Tôi thật thà trả lời rằng: Tại vì ông Lý Quang Diệu,
người sáng lập ra đất nước Singapore đã có thời gian du
học ở Anh và ông ta cùng những cộng sự của mình đã xây
dựng đất nước theo những gì ông ấy đã được học và đã
được thấy ở những đất nước phát triển.
Bạn tôi lại hỏi lại: Thế ngày xưa bác Hồ cũng đi nước
ngoài sống và học tập thế sao không xây dựng được đất
nước như họ?
Tôi mới trả lời rằng: Bác Hồ ngày xưa được ra nước
ngoài là quý, nhưng bác chỉ là một anh thợ kim hoàn thôi. Tuy
điều đáng quý của bác là đã tranh thủ vừa rửa chén vừa
học tập, nhưng những gì bác thu thập không phải để xây
dựng một đất nước phát triển, mà để giành chính quyền.
Một Lý Quang Diệu thành lập nhà nước Singapore bằng con
đường thương thảo khác rất xa với một Hồ Chủ Tịch và
Đảng Cộng Sản cũng như các chính đảng khác lúc bấy giờ
giành chính quyền bằng bạo lực chính trị.
Ngoài ra điều quan trọng là bộ máy nhà nước của Singapore khi
được thành lập thì nội các hầu như là những người bạn
hoc chung trường với Lý Quang Diệu bên Anh. Những người
được đào tạo bài bản và được hấp thụ nền văn hóa
tiên tiến. Một điều rất khác xa với Hồ chủ tịch là
người duy nhất được du ngoạn bên trời Tây với một mớ
kiến thức tự học là chính. Và nếu nhìn vào nội các lúc
thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lúc bấy giờ
thì hầu như chẳng có ai được đi du học bài bản. Cho nên
một đất nước mới thành lập với những tư tưởng ấu trĩ
và áp dụng rập khuông chủ nghĩa Max-Lenin cũng chẳng có gì là
ngạc nhiên.
Ở đây tôi không phải đề cao cái việc du học ở trời Tây
nhưng công bằng mà nói thì cách đây 100 năm thì trình độ khoa
học, và trí thức của Phương Tây đã quá cách biệt với một
Á Đông nặng mùi vua chúa.
Một Nguyễn Trường Tộ chỉ đi nhìn cái phát triển của
người ta thì về có nói thế nào cũng chẳng thể thuyết phục
được Vua!!!
<div class="special_quote"><strong><a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD_Quang_Di%E1%BB%87u">Trích thông
tin về Lý Quang Diệu trên Wikipedia:</a></strong>
<h2>Thiếu thời</h2>
Lý Quang Diệu theo học tại trường tiểu học Telok Kurau, Học
viện Raffles và Đại học Raffles. Ông phải bỏ dở việc học
khi Nhật Bản chiếm đóng Singapore suốt những năm 1942-1945 trong
Đệ nhị thế chiến. Trong thời kỳ chiếm đóng, ông vận hành
hiệu quả những thương vụ chợ đen tiêu thụ một loại keo
tapioca gọi là Stikfas.[1] Bắt đầu học tiếng Hán và tiếng
Nhật từ năm 1942, ông làm việc với người Nhật trong công
việc của một người ghi chép những bức điện báo của phe
Đồng Minh, cũng như biên tập bản tiếng Anh cho tờ Hodobu
(報道部 — thuộc ban thông tin tuyên truyền của người Nhật)
từ năm 1943 đến năm 1944.[2][3]
Sau chiến tranh, ông theo học luật tại Đại học Fitzwilliam,
Đại học Cambridge tại Anh Quốc, và trong một thời gian ngắn,
theo học tại Trường Kinh tế Luân Đôn. Năm 1949, Lý Quang Diệu
trở về Singapore và hành nghề luật sư tại Laycock và Ong, một
công ty luật của John Laycock, một nhà tiên phong trong các hoạt
động đa chủng tộc, người cùng với A.P. Rajah và C.C. Tan,
thành lập câu lạc đa chủng đầu tiên tại Singapore, thâu
nhận người châu Á.
<h2>Sự nghiệp chính trị (1951–1959)</h2>
<h3>Trước thời kỳ Đảng Hành động Nhân dân</h3>
Kinh nghiệm đầu tiên của Lý Quang Diệu trên chính trường
Singapore là vai trò một nhân viên vận động bầu cử cho ông
chủ John Laycock dưới ngọn cờ của Đảng Tiến bộ (Progressive
Party) thân Anh, trong cuộc bầu cử hội đồng lập pháp năm
1951. Song, Lý Quang Diệu dần dần nhận ra hậu vận đen tối
của chính đảng này do thiếu sự ủng hộ của quần chúng,
nhất là của giới lao động thuộc cộng đồng nói tiếng Hoa.
Nhân tố này là đặc biệt quan trọng khi ủy ban Rendel, vào năm
1953, quyết định mở rộng quyền bầu cử cho tất cả người
dân sinh tại địa phương, làm gia tăng đáng kể số cử tri
người Hoa. Lý Quang Diệu tiến đến ngả rẽ chính trị của
mình khi ông tham gia tư vấn pháp lý cho các nghiệp đoàn thương
mại và sinh viên. Các nghiệp đoàn này cung cấp cho ông mối
quan hệ với giới công nhân nói tiếng Hoa (về sau, đảng Hành
động Nhân dân của ông sử dụng mối quan hệ lịch sử này
như là một công cụ đàm phán trong các tranh chấp công
nghiệp).
<h3>Thành lập Đảng Hành động Nhân dân</h3>
Ngày 21 tháng 11 năm 1954, Lý Quang Diệu cùng với một nhóm bạn
hữu thuộc giai cấp trung lưu có học vấn Anh, những người mà
ông miêu tả là "những tay tư sản nghiện bia", thành lập
Đảng Hành động Nhân dân (PAP - 人民行动党) có khuynh hướng
xã hội và liên minh với các nghiệp đoàn theo chủ nghĩa cộng
sản. Một hội nghị sáng lập được tổ chức tại Victoria
Memorial Hall, sảnh đường đầy cứng với 1.500 người ủng hộ
và thành viên nghiệp đoàn. Lý Quang Diệu trở thành Tổng thư
ký, chức vụ mà ông nắm giữ cho đến năm 1992, ngoại trừ
một thời gian ngắn trong năm 1957. Tunku Abdul Rahman của Đảng
UMNO và Tan Cheng Lock của MCA được mời làm quan khách nhằm
tăng uy tín cho đảng vừa mới ra đời.
<h3>Đối lập</h3>
Lý Quang Diệu ra tranh cử và giành được chiếc ghế đại
diện cho Tanjong Pagar trong cuộc tuyển cử năm 1955. Ông trở nên
nhà lãnh đạo phe đối lập, chống lại chính phủ liên hiệp
dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Lao động của David Saul
Marshall. Ông cũng là một trong số hai đại diện của PAP đến
tham dự những cuộc thương thảo về hiến pháp tổ chức tại
Luân Đôn; cuộc thương thảo lần thứ nhất đặt dưới sự
hướng dẫn của Marshall, lần thứ hai của Lim Yew Hock. Chính
trong giai đoạn này Lý Quang Diệu phải đấu tranh với các
đối thủ cả trong lẫn ngoài đảng PAP.
<h2>Thủ tướng, trước khi độc lập (1959–1965)</h2>
<h3>Chính phủ tự trị (1959-1963)</h3>
Trong cuộc bầu cử toàn quốc ngày 1 tháng 6 năm 1959, PAP giành
được 43 trong tổng số 51 ghế trong hội đồng lập pháp.
Singapore dành quyền tự trị trong mọi lĩnh vực của đất
nước ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao, Lý Quang Diệu trở
thành thủ tướng đầu tiên của quốc gia này vào ngày 3 tháng
6 năm 1959, thay thế thủ tướng Lim Yew Hock. Trước khi nhậm
chức ông yêu cầu trả tự do cho Lim Chin Siong và Devan Nair, hai
người này đã bị giam giữ bởi chính phủ Lim Yew Hock.
Sau khi giành được quyền tự trị từ tay người Anh, Singapore
phải đối diện với nhiều vấn đề xã hội như giáo dục,
nhà ở và tình trạng thất nghiệp. Lý Quang Diệu cho thành lập
Ban phát triển gia cư để bắt đầu chương trình xây dựng
chung cư hầu làm giảm nhẹ sự thiếu hụt nhà ở.
<h3>Sáp nhập rồi tách khỏi Malaysia (1963–1965)</h3>
Sau khi thủ tướng của Malaya, Tunku Abdul Rahman, đưa ra đề
nghị thành lập một liên bang bao gồm Mã Lai, Singapore, Sabah,
Sarawak và Brunei vào năm 1961, Lý Quang Diệu khởi phát chiến
dịch đòi sáp nhập với Malaysia với mục đích chấm dứt sự
cai trị của người Anh. Sử dụng những kết quả thu được
từ cuộc trưng cầu dân ý tổ chức ngày 1 tháng 9 năm 1962, theo
đó có đến 70% lá phiếu ủng hộ đề nghị của mình, Lý
Quang Diệu tuyên bố nhân dân đứng về phía ông. Suốt trong
chiến dịch Coldstore, Lý Quang Diệu tìm cách loại bỏ những
thành phần chống đối kế hoạch sáp nhập.
Ngày 16 tháng 9 năm 1963, Singapore trở nên một phần của Liên
bang Malaysia. Tuy nhiên, liên bang này không tồn tại được lâu.
Chính quyền trung ương Malaysia, dưới sự lãnh đạo của Tổ
chức Liên hiệp Dân tộc Mã Lai (UMNO), tỏ ra quan ngại về
thành phần đa số của người Hoa ở Singapore cũng như những
thách thức chính trị của PAP tại Malaysia. Lý Quang Diệu công
khai chống lại chủ trương dân tộc cực đoan Mã Lai (bumiputra).
Mối quan hệ giữa PAP và UMNO trở nên căng thẳng gay gắt. Một
số người trong UMNO muốn bắt giữ ông.
Bạo động chủng tộc bùng nổ sau đó gần Kallang Gasworks vào
dịp sinh nhật tiên tri Mohamet (ngày 21 tháng 6 năm 1964), có 25
người thiệt mạng khi người Hoa và người Mã Lai tấn công
lẫn nhau. Đến nay vẫn còn tranh cãi về nguyên nhân của cuộc
bạo động này, có người cho rằng một người Hoa đã ném chai
lọ vào đám đông người Mã Lai trong khi có người nghĩ ngược
lại, cho rằng một người Mã Lai đã làm điều này. Thêm
những vụ bạo động bùng nổ trong tháng 9 năm 1964, khi đám
đông cướp phá xe hơi và các cửa hiệu, khiến cả Tunku Abdul
Rahman và Lý Quang Diệu phải xuất hiện trước công chúng nhằm
xoa dịu tình hình. Trong lúc này giá thực phẩm tăng cao do tