lập hiến, quyền hành tạm thời được giao cho
Chính phủ Lâm thời. Nhưng điều phức tạp là ở chỗ Chính
phủ Lâm thời không nắm được trọn vẹn quyền lực, bởi vì
trong cuộc Cách mạng Tháng Hai, ở Petrograd và một số thành
phố lớn, công nhân và binh lính đã học tập kinh nghiệm của
năm 1905 để bầu ra các xô-viết (Soviets, trong tiếng Nga có
nghĩa là "hội đồng"). Trong số các xô-viết thì Xô-viết
Petrograd có quyền lực mạnh hơn hết. Nhưng Xô-viết Petrograd
lúc đó lại chịu ảnh hưởng của đảng Xã hội – Cách
mạng và đảng Menshevik, do đó họ đã chấp thuận việc hình
thành Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Như vậy là tồn tại hai
quyền lực song song (dual power), và quyền lực thứ nhất (Chính
phủ Lâm thời) sở dĩ tồn tại được là nhờ sự ủng hộ
của quyền lực thứ hai (các xô-viết).
Sự mâu thuẫn giữa Lenin và phái Menshevik tập trung vào hai vấn
đề chính: (1) có tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
hay không? và (2) có tiếp tục chiến tranh hay không?
Về vấn đề thứ nhất, tất cả các phái dân chủ - xã hội
đều đồng ý với nhau về cuộc cách mạng hai giai đoạn
(two-stage revolution), như đã được George Plekhanov trình bày trong
tác phẩm"Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chính trị"
(Socialism and Political Struggle) xuất bản vào năm 1883 và một số
tác phẩm khác. Theo Plekhanov, nước Nga bị lôi cuốn vào một
sự phát triển tư bản chủ nghĩa; sự phát triển này làm thay
đổi toàn bộ cơ cấu xã hội cũ và tạo điều kiện cho việc
lật đổ chế độ chuyên chế của Nga hoàng và thiết lập
một chế độ dân chủ tư sản (bourgeois-democratic regime). Do
đó, những người mác-xít phải tổ chức giai cấp công nhân
công nghiệp còn non trẻ để đấu tranh chống lại chế độ
chuyên chế. Sau khi lật đổ được chế độ Sa hoàng, sự phát
triển hơn nữa của chủ nghĩa tư bản sẽ làm cho số lượng
công nhân tăng lên gấp bội và khi đó, dưới sự lãnh đạo
của một đảng dân chủ - xã hội, giai cấp công nhân sẽ tự
giải phóng mình bằng một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn phát sinh kể từ khi Lenin cho rằng ở nước Nga, nơi
mà giai cấp tư sản còn yếu đuối, cuộc cách mạng có thể
phối hợp cả hai giai đoạn "tư sản" và "vô sản" bằng
cách lôi kéo giai cấp nông dân thành đồng minh của giai cấp
công nhân. Ông còn tiến tới gần quan điểm của Leon Trotsky
về một cuộc "cách mạng không ngừng" khi cho rằng cuộc
cách mạng sắp nổ ra ở Nga, "khâu yếu nhất" của chủ
nghĩa đế quốc trên thế giới, và cách mạng Nga sẽ châm ngòi
cho một cuộc cách mạng toàn cầu.
Như vậy, lập trường của Plekhanov và của phái Menshevik là
chưa vội tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong khi Lenin
lại nôn nóng tiến hành ngay cuộc cách mạng thứ hai. Đó là
lý do Lenin đánh giá tất cả các đảng "chần chừ' không
chịu làm cách mạng xã hội chủ nghĩa là "cơ hội", là
"thoả hiệp với giai cấp tư sản", là "phản bội lợi
ích của giai cấp công nhân" và tìm cách loại bỏ họ ra
khỏi chính trường.
Vấn đề thứ hai gây mâu thuẫn là lập trường đối với
cuộc chiến tranh. Vào lúc nổ ra cuộc chiến tranh, tất cả các
đại biểu dân chủ -xã hội tại Duma - kể cả Bolshevik và
Menshevik, đều phản đối chiến tranh bằng cách bỏ phòng họp
đi ra, không tham gia biểu quyết. Riêng Plekhanov, lúc đó sang
sống lưu vong, lại ủng hộ chiến tranh, vì ông cho rằng chiến
thắng của phe Đức sẽ là một thảm hoạ đối với nước
Nga. Trong quá trình chiến tranh tiếp diễn, phái Menshevik chuyển
sang lập trường ủng hộ chiến tranh như phái đa số trong
Quốc tế II. Chỉ có Lenin là trước sau như một trung thành
với lập trường chống chiến tranh vì ông cho đây là cuộc
chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, không đáng được ủng hộ.
Tình hình càng trở nên phức tạp sau cuộc Cách mạng Tháng Hai
năm 1917, vì lúc này chế độ Sa hoàng sụp đổ, chính quyền
mới là chính quyền "cách mạng". Phần lớn các đảng cách
mạng – kể cả những người Bolshevik đang hoạt động trong
nước, đều ủng hộ Chính phủ Lâm thời tiếp tục cuộc
chiến tranh. Chỉ riêng có Lenin là kiên trì lập trường của
mình, vì ông muốn lợi dụng chiêu bài "hoà bình" để lật
đổ Chính phủ Lâm thời, đồng thời qua chiêu bài "hoà
bình" kêu gọi phe xã hội chủ nghĩa trên thế giới - nhất
là ở Đức, lật đổ các chính quyền "tư sản" để làm
cách mạng thế giới.
Diễn biến của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã chứng minh
sự khôn khéo và các thủ đoạn chính trị tài tình của Lenin.
Ông đã biết lợi dụng những nhu cấu bức thiết của nhân
dân Nga (ruộng đất cho người nông dân, hoà bình bằng bất
cứ giá nào, bánh mì cho người dân đang đói khổ…) để
khích động quần chúng chống lại Chính phủ Lâm thời. Từ
một đảng thiểu số kể cả trong các xô-viết, đảng Bolshevik
dần dần mở rộng ảnh hưởng và biến khẩu hiệu "tất cả
quyền lực về tay các xô-viết" thành một khẩu hiệu lật
đổ. Khi Chính phủ Lâm thời chuyển sang áp dụng các biện
pháp cứng rắn để đối phó với tình hình biến động,
đảng Bolshevik rút vào hoạt động bí mật và thông qua các
xô-viết để tiến hành cuộc "cách mạng lần thứ hai",
lật đổ chính cái chính phủ "cách mạng" mà họ mới vừa
lập ra trước đó hơn nửa năm.
Như chúng ta đã biết, bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười [15] ,
đảng Bolshevik đã tước quyền của Chính phủ Lâm thời và
chuyển giao quyền lực cho Hội đồng Dân uỷ (Council of
People's Commissars, Conseil des Commissaires du Peuple) - một tổ
chức hoàn toàn do phái Bolshevik kiểm soát. Tháng 3 năm 1918,
đảng Dân chủ - Xã hội (Bolshevik) Nga được đổi tên thành
Đảng cộng sản (Bolshevik) Nga. Kể từ tháng 7 năm 1918, tất
cả các đảng phái khác đều bị cấm hoạt động. Chuyên
chính vô sản được thành lập ở nước Nga.
Nhưng Cách mạng Tháng Mười nổ ra thành công là phúc hay hoạ
cho nước Nga? Chúng ta hãy nghe nhận định của George Plekhanov,
người thường được coi là "người thầy của chủ nghĩa
Marx ở Nga". Là một người sống lưu vong lâu năm, ngay khi nghe
tin cuộc Cách mạng Tháng Hai thành công, Plekhanov đã tìm cách
trở về tổ quốc. Khi được biết phe Bolshevik chủ trương
tiến hành cuộc cách mạng "giai đoạn hai", ông tìm mọi
cách để ngăn cản, nhưng không thành công. Vào ngày 28.10.1917,
nghĩa là chỉ hơn một tuần trước ngày nổ ra cuộc Cách mạng
Tháng Mười, Plekhanov gửi một lá thư ngỏ cho các công nhân ở
thủ đô Petrograd, trong đó có đoạn:
<div class="special_quote">"Lý do khiến cho những biến cố trong
những ngày qua làm tôi đau lòng không phải bởi vì tôi không
muốn thấy lý tưởng của giai cấp công nhân giành được
chiến thắng, mà ngược lại, chính bởi vì, bằng tất cả sinh
mạng của mình, tôi mong muốn sự chiến thắng của giai cấp
công nhân. Những thành phần có ý thức nhất trong giai cấp
công nhân của chúng ta phải tự hỏi: giai cấp vô sản của
chúng ta đã sẵn sàng để công bố một nền chuyên chính hay
chưa? Bất cứ người nào đã có một sự hiểu biết ít nhiều
về những điều kiện kinh tế cần thiết để thiết lập nền
chuyên chính vô sản đều không ngần ngại trả lời "không"
cho câu hỏi này.
Không, giai cấp công nhân của chúng ta còn xa mới nắm được
quyền lực chính trị với lợi thế thuộc về nó nói riêng và
về cả đất nước nói chung. Gán ghép một quyền lực như
thế cho nó có nghĩa là đẩy nó đến một thảm hoạ lịch sử
to lớn (a great historical calamity), một thảm hoạ sẽ là bi kịch
lớn nhất (the greatest tragedy) cho toàn thể nước Nga.
Người ta nói rằng công nhân Nga sẽ bắt đầu và công nhân
Đức sẽ kết thúc. Điều chắc chắn là xét về phương diện
kinh tế, nước Đức phát triển hơn nhiều so với nước Nga.
Cuộc cách mạng xã hội ở Đức gần hơn là cuộc cách mạng
ở Nga. Nhưng ngay cả đối với những người Đức, cuộc cách
mạng vẫn chưa được đặt ra trong chương trình nghị sự.
Điều đó có nghĩa là người Đức sẽ không hoàn thành cái mà
người Nga đã bắt đầu, và cả người Pháp, người Anh hay
người Mỹ cũng vậy. Bằng cách nắm chính quyền vào lúc này,
giai cấp vô sản Nga sẽ không hoàn thành một cuộc cách mạng
xã hội. Nó chỉ đem lại cuộc nội chiến, cuộc nội chiến
đó cuối cùng sẽ đem lại một bước thoái bộ so với những
vị trí đã đạt được vào tháng Hai hay tháng Ba năm nay".
[16]</div>
Ngày nay, sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại nước Nga
cũng như tại Đông Âu, đọc lại lời cảnh báo này, chúng ta
thấy Plekhanov quả thật là sáng suốt! Đáng tiếc là người
đã từng tự nhận là học trò của ông giờ đây đã trở nên
cao ngạo, bởi tham vọng ngất trời và lòng cuồng tín vào
những giáo điều của Marx! Tiếng nói của Plekhanov trở nên
lạc lõng giữa một đám đông đang say sưa "làm lịch sử"
với lòng tin ngây thơ rằng mình đang làm những người lính
tiên phong cho cả nhân loại. Tệ hơn nữa, những chỉ trích
của ông đối với chính quyền cách mạng lại bị hiểu lầm.
Dưới con mắt của một vài Cận vệ Đỏ quá nhiệt tình,
"người thầy của chủ nghĩa Marx ở Nga" được đánh giá
là "kẻ thù của nhân dân". Bị xúc phạm, ông rời bỏ Tổ
quốc và sau đó ít lâu, qua đời vì bệnh lao ở Phần Lan.
Cũng cần nói thêm là Plekhanov vốn là một người mác-xít
chính thống. Không giống như Hjalmar Branting ở Thuỵ Điển, ông
sớm bác bỏ chủ nghĩa xét lại của Bernstein. Là một người
"cách mạng", ông tin vào con đường cách mạng vô sản. Sự
khác biệt giữa ông và Lenin là ở chỗ do sống lâu năm ở
phương Tây, ông nhìn thấy rõ tình hình phát triển của phong
trào xã hội chủ nghĩa và không có chút ảo tưởng nào về
một cuộc cách mạng vô sản sắp nổ ra.
<h2>Cách mạng ở Đức và sự thất bại của những người
cộng sản Đức</h2>
Đúng như lời tiên đoán của Plekhanov, sau khi cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga nổ ra, nước Nga rơi vào nội chiến. Mặc dù
vậy, Lenin vẫn còn hy vọng vào việc cách mạng sẽ nổ ra ở
Đức. Trong thực tế tình hình của nước Đức lại phù hợp
với những nhận định của Plekhanov hơn là những nhận định
của Lenin.
Cũng tương tự như cuộc Cách mạng Nga năm 1917, cuộc Cách
mạng Đức năm 1918 diễn ra trong bối cảnh nước Đức đang
phải gánh chịu những hậu quả tai hại của cuộc Chiến tranh
Thế giới I. Mặc dù giành được chiến thắng đối với quân
Nga trên mặt trận phía đông, quân Đức bị cầm chân trên
mặt trận phía Tây, không thể chiếm đóng được nước Pháp
như đã dự tính. Tháng 4 năm 1918, Tướng Erich Ludendorff [17]
quyết định mở một cuộc tấn công lớn, với hy vọng cứu
vãn tình hình cho đế chế Đức, mặc dù vẫn còn khoảng 1
triệu quân kẹt lại ở phía đông để buộc chính quyền cách
mạng của Lenin thi hành hiệp ước Brest-Litovsk. Cuộc tấn công
của Ludendorff đã chọc thủng được phòng tuyến phía Tây
nhưng hậu quả của những năm chiến tranh tiêu hao đã khiến
cho quân Đức không còn đủ dự trữ để phát huy triệt để
thắng lợi đã đạt được. Với sự hỗ trợ của 1 triệu
quân Hoa Kỳ còn đang sung sức, quân Đồng minh đã phản công
một cách có hiệu quả. Ngày 8.8, quân Đức chịu một thất
bại nghiêm trọng ở miền bắc nước Pháp. Hoàng đế William II
(Guillaume II, tên tiếng Đức là Wilhelm II) nhượng bộ các lực
lượng dân chủ bằng cách thành lập một chính phủ có xu
hướng tự do hơn, đứng đầu là Hoàng thân Max von Baden, trong
đó có hai thành viên là đảng viên SPD. Chính phủ mới bắt
đầu các cuộc thương lượng để tìm hoà bình, nhưng trước
khi các cuộc thương thuyết bắt đầu, cách mạng đã nổ ra
bằng cuộc binh biến trong hải quân Đức, sau đó lan rộng ra
toàn bộ quân đội và cả trong giai cấp công nhân.
Từ ngày 29.10 đến ngày 3.11.1918, 40 ngàn thuỷ thủ và lính
hải quân ở cảng Kiel đã chiếm cảng để chống lại lệnh
của bộ chỉ huy định đưa lực lượng hải quân ra giao chiến
với Hải quân Hoàng gia Anh, vì họ cho rằng cuộc tấn công
trong tình thế tuyệt vọng này là một "hành động tự
sát". Khoảng ngày 8.11, công nhân và binh sĩ đã thành lập các
"hội đồng" (Räte) kiểm soát được phần lớn các thành
phố ở Đức, tạo điều kiện để thành lập một nước
Cộng hoà Hội đồng (Räterepublik, Council Republic) theo kiểu
chính quyền xô-viết ở Nga vào năm 1917. Hoàng đế buộc phải
thoái vị vào ngày 9.11.1918, chạy trốn sang Hà Lan, chấm dứt
nền quân chủ của nước Đức mặc dù vào lúc này hậu thuẫn
của hoàng gia vẫn còn rất mạnh, đặc biệt là trong các giai
cấp thượng lưu và trung lưu. Lo sợ trước viễn cảnh của
một cuộc cách mạng vô sản, Baden đã đề nghị Friedrich Ebert,
lãnh đạo của phái đa số đảng SPD, đứng ra thành lập chính
phủ.
Từ trước chiến tranh, đảng SPD đã trở thành một đảng
mạnh, giành được thắng lợi ngày càng lớn trong các cuộc
bầu cử. Năm 1912, đảng đã giành được 34,8% số phiếu bầu
với 110 trên tổng số 397 ghế trong Quốc hội (Reichstag). Nhưng
trong quá trình diễn biến của cuộc chiến tranh, đảng ngày
càng bị chia rẽ. Do lập trường chống chiến tranh, một nhóm
đối lập đã dần dần hình thành trong lòng đảng SPD; điều
này được phản ánh qua sự kiện số đại biểu SPD biểu
quyết chống ngân sách chiến tranh ngày càng tăng lên. Đầu năm
1916, nhóm của Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht quyết định phát
hành một tờ báo bí mật lấy tên là Spartacus (theo tên của
người nô lệ nổi loạn dưới thời đế quốc La Mã); từ đó
nhóm này được gọi là nhóm Spartacus (Spartacists hay Spartacus
Group). Tháng 4 năm 1917, nghĩa là sau khi Cuộc Cách mạng Tháng Hai
nổ ra ở Nga, nhóm đối lập chống chiến tranh tách khỏi SPD
để thành lập Đảng Dân chủ - Xã hội Độc lập (Unabhängige
Sozialdemokratische Partei Deutschlands; Independent Social Democratic Party,
viết tắt là USPD). Tham gia đảng này có cả những người theo
xu hướng cải cách như Karl Kautsky, Eduard Bernstein lẫn những
người theo xu hướng cách mạng như nhóm Spartacus. Nhóm Spartacus
gia nhập vào đảng này nhưng vẫn giữ tư thế như một bộ
phận độc lập trong lòng đảng mới.
Như vậy trong thực tế Đảng SPD bị chia làm ba phái: cánh hữu
do Friedrich Ebert lãnh đạo, cánh trung dung của Kautsky và Bernstein
và cánh tả của Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht. Do cánh hữu
chiếm đa số nên phái này còn được gọi là Những người
Dân chủ - Xã hội Đa số (Majority Socialists) hoặc Đảng SPD Đa
số (MSPD), để phân biệt với Những người Xã hội chủ nghĩa
Độc lập (Independent Socialists) hay Đảng SPD Độc lập (USPD).
Khi đảm nhận vai trò tổ chức chính quyền mới, Ebert phải
đối diện với một tình trạng bấp bênh, những nguy hiểm đe
doạ ngày càng tăng trên toàn lãnh thổ. Bốn năm rưỡi chiến
tranh đã đem lại tâm lý bất mãn trong nhân dân, làm giảm uy
tín của đế chế cũng như của hoàng tộc. Thiếu hụt lương
thực và nhiên liệu đã khiến cho dân chúng dễ bị tổn
thương bởi nạn dịch cúm đang hoành hành châu Âu. Ngày 8.11,
Vua Louis III ở Bavaria [18] phải thoái vị và Đảng USPD tuyên
bố thành lập nền cộng hoà "hội đồng" ở Munich. Các
cảng biển dọc Biển Bắc và Biển Baltic rơi vào tay các Hội
đồng của Thuỷ thủ, Binh sĩ và Công nhân - theo gương cuộc
nổi dậy của hải quân ở Kiel.
Đối với các nhà sử học, nền cộng hoà được công bố vào
buổi chiều ngày thứ bảy 9.11.1918, thật sự là một nền
"cộng hoà ngẫu nhiên". Bởi vì khi Friedrich Ebert chấp nhận
quyền thủ tướng của đế chế từ tay Max von Baden, ông có
dự định chuyển hoá chế độ quân chủ thành một một nền
quân chủ lập hiến. Thế nhưng đúng vào lúc Ebert nhận chức
Thủ tướng Đức tại toà nhà Quốc hội vào ngày 9.11. thì
cách đó khoảng một dặm Anh, trong một cuộc mít-tinh tập hợp
những người ủng hộ nhóm Spartacus phía trước Cung điện
Hoàng gia, Karl Liebknecht lại tuyên bố thành lập một nước
Cộng hoà Hội đồng (Räterepublik). Được trang bị trong đầu
một kịch bản mang nặng tính ý thức hệ, Liebknecht nuôi tham
vọng trở thành Lenin của nước Đức. Khi một đám đông
cuồng nộ tập hợp trước toà nhà Quốc hội, Ebert lại vừa
rời khỏi nơi đây, chỉ còn lại người phụ tá là Philipp
Scheidemann. Để đề phòng phe đảng của Liebknecht chớp thời
cơ, Scheidemann trong khi phát biểu trước đám đông đã sử
dụng câu "Nước Cộng hoà Đức muôn năm!". Khi nghe được
tin này, Ebert nổi giận bởi vì điều này nằm ngoài dự tính
của ông. Nhưng lời tuyên bố ấy không thể rút lại được,
Ebert đành phải bỏ kế hoạch thành lập chế độ quân chủ
lập hiến.
Ngày 10.11, một cuộc họp liên tịch của Hội đồng Công nhân
và Binh sĩ thành phố Berlin đã quyết định công nhận một
Hội đồng Uỷ viên Nhân dân (tức chính phủ lâm thời) bao
gồm ba uỷ viên của SPD (trong đó có Ebert và Sheidemann) và ba
uỷ viên của USPD. Đó là kết quả của sự thương lượng
giữa Ebert và ban lãnh đạo của USPD. Về phía USPD, mặc dù
lập trường của họ không cấp tiến như nhóm Spartacus, họ
vẫn giữ quan điểm về một nước "Cộng hoà Hội đồng"
(Räterepublik). USPD hy vọng rằng trong những tuần lễ tiếp theo,
công nhân và binh lính sẽ bầu ra vô số các "hội đồng"
trên khắp đất nước; các hội đồng này sẽ đảm nhiệm
việc thành lập một nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa "chân
chính". Trong khi đó, Ebert vẫn hy vọng cuộc bầu cử quốc
hội lập hiến trong tương lai sẽ dẫn đến việc thành lập
một nước cộng hoà dân chủ ôn hoà.
Mặt khác, trong một cuộc điện đàm với với Wilhelm Groener,
đại diện của quân đội Đức vào đêm 9.11, Ebert đã thoả
thuận với Groener về những điều khoản để ngừng bắn.
Groener đồng ý ký quyết định đình chiến để tạo điều
kiện quân đội có thể trở về tham gia ổn định tình hình.
Một lãnh đạo dân sự - Matthias Erzberger thuộc Đảng Trung Tâm
(Centre Party), đã ký hiệp ước đình chiến, có hiệu lực kể
từ ngày 11.11.1918.
Về phía nhóm Spartacus, các hoạt động để chuẩn bị cho hành
động cách mạng ngày càng gia tăng. Khoảng 11.11, nhóm Spartacus
công khai thành lập Liên đoàn Spartacus [19] và mở các cuộc
thương lượng với USPD và Ban Đại diện Công nhân Cách mạng
(Revolutionäre Obleute, The Revolutionary Shop Stewards) - một tổ chức
công đoàn ly khai hình thành từ đầu năm 1918.
Lập trường của SPD và của nhóm Spartacus khác nhau về căn
bản. Mục tiêu của Ebert, Scheidemann và các nhà lãnh đạo SPD
khác là tái lập trật tự và luật pháp càng nhanh càng tốt.
Họ tìm cách thiết lập một Quốc hội Lập hiến. Trong khi
đó, nhóm Spartacus lại coi các "Hội đồng" của công nhân
và binh sĩ mới là nền tảng đích thực của một nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa của công nhân. Họ tố cáo các lãnh tụ
của SPD là "những đặc vụ giấu mặt của giai cấp tư
sản" bởi vì những người này ủng hộ cho việc thành lập
quốc hội. Rosa Luxemburg gọi quốc hội là một "sự chệch
hướng hèn nhát" (cowardly detour) và là "một cái vỏ rỗng"
(an empty shell). Các phần tử cực tả trong nhóm Spartacus còn
gọi SPD là "những phần tử phản cách mạng". Khẩu hiệu
của nhóm Spartacus là "Huỷ bỏ quốc hội và chuyển giao toàn
bộ quyền lực cho các hội đồng công nhân và binh sĩ!" Về
phía các lãnh tụ của phái cải cách, họ tố cáo những
người thuộc phái Spartacus là "những kẻ khủng bố",
"phản dân chủ"… [20]
Đại hội Toàn quốc của các Hội đồng Công nhân và Binh sĩ
(họp từ ngày 16 đến 20.12.1918) đã ủng hộ mạnh mẽ việc
thành lập Quốc hội và quyết định tổ chức bầu cử vào
ngày 19.1. Kế hoạch của Ebert đã có được hậu thuẫn vững
chắc.
Trong những ngày cuối tháng 12, tình hình ngày càng căng thẳng.
Phía USPD rút khỏi chính phủ lâm thời vì không đạt được
mục tiêu thành lập nước Cộng hoà Hội đồng. SPD thay thế
các ghế bỏ trống bằng các đảng viên của họ, trong số đó
có Gustav Noske, người sau này đảm nhiệm chức Uỷ viên phụ
trách Quốc phòng và đóng vai trò tích cực trong việc đàn áp
cuộc nổi dậy của những người cộng sản. Trong khi đó,
được sự cổ vũ của Đảng Bolshevik Nga, Liên đoàn Spartacus
quyết định chuyển từ một tổ chức lỏng lẻo thành một
đảng cộng sản tập trung chỉ huy. Trước hết nhóm Spartacus ra
tối hậu thư cho USPD, yêu cầu đảng này tổ chức một đại
hội bất thường để thảo luận về tình hình mới. Bị bác
bỏ, nhóm Spartacus triệu tập hội nghị riêng vào 29.12 để
thành lập Đảng Cộng sản Đức (KPD) [21] . Xu hướng cực tả
tràn ngập đại hội. Mặc dù có sự khuyến cáo của Rosa
Luxemburg, đại hội đã biểu quyết tẩy chay cuộc bầu cử
Quốc hội Lập hiến với 62 phiếu thuận, 23 phiếu chống. Phát
biểu tại đại hội, Otto Ruehle nói : "Chúng ta phải kích
thích liên tục những chính sách sinh động của đường phố…
nhiệm vụ của chúng ta là cố gắng phá vỡ (Quốc hội)."
Mặt khác, tại Đại hội cũng vang lên những ý kiến chống
đối các công đoàn chính thức. Nhiều đảng viên của đảng
cộng sản mới thành lập đã không biết rằng quần chúng công
nhân ngày càng đến với các công đoàn. Số đoàn viên công
đoàn tăng lên nhanh chóng: trước cuộc Cách mạng tháng 11, chỉ
có 1,5 triệu đoàn viên công đoàn, cuối tháng 12 năm 1918, số
đoàn viên công đoàn tăng lên đến 2,2 triệu. [22]
Cuộc nổi dậy của phái Spartacus diễn ra trong bối cảnh đó.
Lo ngại cuộc bầu cử Quốc hội Lập hiến (dự định tổ
chức vào ngày 19.1) sẽ giúp Ebert ổn định được tình hình,
Liebknecht quyết định nổi dậy vào ngày 6.1.1919. Nhóm Spartacus
(nay trở thành Đảng cộng sản Đức) đã khởi động những
cuộc biểu tình lớn ở Berlin, nhanh chóng nắm lấy các vị trí
then chốt và các trung tâm liên lạc.
Nhưng những biến cố của "Tuần lễ Spartacus" đã chứng
minh rằng nước Đức chưa đủ chín muồi cho một cuộc cách
mạng vô sản như những người lãnh đạo phái tả hằng tin
tưởng. Đúng như Luxemburg đã lo sợ, sự ủng hộ đối với
chủ nghĩa cộng sản chưa thật sự hiện hữu trong lòng công
nhân Đức; thay vào đó, phần lớn công nhân còn trung thành
với phái Độc lập (USPD) hay với cái nhìn ôn hoà hơn và dân
chủ hơn của phái Đa số (SPD). Hơn thế nữa, Quân đội Đức
đã phục hồi được dũng khí của họ và quyết định ngăn
ngừa một bước chuyển hơn nữa về phía tả. Vào tháng 12 năm
1918, quân đội đã bắt đầu huấn luyện một cách bí mật
những đơn vị nhỏ được gọi là Đội quân Tự do (Freikorps,
Free Corps). Đội quân tình nguyện này trong những năm kế tiếp
đã đi lang thang khắp đất nước, tìm kiếm các phần tử cách
mạng để đàn áp. Cuộc nổi dậy Spartacus bị hạn chế ở
Berlin, bị dập tắt trong vòng một tuần lễ bởi khoảng 3.000
thành viên của Freikorps. Khi Liebknecht và Luxemburg bị bắt vào
ngày 15 tháng 1, cả hai bị bắn không xét xử theo quyết định
của các sĩ quan Freikorps. Mặc dù các hoạt động cách mạng
rải rác còn tiếp tục ở các nơi khác trên nước Đức trong
những tháng kế tiếp, sự thất bại ở Berlin đã đánh dấu
sự sụp đổ của nó một cách rõ ràng. Nền cộng hoà
"xô-viết" ở Bavaria được thành lập vào ngày 4.4.1919 cũng
chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi; các đơn vị
Freikorps đã đánh đổ nó vào khoảng cuối tháng.
Cuộc bầu cử vào ngày 19.1.1919 - cuộc bầu cử đầu tiên ở
Đức trong đó phụ nữ được hưởng quyền bầu cử - đã đem
lại một chiến thắng vang dội cho quan niệm dân chủ của
Ebert. Ba phần tư cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ cho các đảng
chủ trương chuyển nước Đức sang một chế độ dân chủ.
[23] Cuộc bầu cử này cũng xác nhận sự tín nhiệm của cử
tri đối với phái đa số của đảng SPD: SPD đạt 37,9 % trong
khi USPD đạt 7,4 % số phiếu. Sau những tháng rối loạn, nước
Đức trở thành một nước cộng hoà dân chủ. Quốc hội lập
hiến bắt đầu các cuộc bàn cãi vào ngày 6.2.1919, chọn chỗ
họp là Weimar, một thành phố nhỏ được coi là ít bị ảnh
hưởng của xu hướng chính trị cấp tiến hơn là Berlin. Ebert,
lãnh tụ phái đa số của SPD, được bầu làm Tổng thống
nước Cộng hoà.
Quốc hội Weimar đã dự thảo một bản Hiến pháp (chính thức
ban hành ngày 11.8.1919), theo đó, nước Đức là một nước
cộng hoà liên bang bao gồm 19 bang. [24] Hiến pháp Weimar quy
định một Tổng thống do nhân dân bầu ra, người này được
giao quyền lực đáng kể về chính sách ngoại giao và lực
lượng vũ trang. Điều 48 đem lại cho Tổng thống quyền ban
hành sắc lệnh trong trường hợp khẩn cấp nhằm bảo vệ nền
cộng hoà trước các cuộc khủng hoảng gây ra bởi các kẻ thù
từ phía tả cũng như phía hữu. Tổng thống có quyền bổ
nhiệm thủ tướng, nhưng chính phủ do thủ tướng thành lập
phải được sự tin cậy của Hạ viện (Reichstag), được bầu
ra bởi đầu phiếu phổ thông thông qua một hệ thống đại
diện căn cứ theo tỷ lệ. Trong trường hợp chính phủ không
được quốc hội tín nhiệm, tổng thống có thể yêu cầu
người khác thành lập chính phủ hoặc tiến hành bầu cử lại
quốc hội. Quốc hội còn có một Thượng viện (Reichsrat) bao
gồm các đại biểu được chỉ định bởi chính quyền các
bang (Länder) trong liên bang, nhưng quyền lực trong thực tế tập
trung ở Hạ viện, do đó khi nói đến Quốc hội, người ta
thường nghĩ đến Hạ viện (Reichstag) [25] .
Như vậy là ở nước Đức, cuộc cách mạng "giai đoạn
một" (theo cách gọi của Plekhanov) đã nổ ra, nhưng cuộc cách
mạng "giai đoạn hai" (tức là cách mạng vô sản) đã thất
bại. Dự đoán của Marx - và sau đó của Lenin- về một cuộc
cách mạng vô sản toàn thế giới đã không được chứng
thực.
© 2007 talawas
______________________
[1] Tên gọi chính thức của Quốc tế I là Hiệp hội Công nhân
Quốc tế (International Workingmen's Association, Association
Internationale des Travailleurs).
[2] Đại hội thành lập Đảng được tiến hành tại thành
phố Eisenach (miềnTrung nước Đức); do đó phái này cũng
được gọi là phái Eisenach, đảng Eisenach.
[3] Đại hội thành lập được tiến hành vào tháng 7.1889. Do
sự chia rẽ giữa phái mác-xít và phái khả năng (Possibilist,
possibiliste), có hai đại hội được tiến hành gần như cùng
một lúc tại Paris. Nhưng mâu thuẫn này nhanh chóng được giải
quyết: cả hai phái đồng ý cùng họp chung Đại hội 2 tại
Brussels (Bruxelles, thủ đô Bỉ) vào tháng 8 năm 1891.
[4] Còn được dịch là Cục Xã hội chủ nghĩa Quốc tế.
[5] Đảng Xã hội Pháp thành lập năm 1905 trên cơ sở hợp
nhất hai đảng xã hội chủ nghĩa đã bị chia rẽ từ đầu
thế kỷ XX. Từ 1905 đến 1969, tên gọi chính thức của đảng
là "Phân bộ Pháp của Quốc tế Công nhân"(Section Française
de l'Internationale Ouvrière, The French Section of the Workers'
International", viết tắt là SFIO); còn được gọi một cách
không chính thức là Đảng Xã hội (Parti Socialiste, Socialist
Party).
[6] Karl Liebknecht là con trai của Wilhelm Liebknecht – người đã
cùng Agust Bebel sáng lập đảng SPD.
[7] Konstitutsionno-Demokraticheskaya Partiya (Constitutional Democratic
Party). Đảng này còn có tên là Đảng Tự do của Nhân dân
(Partiya Narodnoy Svobody, Party of People's Freedom ).
[8] Khẩu hiệu: "khozhdenie v narod " (đến với nhân dân) là
nguồn gốc của danh xưng "dân tuý" (narodnik).
[9] Rossiyskaya Sotsial-demokraticheskaya Rabochaya Partiya (Russian Social
Democratic Worker's Party, Parti Ouvrier Social-Democrate de Russie). Tên
viết tắt tiếng Anh là RSDWP. Còn được dịch là Đảng Lao
động Dân chủ - Xã hội Nga (Russian Social Democratic Labour Party,
RSDLP) hay Đảng Dân chủ -Xã hội Nga (Russian Social Democratic
Party).
[10] Tên cũ là Belorussia hay Byelorussia, còn gọi là Bạch Nga.
[11] Mười ba phiên họp diễn ra tại Brussels (thủ đô Bỉ),
nhưng sau đó Đại hội phải chuyển sang London (thủ đô Anh)
để tránh sự đàn áp của cảnh sát.
[12] Phái những người dân chủ - xã hội Nga gốc DoThái.
[13] Chữ (b) là viết tắt của chữ bolshevik.
[14] Gọi là "Cách mạng Tháng Hai" vì các biến cố diễn ra
từ 23 đến 27 Tháng Hai năm 1917 tính theo lịch cũ (lịch Julius,
Julian calendar) được áp dụng ở Nga vào lúc đó. Nếu tính theo
lịch mới (lịch Gregorian) thì phải gọi là "Cách mạng Tháng
Ba" vì các biến cố diễn ra từ ngày 8 đến 12 tháng Ba năm
1917. Ở Nga, mãi đến 31.1.1918 mới bắt đầu áp dụng lịch
Gregory (Gregorian calendar) như các nước phương Tây.
[15] Diễn ra trong những ngày 24 và 25 tháng 10 năm 1917 (tính theo
lịch cũ). Nếu tính theo lịch mới là ngày 6 và ngày 7 tháng 11
năm 1917.
[16] George Plekhanov, Open Letter to the Petrograd Workers (28th October,
1917) http://www.spartacus.schoolnet.co.uk/RUSplekhanov.htm
[17] Ludendorff là Tổng tham mưu trưởng của Quân đội Đức
(Reichswehr). Thật ra người đứng đầu quân đội Đức lúc ấy
là Tướng Paul von Hindenburg, nhưng theo nhận xét của các sử
gia, chính Ludendorff mới là người thật sự chỉ huy các chiến
dịch quân sự của Đức vào lúc đó.
[18] Bavière; tên tiếng Đức là Bayern.
[19] Liên đoàn Spartacus (Spartakusbund, Spartacist League, Ligue
Spartakiste) chính là tiền thân của Đảng cộng sản Đức.
[20] Rob Sewell, Germany : from Revolution to Counter-Revolution, 1988, In
The Throes of Revolution
http://www.marxist.com/germany-counter-revolution-fascism-throes.htm
[21] Kommunistische Partei Deutschlands, Communist Party of Germany, viết
tắt là KPD.
[22] Rob Sewell, sđd.
[23] Liên minh Weimar bao gồm ba đảng: SPD, Đảng Trung Tâm (Centre
Party), Đảng Dân chủ Đức (German Democratic Party, DDP) đạt 76,2
% số phiếu.
[24] Trong tiếng Đức: Land, số nhiều: Länder.
[25] Do tình hình còn phức tạp, việc bầu cử Tổng thống
được dời lại 3 năm và việc bầu cử Quốc hội được hoãn
lại đến tháng 6 năm 1920.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6108), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét