Dương Danh Huy và Hoàng Anh Tuấn Kiệt - Bình luận về một bài viết của TS Vũ Quang Việt

<strong>Bình luận về bài "Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi tìm
giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử
và luật pháp quốc tế" của TS Vũ Quang Việt</strong>

<div class="special_quote"><em>Vấn đề Biển Đông đang ngày càng
trở thành mối quan tâm an ninh chiến lược tại khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Biển Đông có vị trí trọng yếu trong giao
thương hàng hải và có tầm chiến lược quân sự không những
của riêng khu vực Đông Nam Á mà còn của Châu Á – Thái Bình
Dương. Nước nào làm chủ được Biển Đông thì sẽ chi phối
được Đông Nam Á và nắm giữ vai trò quan trọng ở Châu Á –
Thái Bình Dương. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Trung Quốc
nâng tầm quan trọng của Biển Đông thành an ninh quốc gia và
quả quyết là "quyền lợi cốt lõi", tương đương như
những vấn đề Tây Tạng, Đài Loan và Tân Cương. Với lý do
đó, một khi quyền lợi này bị đe dọa hay bị can thiệp thì
Trung Quốc sẵn sàng dùng sức mạnh quân sự để cưỡng
đoạt. Chính những tuyên bố và hành động cứng rắn trong
thời gian gần đây của Trung Quốc đã gây quan ngại, không
chỉ với các nước có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông và
những nước có quyền lợi hàng hải liên quan, mà với cả
toàn thế giới, khi mà những hành động này ảnh hưởng đến
an ninh khu vực. Bài viết này sẽ thảo luận về các giải pháp
giải quyết tranh chấp Biển Đông đã được đề xuất trong
công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Quang Việt. Chúng tôi
sẽ bàn sâu hơn đến các vấn đề quan trọng như các nguyên
tắc cho việc tìm các giải pháp, đặc tính của các giải
pháp, sự phức tạp của vấn đề tranh chấp, đề xướng các
giải pháp, …Bài viết sẽ xem xét những yếu tố trên dựa
theo chứng cứ lịch sử và công pháp quốc tế. Cuối cùng sẽ
tóm lược lại những điểm hợp lý và chưa hợp lý trong công
trình nghiên cứu của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, đồng thời đề
xuất những giải pháp bổ sung cho vấn đề tranh
chấp.</em></div>

<h2>I. Sơ lược bài viết của TS Vũ Quang Việt</h2>

<div class="special_quote"><strong>Tin liên quan:</strong>

<ul>
<li><a
href="http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_VuQuangViet.htm">Vũ
Quang Việt - Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi tìm giải pháp hòa
bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp
quốc tế</a></li>
<li><a
href="http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai20/201020_VuQuangViet.htm">Vũ
Quang Việt - Trả lời Dương Danh Huy và Hoàng Anh Tuấn
Kiệt</a></li>
</ul></div>

Công trình nghiên cứu của TS Vũ Quang Việt (<a
href="http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_VuQuangViet.htm">"Tranh
chấp Biển Đông Nam Á: đi tìm giải pháp hòa bình và công lý
dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế"</a>
Thời Đại Mới số 19, 7/2010) cho thấy đó là một công trình
công phu, tác giả rất tâm huyết với vấn đề mang tính sống
còn cho chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Bài viết đã thể
hiện sự công tâm và tinh thần công bằng đáng trân trọng,
đồng thời thể hiện tinh thần cầu thị cao. Những đức tính
đó rất đáng quý trong việc nghiên cứu về tranh chấp Biển
Đông. Song, có đôi điều chúng tôi muốn bàn luận thêm về
nội dung cũng như một số khía cạnh của bài viết.

<strong>Phạm trù của bài viết</strong>

Phần lớn, Phần II: <em>"Xem xét lại những yêu sách dựa trên
'chủ quyền lịch sử' "</em>, và Phần III, <em>"Bối
cảnh: Đi tìm giải pháp hòa bình và công lý"</em> là về
đảo, không phải về biển. Tất cả các tiêu đề trong hai
phần này là về đảo.

Trên thực tế, tranh chấp đảo chỉ là một cái cớ cho vùng
biển lưỡi bò, vì tranh chấp đảo không thể nào gây ra một
vùng tranh chấp rộng lớn như thế. Thậm chí, có thể nói
rằng Trung Quốc dùng tranh chấp đảo để nguỵ trang và đánh
lạc hướng các bên trong cuộc tranh chấp về đường lưỡi bò
hoàn toàn vô lý của họ.

Chúng tôi cho rằng bài <em>"Tranh chấp Biển Đông Nam Á: đi
tìm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch
sử và luật pháp quốc tế"</em> tập trung nhiều vào tranh
chấp đảo, và như thế là không phản ảnh chính xác thực tế
nói trên. Có lẽ đây là một bài viết về tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa hơn là về tranh chấp biển.

Bài viết nhấn mạnh từ <em>"lịch sử"</em>, ví dụ như
trọng các cụm từ <em>"chứng cứ lịch sử", "chủ quyền
lịch sử"</em>, nhưng chỉ dùng những từ này để nói về
thời đại phong kiến. Theo ý kiến của chúng tôi, dùng từ như
thế là không chính xác, vì <em>"lịch sử"</em> phải bao gồm
tất cả những gì trong quá khứ, ví dụ như thời đại phong
kiến và hậu phong kiến. Phân loại chứng cớ thành <em>"lịch
sử"</em> hay <em>"không phải lịch sử"</em> (tức là phong
kiến hay không phải phong kiến) cũng không sát với pháp lý
quốc tế vì các phiên toà quốc tế không dùng cách phân loại
đó.

<strong>Phạm trù của bình luận: tranh chấp Trường Sa</strong>

Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, thực tế tồn
tại ba loại tranh chấp khác nhau:

1. Tranh chấp các đảo Hoàng Sa.

2. Tranh chấp các đảo Trường Sa.

3. Tranh chấp biển và thềm lục địa.

Trong bài này, chúng tôi sẽ chỉ bình luận về những gì TS Vũ
Quang Việt viết liên quan đến tranh chấp các đảo Trường Sa.
Với phạm trù này, có thể tóm tắt lập luận của tác giả
như sau:

<strong>1</strong>. Không có chứng cớ chứng tỏ rằng các triều
đại phong kiến Trung Quốc đã từng tuyên bố hay thực thi chủ
quyền trên quần đảo Trường Sa.

<strong>2</strong>. Năm 1951 là lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố
chủ quyền.

<strong>3</strong>. Gần như không có chứng cớ chứng tỏ rằng
các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng thực thi chủ
quyền trên quần đảo Trường Sa.

<strong>4</strong>. Năm 1933 Pháp tuyên bố chủ quyền đối với
Trường Sa, nhưng có một số vấn đề phức tạp về tuyên bố
chủ quyền của Pháp.

<strong>5</strong>. (Tác giả cho rằng) các đảo Trường Sa chưa
chắc có nhiều quyền lợi từ biển, và nếu có thì cũng không
thể thực hiện được trước khi giải quyết tranh chấp.

<strong>6</strong>. Về chủ quyền đối với các đảo Trường Sa,
tác giả đề nghị nguyên tắc <em>"Sẽ là một giải pháp
công bằng và hợp lý cho tất cả các bên liên quan nếu bỏ
sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa
thực dân ở Đông Nam Á (ĐNA)"</em>.

<strong>7</strong>. Tác giả đưa ra một giải pháp gồm ba bước,
bước thứ ba có hai sự lựa chọn về chủ quyền đối với
các đảo Trường Sa:

<div class="special_quote">
<em>i. Các đảo này là tài sản chung của các nước trong tranh
chấp, hay</em>

<em>ii. Nước nào đang chiếm đảo nào thì chủ quyền của
đảo đó thuộc về nước đó</em>.</div>

Trong các luận điểm trên, bài viết đã áp dụng nguyên tắc
<em>"chứng cớ cho chủ quyền là sự tuyên bố và thực thi
chủ quyền ở cấp nhà nước"</em> cho thời kỳ phong kiến.
Đó là nguyên tắc đúng. Trong thời kỳ hậu phong kiến, nguyên
tắc đó, tuy vẫn đúng, nhưng không đủ bao quát để đánh giá
các sự kiện, và bài viết cũng không đánh giá các sự kiện
đó một cách chính đáng.

Để minh hoạ, có thể ví bài viết như một quyển sách đi từ
chương đầu tiên (áp dụng nguyên tắc pháp lý cho thời đại
phong kiến) thẳng đến chương cuối cùng (đưa ra giải pháp)
mà thiếu chương giữa (áp dụng nguyên tắc pháp lý cho thời
đại hậu phong kiến). Có thể nói rằng, không chỉ thiếu
chương giữa mà trong luận điểm thứ 6 tác giả đã đề nghị
bỏ qua các sự kiện của chương giữa.

<strong>Về luận điểm thứ 4</strong>, chúng tôi sẽ phân tích
chi tiết về những vấn đề phức tạp tác giả nêu ra trong
một phần sau. Qua phân tích, chúng tôi cảm thấy rằng tác giả
đã chưa có nhận định chính xác hay chưa lý luận chặt chẽ
về một số vấn đề phức tạp đó.

<strong>Về luận điểm thứ 5</strong>, chúng tôi cho rằng chúng
ta cần phải biết các đảo Trường Sa có là của Việt Nam hay
không, bất kể các đảo này có thể có nhiều hay có ít quyền
lợi, và bất kể chúng ta có thể thực hiện được quyền
lợi đó hay không.

<strong>Về luận điểm thứ 6</strong>, nguyên tắc tác giả đưa
ra không phù hợp với luật quốc tế hay tập quán quốc tế.
Không những thế mà nguyên tắc này rất có lợi cho Trung Quốc
và phương hại đến Việt Nam. Nếu chúng ta phủ định tuyên
bố 1933 và các hành đông liên quan của Pháp thì trọng lượng
tương đối của tuyên bố chủ quyền 1951 của Trung Quốc sẽ
tăng lên rất nhiều. Đó là lý do tại sao các học giả Trung
Quốc cố gắng bằng mọi cách để phủ định tuyên bố 1933
và các hành đông liên quan của Pháp, cũng như các hành động
thực dân, đế quốc, trong khi luật quốc tế và tập quán
quốc tế công nhận những tuyên bố và hành động như thế.

Theo ý kiến của chúng tôi, chúng ta phải áp dụng pháp lý
quốc tế, phải lý luận chặt chẽ và phải tôn trọng tất
cả các chứng cớ trong lịch sử Trường Sa (bao gồm cả thời
đại phong kiến và hậu phong kiến) trước khi có thể đi đến
chương cuối về một giải pháp công bằng dựa trên chứng cớ
lịch sử và luật pháp quốc tế. Lịch sử là lịch sử, mọi
luận chứng và luận cứ lịch sử phải được đối xử như
nhau, không thể chỉ chấp nhận lịch sử phong kiến mà bỏ đi
phần lịch sử trong thời kỳ thực dân.

<strong>Về luận điểm thứ 7</strong>, hai sự lựa chọn tác
giả đưa ra đều không nhất thiết là công bằng. Những lựa
chọn này chỉ công bằng nếu như:

<div class="special_quote">
<strong>·</strong> <em>Khi mỗi nước bắt đầu tranh chấp các
đảo Trường Sa thì chúng vẫn còn là đất vô chủ, hay</em>

<strong>·</strong> <em>Luật quốc tế không thể xác định được
các đảo Trường Sa thuộc nước nào, hoặc không thuộc nước
nào.</em></div>

Trong bài viết, tác giả chưa chứng minh hai điều trên, cho nên
cho rằng những lựa chọn mà tác giả đưa ra là công bằng thì
thật là thiếu cơ sở. Ngay cả những vấn đề phức tạp về
chủ quyền đối với các đảo Trường Sa mà tác giả nêu ra
cũng không chứng minh được hai điều trên, tức là cũng không
làm cho hai sự lựa chọn tác giả đưa ra là công bằng. Cụ
thể, nếu Trường Sa là của Việt Nam, và chúng tôi tin là như
thế, thì hai sự lựa chọn đó đều không công bằng cho Việt
Nam.

Qua đó điều chúng ta cần bây giờ là giải pháp giải quyết
tranh chấp biển-đảo công bằng cho các bên liên quan.

<h2>II. Giải pháp giải quyết tranh chấp Biển Đông</h2>

<strong>a. Nguyên tắc cho việc đi tìm giải pháp tranh chấp giải
quyết tranh chấp Biển Đông</strong>

Để có được giải pháp giải quyết cho các tranh chấp lãnh
thổ, những yếu tố dưới đây cần được xem xét:

i. Xác định tiêu chí cho sự công bằng nằm ở đâu.

ii. Đi tìm các giải pháp.

iii. Đánh gía mỗi giải pháp qua hai tiêu chuẩn:

<div class="special_quote">
<strong>·</strong> <em>Giải pháp đó nằm cách sự công bằng bao
xa và chúng ta có thể chấp nhận khoảng cách đó hay không?</em>

<strong>·</strong> <em>Tính khả thi của giải pháp đó.</em></div>

Có thể nói vị trí của sự công bằng là <em>"đường cơ
sở"</em> cho việc đi tìm giải pháp. Không có đường cơ sở
đó, chúng ta không thể đánh giá bất cứ giải pháp nào. Giả
sử chúng ta đưa ra một giải pháp khả thi nhưng chúng ta không
biết sự công bằng nằm đâu, tức là không biết giải pháp
đó nằm ở đâu so với sự công bằng, thì chúng ta không thể
biết giải pháp đó có bất công cho chúng ta hay không, và nếu
bất công thì bất công đến mức nào. Nếu không biết thì
chúng ta không thể lựa chọn, hay thậm chí đánh giá, giải
pháp đó.

Trong tranh chấp lãnh thổ, có nhiều quan điểm khác nhau về sự
công bằng. Các phiên toà quốc tế phân xử tranh chấp lãnh
thổ, đều rất khách quan, khoa học và tinh tế về sự công
bằng. Những phiên toà này nói riêng và pháp lý quốc tế nói
chung là thước đo khách quan nhất, khoa học nhất, tinh tế
nhất cho sự công bằng trong tranh chấp lãnh thổ.

Vì vậy, tiên đề cho việc đi tìm giải pháp cho tranh chấp
lãnh thổ là xác định sự công bằng nằm ở đâu, và để
xác định sự công bằng nằm ở đâu thì phải đi sát với
pháp lý quốc tế, sát với những nguyên tắc trong các phiên
toà quốc tế phân xử tranh chấp lãnh thổ.

Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông, lập luận
của Trung Quốc có nhiều màu sắc loè loẹt, ví dụ như Trung
Quốc có thể viện dẫn, tuy là một cách mạo nhận và nguỵ
biện, tài liệu có từ những triều đại phong kiến cổ xưa
và nổi tiếng, như Hán, Đường, Tống, Minh. Điều này làm cho
lập luận của Trung Quốc có tính quyến rũ và tính mỵ dân
rất cao. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của chúng tôi, các phiên toà
quốc tế sẽ loại những tài liệu mơ hồ, không có tính xác
lập chủ quyền đó. Nếu đi sát với luật quốc tế thì các
tuyên bố và hành động của Việt Nam là chứng cớ mạnh hơn
cho việc xác lập chủ quyền.

Vì vậy, các nhà nghiên cứu Việt Nam phải bám sát luật quốc
tế: đó vừa là tiêu chuẩn khách quan nhất, khoa học nhất cho
sự công bằng, vừa là dao bén để cắt qua những lớp màu
sắc loè loẹt, mỵ dân của lập luận của Trung Quốc.

<strong>b. Các đặc tính của tranh chấp Biển Đông</strong>

Tranh chấp Biển Đông có ba đặc tính:

<div class="special_quote">
1. Tồn tại tranh chấp chủ quyền đối với các đảo.

2. Tồn tại tranh chấp chủ quyền và quyền chủ quyền đối
với biển và thềm lục địa.

3. Các yếu tố địa - chính trị đặc thù có tác động lên
tính khả thi của các giải pháp hay chiến lược khác nhau.</div>

Đặc tính 1 và 2 nằm trong hai phạm trù pháp lý khác nhau. Đặc
tính 3 không nằm trong phạm trù pháp lý. Vì vậy, trong phân
tích, chúng ta nên tránh đan xen chúng với nhau. Cụ thể:

<div class="special_quote">
· Khi phân tích về pháp lý của chủ quyền đối với các
đảo thì cần tách biệt với vấn đề phạm vi của các vùng
biển thuộc mỗi đảo và realpolik.

· Khi phân tích về pháp lý của phạm vi của các vùng biển
thuộc mỗi đảo thì cần tách biệt với vấn đề chủ quyền
đối với các đảo và realpolitik.

· Khi một vấn đề nằm trong vùng xám pháp lý thì chúng ta có
thể lựa chọn vị trí dựa trên những yếu tố
realpolitik.</div>

<strong>c. Sự phức tạp về chủ quyền đối với Trường
Sa</strong>

Trong bài viết, TS Vũ Quang Việt đưa ra một số <em>"vấn đề
phức tạp"</em> liên quan đến chủ quyền đối với Trường
Sa. Chúng tôi sẽ phân tích những vấn đề đó để thấy rõ
ràng rằng chúng có thực sự phức tạp hay không.

<div class="special_quote"><em>Khu vực Trường Sa bao gồm có cả
đảo đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo
Luật biển Liên Hợp Quốc 1982. Đây là lý do Phi không thể
chấp nhận tuyên bố của Pháp năm 1933. Thêm lý do nữa là khi
Pháp tuyên bố chủ quyền thì Phi, Mã Lai v.v. lại chưa phải là
những nước độc lập để có tiếng nói.</em></div>

Luật biển Liên Hợp Quốc (UNCLOS) 1982 chỉ quy định về vùng
biển và thềm lục địa nào có thể thuộc về vùng đất nào.
UNCLOS 1982 không hề quy đinh gì về vùng đất nào (bao gồm cả
đảo và đảo đá) có thể thuộc về nước nào. Việc đảo
hay đảo đá của một nước nằm trong một vùng khép kín bên
trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác là một
điều hoàn toàn phù hợp với UNCLOS 1982. Nó không thể là lý do
hợp pháp để một nước phản đối tuyên bố chủ quyền của
một nước khác đối với một đảo.

Trên thực tế, Philippines không phản đối tuyên bố chủ quyền
của Pháp đối với Trường Sa năm 1933. Khi Philippines chính
thức tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa năm 1971[1], thì
Philippines cho rằng Trường Sa là đất vô chủ[2], nhưng họ
cũng không nói rằng đó là vì tuyên bố 1933 của Pháp không
hợp pháp.

(<em>Có ý kiến cho rằng Philippines đã cho rằng sau Thế Chiến 2
thì Trường Sa là đất vô chủ[3], ví dụ như với lý do trong
Hiệp Định San Francisco 1951 Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền
đối với Trường Sa nhưng không nói là trả cho nước nào. Tuy
nhiên, luận điểm cho rằng <strong>"Trường Sa là đất vô
chủ do Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường
Sa, nhưng không nói là trả cho nước nào"</strong>, sẽ không
hợp lý, vì khi Nhật từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với
Trường Sa thì chủ quyền đó sẽ thuộc về nước đã tuyên
bố chủ quyền trước khi Nhật chiếm Trường Sa</em>.)

Khi Philippines chính thức tuyên bố chủ quyền đối với
Trường Sa vào năm 1971 thì họ cũng không dùng lý do khu vực
Trường Sa bao gồm có cả đảo đá nằm trong vùng đặc quyền
kinh tế của Philippines theo UNCLOS 1982, đơn giản là vì vào năm
1971 thì UNCLOS 1982 và quy chế vùng đặc quyền kinh tế của nó
chưa ra đời. Philippines chỉ nói rằng Trường Sa là đất vô
chủ, vì một số đảo nằm gần Philippines, quan trọng cho
Philippines, cho nên Philippines tuyên bố chiếm hữu chúng.

Cho tới nay, Toà án Công lý Quốc tế đã phân xử nhiều tranh
chấp lãnh thổ liên quan đến những nước đã từng là thuộc
địa. Khi xét những sự kiện trong thời kỳ thuộc địa, Toà
không dùng lập luận trong thời kỳ đó nước này hay nước kia
chưa phải là những nước độc lập để có tiếng nói.
Ngược lại, Toà xem các hành vi của các nhà nước thực dân
liên quan như hành vi của những nhà nước đại diện hợp pháp
cho những nước thụộc địa này.

Trong tranh chấp Trường Sa, việc Philippines, Malaysia và Brunei
chưa phải là những nước độc lập vào năm 1933 không phải
là vấn đề, vì Toà sẽ cho rằng vào thời điểm đó Mỹ
đại diện cho Philippines, Anh đại diện cho Malaysia và Brunei, và
sẽ xét các hành vi liên quan của Mỹ và Anh. Ngoài ra, vào năm
1933, Anh và Mỹ cũng không cấm các đại diện bản xứ, ví dụ
như các vị sultan, nói với Anh, Mỹ rằng Trường Sa là của
họ, nhưng các đại diện bản xứ này đã không nói điều
đó.

<div class="special_quote"><em>Pháp lấy lý do Trường Sa là đất vô
chủ để tuyên bố chủ quyền năm 1933 thì điều này không
hoàn toàn đúng vì Anh là nước đã tuyên bố chủ quyền
trước Pháp ở vài hòn đảo trước đó. Năm 1877, chính quyền
thuộc địa Anh ở đảo Labuan (một đảo nhỏ, phía bắc Borneo,
do Anh mua lại của Brunei năm 1846) đã cấp giấy phép cho một
nhóm doanh nhân và cho phép họ cắm cờ Vương quốc Anh lên
đảo Spratly (Trường Sa) và đảo Amboyna Cay (An Bang) để hoạt
động thương mại. Hai đảo này đã được đăng ký là lãnh
thổ Vương quốc Anh trong những hồ sơ chính thức. Lúc đó Anh
không chính thức phản đối Pháp vì nhu cầu chống Nhật.
Điều viết ra ở đây chỉ nhằm nói tới sự phức tạp của
vấn đề chứ không ảnh hưởng gì đến tính hợp pháp về
tuyên bố chủ quyền của Pháp.</em></div>

Khi tồn tại hai nước cùng tuyên bố chủ quyền trên một vùng
lãnh thổ thì vùng lãnh thổ đó hoặc là thuộc về nước này,
hoặc là thuộc về nước kia, hoặc là nằm trong tình trạng
tranh chấp chủ quyền. Theo luật quốc tế, cả ba tình trạng
này đều khác với res nullius (đất vô chủ) và ở cả 3 tình
trạng này đều không cho phép một nước thứ ba nhảy vào tranh
chấp chủ quyền một cách hợp pháp.

Giả sử hành động của Anh năm 1877 có làm cho Trường Sa không
còn là đất vô chủ đi nữa, thì điều đó cũng không thành
vấn đề. Lý do là nếu thế thì sau khi Pháp tuyên bố chủ
quyền năm 1933 Trường Sa sẽ nằm trong một trong 3 tình trạng:

<div class="special_quote">
1. Hoặc là thuộc về Anh

2. Hoặc là thuộc về Pháp

3. Hoặc là tình trạng tranh chấp chủ quyền giữa Anh và
Pháp</div>

Cả ba tình trạng này đều không phải là <em>res nullius</em>
(đất vô chủ), và không cho phép Trung Quốc hay Philippines đòi
chủ quyền một cách hợp pháp.

Trên lý thuyết, nếu giả sử như Anh có tranh cãi tranh cãi
tuyên bố của Pháp, thì Malaysia có viện hành động của Anh
năm 1877 như chứng cớ để đòi chủ quyền.

Nhưng trên thực tế Anh đã không hề tranh chấp Trường Sa với
Pháp. Không những Anh không có phản đối chính thức (như tác
giả viết), mà còn không có bất kỳ phản đối nào. Không
những không có bất kỳ phản đối nào mà trong nội bộ Anh
còn cho rằng tuyên bố của Pháp là hợp lý và nói rằng Anh
không muốn tranh chấp chủ quyền đối với Trường Sa với
Pháp[4]. Mặc dù Anh chưa bao giờ tuyên bố cụ thể rằng họ
từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa, chắc chắn
100% là Toà cho rằng hành vi của Anh có nghĩa nước này đã
mặc nhiên công nhận trước sự khẳng định chủ quyền của
Pháp. Trên thực tế, trong 3 khả năng trên thì khả năng 1 và 3
đã bị loại ra.

Vì vậy, Anh và Malaysia không thể viện hành động của Anh năm
1877 để đòi chủ quyền. Trung Quốc và Philippines thì lại càng
không thể viện hành động của Anh năm 1877 để đòi chủ
quyền. Trên thực tế, không có nước nào viện hành động
của Anh năm 1877 để đòi chủ quyền. Điều đó cho thấy hành
động của Anh năm 1877 không làm cho khía cạnh pháp lý của
tranh chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Malaysia phức
tạp thêm.

Nhân tiện, chúng tôi xin nói thêm về việc nước nào trong tranh
chấp có thể viện chứng cớ nào: Hành động có thể được
cho là tuyên bố chủ quyền của Anh năm 1877 chỉ cho phép Anh hay
nước thừa kế hợp pháp là những nước duy nhất viện nó
như chứng cớ để tranh chấp chủ quyền với Pháp. Hành động
đó không cho phép Trung Quốc hay Philippines viện nó như chứng
cớ trong việc đòi chủ quyền cho các nước này.

<div class="special_quote"><em>Pháp chỉ ghi có 6 đảo, đá ở
Trường Sa trong tuyên bố chủ quyền năm 1933. Thực chất là
Trường Sa có đến khoảng 170 điểm tự nhiên, với 36 đảo,
đá nhỏ tí nhô lên mặt nước, và các bãi cát, v.v. nên ngay
việc định nghĩa và xác định nơi cụ thể đã có vấn đề.
Vậy chỉ một tuyên bố, liệu Pháp có quyền làm chủ cả
những nơi họ chưa biết tới?</em> </div>

Đây là một nghi vấn hợp lý. Chúng ta cần xác định khi mỗi
nước tuyên bố về quần đảo Trường Sa ở một thời điểm
nào đó thì quần đảo Trường Sa trong tuyên bố đó, vào thời
điểm đó, bao gồm những đảo nào, đảo đá nào.

<div class="special_quote"><em>Pháp cũng không có xác định thực
hiện chủ quyền trên một vùng biển rộng lớn như thế cho
nên Pháp chỉ có thể kiểm soát được đảo Itu Aba là đảo
lớn nhất vào năm 1938, sau đó đảo này bị Nhật chiếm, rồi
được Nhật trao lại cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây giờ
là Đài Loan).</em> </div>

Việc Nhật chiếm Trường Sa là tranh chấp giữa Nhật và Pháp.
Nó chỉ có thể hoặc là có, hoặc là không có khả năng làm
cho Trường Sa thuộc về Nhật. Nó không hề làm cho Trường Sa
thành đất vô chủ hơn, hay thành của Trung Quốc hơn, hay thành
của Philippines hơn, hay thành của Malaysia hơn.

Nếu, và chỉ nếu, việc Nhật chiếm đóng và chủ quyền của
Nhật ở Trường Sa được công nhận là hợp pháp thì nó mới
có thể làm cho Trường Sa thành đất vô chủ hơn (trong trường
hợp Nhật từ bỏ chủ quyền hợp pháp của họ mà không nói
là cho ai), hay thành của Trung Quốc hơn, hay thành của Philippines
hơn, hay thành của Malaysia hơn (nếu như Nhật trao chủ quyền
hợp pháp của họ cho những nước này). Đằng này, việc Nhật
chiếm Trường Sa không hề được nước nào hay trọng tài
quốc tế nào công nhận là hợp pháp. Ngược lại,

<div class="special_quote">
- Pháp luôn luôn phản đối Nhật;

- Việc Nhật chiếm Trường Sa là một phần của hành vi bị
thế giới lên án, và thế giới đã bắt buộc Nhật phải từ
bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền đối với Trường
Sa trong Hiệp Định San Francisco.</div>

Vì vậy, việc Nhật chiếm Trường Sa từ Pháp không có giá
trị pháp lý để làm cho chủ quyền của Nhật vững hơn, hay
làm cho Trường Sa trở thành đất vô chủ, hay làm cho Trường
Sa bớt thuộc về Pháp, hay làm cho Trường Sa thuộc về Trung
Quốc, hay Philippines, hay Malaysia. Tóm lại, việc Nhật chiếm
Trường Sa từ Pháp không làm cho khía cạnh pháp lý của vấn
đề phức tạp thêm.

Ngược lại, việc Nhật tuyên bố chủ quyền và sau đó chiếm
Trường Sa mà chỉ có Pháp phản đối, trong khi Trung Quốc, Mỹ
và Anh không hề phản đối, là chứng cớ rằng cho tới ít
nhất trước khi Thế Chiến 2 chấm dứt, Trung Quốc, Mỹ và Anh
không có tuyên bố hay hành động để khẳng định chủ quyền.
Đó là một chứng cớ ủng hộ chủ quyền của Pháp, đại
diện cho Việt Nam.

Câu <em>"Nhật trao lại cho Chính phủ Trung Hoa Dân quốc (bây
giờ là Đài Loan)"</em> là một lỗi nghiêm trọng.

Trong một bài viết về chủ quyền, từ <em>"trao"</em> không
được giới hạn chặt chẽ và rõ ràng thường có nghĩa trao
chủ quyền. Nhưng sự thật là không có chuyện Nhật trao
Trường Sa hay Hoàng Sa cho Trung Hoa Dân quốc. Không nên lẫn
lộn, ngộ nhận hay mạo nhận việc lính Trung Hoa Dân quốc
đến đảo Phú Lâm và Ba Bình là Nhật trao Trường Sa hay Hoàng
Sa cho Trung Hoa Dân quốc, nhất là nếu từ <em>"trao"</em>
không được giới hạn chặt chẽ và rõ ràng. Nếu có sự lẫn
lộn, ngộ nhận hay mạo nhận thì nó sẽ giống như lẫn lộn,
ngộ nhận hay mạo nhận việc lính Anh đến miền Nam sau Thế
Chiến 2 là Nhật trao chủ quyền đối với miền Nam cho Anh.

Trên thực tế, hoàn toàn không có chứng cớ rằng Nhật đã
trao chủ quyền đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho bất cứ
chính phủ nào của Trung Quốc trước Hiệp Định San Francisco
1951. Thêm vào đó, có thể lý luận rằng vì Nhật chưa trao
chủ quyền đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho nước khác
trước Hiệp Định San Francisco 1951 cho nên Nhật mới có thể
và mới phải bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền đối
với hai quần đảo này trong hiệp định đó.

Vì Nhật đã từ bỏ mọi yêu sách, hay quyền, hay chủ quyền
đối với Hoàng Sa và Trường Sa trong Hiệp Định San Francisco.
Cho nên sau hiệp định đó không còn bất cứ quyền gì để
trao Hoàng Sa hay Trường Sa cho bất cứ nước nào khác. Có thể
kết luận rằng không thể có chuyện Nhật trao chủ quyền
đối với Hoàng Sa hay Trường Sa cho Trung Quốc (như Trung Quốc
mạo nhận).

Cũng xin nói thêm rằng phía Trung Quốc cũng nói rằng Nhật trao
Trường Sa lại cho Trung Quốc và hay dùng những thủ đoạn ngôn
ngữ tương tự để ngấm ngầm gieo rắc những tư duy sai vào
tâm lý người đọc.

<div class="special_quote"><em>Các đảo đá quá nhỏ (trừ Itu Aba)
nên bỏ ngỏ.</em> </div>

Không chiếm cứ không có nghĩa là bỏ ngỏ. Việt Nam không
chiếm cứ tất cả các đảo lân cận đảo Côn Đảo, không có
nghĩa là Việt Nam bỏ ngỏ những đảo mình không chiếm cứ.
Chỉ khi nào có nước khác tới chiếm đảo nào mà Pháp không
phản đối thì mới có thể có lý do để nói là Pháp bỏ
ngỏ.

Không những thế, từ bỏ ngỏ cho đến bỏ chủ quyền còn
một quãng đường xa. Ví dụ GS Chemillier-Gendreau cho rằng để
chứng minh bỏ ngỏ là từ bỏ chủ quyền, cần phải chứng
minh là tồn tại ý định từ bỏ chủ quyền của mình[5].

<div class="special_quote"><em>Sau khi Pháp thua trận ở Điện Biên
phủ, Việt Nam Cộng hòa được Pháp chính thức giao lại Hoàng
Sa vào tháng 4 năm 1956. Còn Trường Sa cho đến nay Pháp vẫn
chưa chính thức trao trả. Tuy nhiên Việt Nam Cộng Hòa coi mình
có quyền tiếp nối chủ quyền của Pháp nên cùng thời gian
trên gửi quân chiếm một số đảo ở Trường Sa. Các nước
khác trong vùng ĐNA cũng tuyên bố chủ quyền và ra sức chiếm
những nơi không người.</em></div>

Năm 1933 Pháp sáp nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. Như vậy
chủ quyền đối với Trường Sa mặc định đi kèm theo chủ
quyền đối với tỉnh Bà Rịa. Điều không ai có thể tranh cãi
là khi Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam thì chủ
quyền đối với tỉnh Bà Rịa thuộc về Việt Nam. Câu hỏi
chính đáng là trước khi Pháp công nhận sự độc lập của
Việt Nam thì Pháp có tách Trường Sa ra khỏi Bà Rịa hay không?
Hay khi Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam thì Pháp có
bảo lưu chủ quyền của mình đối với Trường Sa hay không?
Câu trả lời cho hai câu hỏi này là <em>"Không"</em> và
<em>"Không"</em>. Như vậy không tồn tại gì để thay đổi
việc chủ quyền đối với Trường Sa mặc định đi kèm theo
chủ quyền đối với tỉnh Bà Rịa. Vì vậy chủ quyền đối
với Trường Sa mặc định thuộc về Việt Nam, không cần Pháp
phải nói cụ thể rằng họ trao Trường Sa cho Việt Nam.

Đó cũng là tập quán quốc tế trong giai đoạn giành độc lập
của các nước thuộc địa. Trong giai đoạn cai trị một nước
như thuộc địa, nước thực dân thường chiếm hữu thêm lãnh
thổ và sáp nhập vào thuộc địa của mình. Khi nước thuộc
địa trở thành độc lập thì vùng lãnh thổ mới này mặc
định thuộc về nước đó. Nếu không có hành động để tách
vùng lãnh thổ mới này ra khỏi nước đó thì vị trí mặc
định là vị trí áp dụng.

Việc chiếm đóng lãnh thổ mà nước khác đã tuyên bố chủ
quyền trước không bao giờ được Toà công nhận là có giá
trị trong lập luận pháp lý về chủ quyền, cho nên những sự
chiếm đóng như TS Vũ Quang Việt đề cập đến không làm cho
khía cạnh pháp lý trở nên phức tạp thêm.

<div class="special_quote"><em>Trung Quốc là nước duy nhất dùng
bạo lực để chiếm đảo của Việt Nam vào năm 1988.</em></div>

Việc chiếm đóng lãnh thổ mà nước khác đã tuyên bố chủ
quyền trước không bao giờ được Toà công nhận là có giá
trị trong lập luận pháp lý về chủ quyền, cho nên sự chiếm
đóng này không làm cho khía cánh pháp lý phức tạp thêm.

<div class="special_quote"><em>Liệu một đế quốc hùng mạnh như
Pháp có sức đe dọa nhiều nước kém phát triển ở ĐNA đang
bị cai trị mà chỉ một câu tuyên bố chủ quyền ở một vùng
đất vô chủ là có thể làm chủ tất cả các hòn đảo ở
Biển ĐNA, dù chính Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm
chủ chúng ở mọi nơi, và lại bị Nhật phản đối?</em></div>

Pháp và Việt Nam không đòi hỏi làm chủ tất cả các đảo ở
Biển Đông Nam Á.

Tuyên bố chủ quyền của Nhật làm cho Trường Sa nằm trong
một trong 3 tình trạng:

<div class="special_quote">
1. Hoặc là thuộc về Pháp

2. Hoặc là thuộc về Nhật

3. Hoặc là tình trạng tranh chấp chủ quyền giữa Pháp và
Nhật</div>

Cả 3 tình trạng này đều không phải là <em>res nullius</em>
(đất vô chủ), và không cho phép Trung Quốc hay Philippines hay
Malaysia đòi chủ quyền một cách hợp pháp. Vì vậy, tuyên bố
chủ quyền của Nhật không làm cho khía cạnh pháp lý của tranh
chấp giữa Việt Nam, Trung Quốc, Philippines và Malaysia phức tạp
thêm. Thêm vào đó, việc nhật từ bỏ yêu sách đối với
Trường Sa trong Hiệp Định San Francisco 1951 đã loại khả năng
2 và khả năng 3 ra khỏi 3 khả năng trên.

Vấn đề <em>"Pháp không đủ sức thực hiện quyền làm chủ
chúng ở mọi nơi"</em> không phải là vấn đề. Luật quốc
tế không đòi hỏi đủ sức thực hiện quyền làm chủ ở
mọi nơi. Vấn đề là Pháp có làm đủ trình tự pháp lý cho
việc xác lập chủ quyền hợp pháp hay không? có làm nhiều hơn
các nước khác hay không?

Trả lời câu hỏi thứ nhất, GS Chemillier-Grendreau cho là đủ.

Để trả lời câu hỏi thứ nhì, từ 1933 cho đến sau Thế
Chiến 2, Pháp làm nhiều hơn Trung Quốc, Anh, Mỹ - các nước
này không hề làm gì. Pháp đã làm nhiều hơn các nước này và
phản đối tuyên bố và sự xâm chiếm của Nhật trong khi các
nước này không phản đối.

Chỉ có Nhật là có thể tuyên bố và hành động để cạnh
tranh chủ quyền với Pháp, nhưng Hiệp Định San Francisco đã
loại Nhật ra khỏi vòng tranh chấp.

<div class="special_quote"><em>Lợi ích sẽ được định như thế
nào trên một khu vực rộng lớn mà kết cấu hầu hết là đá?
Ngay cả Itu Aba cũng chưa chắc đã đủ tư cách pháp lý để
được coi là đảo. Và dù được coi là đảo, dựa vào các
tiền lệ xử án của Tòa án Quốc tế đảo này cũng có thể
sẽ không có hoặc bị hạn chế quyền có vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa. Vậy thì dù có chủ quyền, lợi ích
có thể có ở các đảo đá này cũng có thể rất nhỏ. Và
trước hết, lợi ích này cũng không thể thực hiện được khi
chưa có giải pháp.</em> </div>

Lợi ích từ biển thuộc đảo và chủ quyền đối với đảo
là hai vấn đề khác nhau. Bất kể lợi ích từ biển thuộc
đảo là lớn hay nhỏ, chúng ta cũng cần phải biết chủ quyền
đối với đảo thuộc về ai. Bất kể hiện nay chúng ta có
thể gặt hái lợi ích từ biển thuộc đảo, dù lớn hay nhỏ,
hay không, chúng ta cũng cần phải biết chủ quyền đối với
đảo thuộc về ai. Vì vậy, chúng ta không nên xem vấn đề
lợi ích từ biển thuộc đảo là lớn hay nhỏ và vấn đề có
thực hiện được lợi ích đó hay không như những yếu tố
làm giảm giá trị của việc xác định chủ quyền đối với
đảo.

<strong>d. Giải pháp cho chủ quyền đối với Trường Sa</strong>

Về chủ quyền đối với Trường Sa, TS Vũ Quang Việt đề
nghị

<div class="special_quote"><em>Sẽ là một giải pháp công bằng và
hợp lý cho tất cả các bên liên quan nếu bỏ sang một bên
thế kỉ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân ở
ĐNA.</em></div>

Trong luật quốc tế, khi phân xử tranh chấp lãnh thổ liên quan
đến các nước đã từng là thuộc địa, Toà án Công lý Quốc
tế công nhận những hành vi phù hợp với luật pháp vào thời
điểm đó của các nhà nước thực dân. Đó cũng là tập quán
quốc tế: biên giới của các nước trước đây là thuộc
địa thường là biên giới do các hành vi của các nhà nước
thực dân trong thời kỳ thuộc địa.

Đề nghị <em>"bỏ sang một bên thế kỉ của chủ nghĩa đế
quốc và chủ nghĩa thực dân ở ĐNA"</em> đi ngược với
luật quốc tế và tập quán quốc tế, đồng thời cũng bỏ qua
mất giai đoạn lịch sử quan trọng. Trên nguyên tắc, khó có
thể nói rằng đề nghị này sẽ dẫn đến một giải pháp
công bằng. Trên thực tế, đề nghị đó không những đi
ngược với luật quốc tế hay tập quán quốc tế mà còn bất
lợi cho Việt Nam, vì nó sẽ phủ định một số lập luận phù
hợp với luật quốc tế của Việt Nam. Các học giả Trung
Quốc cũng cố tình phủ định các hành vi của Pháp ở Trường
Sa với cớ là <em>"chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực
dân"</em>, vì phủ định như thế rất có lợi cho lập luận
của Trung Quốc.

Nói chung, lập luận của phía Trung Quốc rất mang tính mỵ dân,
tuyên truyền cho giới bình dân bởi tính tính quyến rũ và
huyền thoại, nhưng, theo hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi,
lập luận của Việt Nam đi sát với pháp lý quốc tế và có
nhiều lợi thế hơn. Có học giả Trung Quốc, có lẽ do nhận
thấy ưu thế của phía Việt Nam trong pháp lý quốc tế, phản
biện rằng luật quốc tế về chủ quyền là luật của chủ
nghĩa thực dân, không thể áp dụng cho khu vực.

Vì vậy, và vì tinh thần <em>"Luật quốc tế là thước đo
khách quan nhất, khoa học nhất, và tinh tế nhất cho sự công
bằng trong giải quyết tranh chấp lãnh thổ"</em>, chúng tôi cho
rằng các nhà nghiên cứu Việt Nam nên đi sát với luật quốc
tế, tìm cách tận dụng luật quốc tế, và đặc biệt không
bỏ qua những ưu thế có từ luật quốc tế.

<strong>e. Lối thoát cho bước thứ 3 của giải pháp (của TS Vũ
Quang Việt)</strong>

<em>i. Bài của TS Vũ Quang Việt chưa chứng minh được rằng hai
lựa chọn được đưa ra cho lối thoát là công bằng</em>

Về bước thứ ba của giải pháp cho chủ quyền đối với
Trường Sa, tác giả viết như sau:

<em>Một lối thoát trong bước 3 để giải quyết vấn đề chủ
quyền đối với các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA bao
gồm 2 lựa chọn:</em>

<div class="special_quote">
1. Tất cả các đảo nhỏ, đảo đá… ở biển ĐNA nên được
xem là tài sản chung của tất cả các quốc gia có bờ biển
giáp với biển ĐNA. Nguồn thu nhập ròng từ tài nguyên trong
biển ĐNA nên được phân chia theo tỷ lệ tương ứng với quy
mô của đường cơ sở thẳng ven biển của mỗi quốc gia.

2. Các nước có chủ quyền đối với những điểm mà họ
đang chiếm giữ, nhưng chỉ có đảo đá và đảo nhỏ có vùng
lãnh hải 12 hải lý.</div>

Hai lựa chọn trên không công bằng. Nếu pháp lý quốc tế xác
định Trường Sa không phải là của ai, hay nếu pháp lý quốc
tế không có khả năng xác định Trường Sa là của ai, thì 2
lựa chọn đó sẽ được cho là công bằng. Nếu, theo pháp lý
quốc tế, Trường Sa là của Việt Nam thì 2 lựa chọn đó sẽ
không công bằng đối với Việt Nam.

Bài viết này chưa phân tích chặt chẽ và sát với pháp lý
quốc tế những vấn đề mà tác giả cho là phức tạp liên
quan đến chủ quyền đối với Trường Sa. Thậm chí, bài viết
có vẻ có nhận định không chính xác và thiếu cơ sở về
những vấn đề đó. Do đó, khó có thể cho rằng tác giả đã
xác định, hay xác định một cách chính xác, vị trí của sự
công bằng để làm đường cơ sở cho việc đánh giá 2 lựa
chọn trên.

<em>ii. Có những lựa chọn khác</em>

Nếu vùng biển thuộc các đảo Trường Sa được xác định là
không rộng lớn thì điều đó sẽ giảm nhiệt của tranh chấp
rất nhiều. Nếu vùng biển thuộc các đảo Trường Sa là nhỏ
thì quyền lợi chiến lược và kinh tế thuộc các đảo này
cũng nhỏ đi. Quyền lợi chiến lược và kinh tế thuộc các
đảo nhỏ đi thì Trung Quốc sẽ bớt hung hăng về khẳng định
mạnh mẽ chủ quyền của các đảo này. Ít nhất, nếu các
nước ĐNA trong tranh chấp, các nước có quyền lợi liên đới
và các cường quốc hàng hải trong việc bảo vệ quyền lợi
và an ninh toàn cầu đồng ý rằng các đảo Trường Sa chỉ có
thể được ít biển thì điều đó cũng kìm hãm sự hung hăng
của Trung Quốc.

Với những lý do đã trình bày ở trên, Việt Nam nên tập trung
vào bước thứ nhất và bước thứ 2 thay vì lựa chọn một
trong 2 lựa chọn trên (đều không nhất thiết là công bằng cho
Việt Nam) cho bước thứ 3.

Nếu thực hiện được phần nào của bước thứ nhất và
bước thứ 2, kìm hãm phần nào sự hung hăng của Trung Quốc,
thì Việt Nam sẽ có thêm thời gian và cơ hội để tìm kiếm
lựa chọn công bằng hơn (ngoài 2 lựa chọn mà tác giả đưa
ra) cho bước thứ 3, ví dụ như lựa chọn thứ 3: Các nước
trong tranh chấp yêu cầu Toà án Công lý Quốc tế phân xử vấn
đề chủ quyền đối với đảo.

Khả năng là lựa chọn này sẽ công bằng hơn lựa chọn 1 và
2.

Theo thiển ý của chúng tôi, rủi ro chính trong một phiên toà
về chủ quyền đối với đảo là từ công hàm của Phạm Văn
Đồng chứ không phải từ những "vấn đề phức tạp" mà
tác giả đưa ra. Trước khi nghiên cứu tới nơi tới chốn, hay
kỹ lưỡng nhất có thể, về các rủi ro thì Việt Nam cũng
chưa nên chọn lựa chọn 3.

Nếu Việt Nam đã nghiên cứu tới nơi tới chốn và đủ tự
tin thì nên yêu cầu các nước chọn lựa chọn 3; nếu chưa
nghiên cứu tới nơi tới chốn, hay không tự tin, hay có nước
trong tranh chấp chưa chấp nhận để cho Toà phân xử thì Việt
Nam nên chọn lựa chọn thứ 4: Tiếp tục tranh chấp chủ quyền
đối với các đảo (nhưng không đòi nhiều biển cho mỗi
đảo). Các nước có quyền lợi liên quan ký hiệp định ràng
buộc không sử dụng hay đe doạ sử dụng vũ lực, không chiếm
đóng thêm, không dùng những biện pháp cương hay nhu nhằm
chiếm đoạt, v.v.

<h2>III. Thảo luận và lời kết</h2>

Bài viết của TS Vũ Quang Việt là một công trình công phu trong
việc thu thập các sự kiện liên quan đến chủ quyền đối
với Hoàng Sa, Trường Sa trong thời phong kiến và thời Pháp
thuộc. Song, chúng tôi cảm thấy bài này còn một số khuyết
điểm.

Sự cân bằng của bài này nghiêng về tranh chấp Hoàng Sa,
Trường Sa hơn là về tranh chấp Biển Đông. Lập luận của
bài viết không chặt chẽ và không đi sát với luật quốc tế
khi đánh giá về tuyên bố chủ quyền năm 1933 của Pháp và các
sự kiện kế tiếp, đặc biệt là về những vấn đề mà tác
giả cho là phức tạp.

Bài viết đưa ra hai sự lựa chọn như lối thoát cho bước
thứ 3 của giải pháp liên quan đến Trường Sa, nhưng bài viết
đã không chứng minh được rằng các lựa chọn ấy là công
bằng. Hai sự lựa chọn đó chỉ công bằng nếu Trường Sa
không là của nước nào, hay pháp lý quốc tế không thể nói
Trường Sa là của nước nào, hay không là của nước nào.
Nhưng đó lại là những điều mà bài viết đã không chứng
minh được. Ngoài ra, có thể tồn tại những lựa chọn khác
có lẽ công bằng cho Việt Nam hơn như chọn lựa 3, 4 được
đề cập ở trên.

Việc tác giả đưa ra những vấn đề phức tạp, mà không phân
tích kỹ, không có đủ luận cứ và luận chứng, cùng với hai
sự lựa chọn trên làm cho người đọc có cảm giác như tác
giả nói rằng Trường Sa không phải là của nước nào (e.g. cho
nên làm của chung cũng được, hay ai chiếm là được). Theo
chúng tôi điều đó không chính xác và bất lợi cho Việt Nam
trong cuộc tranh chấp chủ quyền.

Dương Danh Huy
Hoàng Anh Tuấn Kiệt

<strong>Chú thích</strong>

[1] Valencia, "Sharing the Resources of the South China Sea", trang 34
và chú thích 147

[2] Valencia, trang 34 và chú thích 149

[3] Valencia, trang 33 và chú thích 143

[4] Marston, "Abandonment of territorial claims: the cases of Bouvet and
Spratly Islands", British Year Book of International Law 1986, trang
337-356

[5] Monique Chemillier-Gendreau, « Sovereignty over the Paracel and Spratly
Islands », Kluwer Law International, 2000, trang 55:

Lastly, the 'animus', as distinct from actual facts, is not lost by reason of
their absence. This was a key element of the legal system which prevailed
until the late 19th century. A territory is abandoned by its sovereign (and
cannot therefore be claimed by another sovereign) only if both elements which
together establish sovereignty are lacking. In international law, derelictio
results from two elements: in material terms, the absence of any effective
administration of the territory concerned; in psychological terms, the
intention to abandon the territory.

The rule is of long standing and is still in force. It has been mentioned and
applied in various arbitrations. It follows from these premises that
Clipperton Island was legitimately acquired by France on November 17, 1858.
There is no reason to suppose that France subsequently lost her right by
derelictio, since she never had the animus of abandoning the island, and the
fact that she has not exercised her authority there in a positive manner does
not imply the forfeiture of a acquisition already definitively perfected.

Or again:

Against these titles, the fact of not having actually occupied the island did
not prove anything, since the abandonment of the exercise of sovereignty was
not enough to establish its loss, the titleholder further had to renounce the
animus possidendi.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7247), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét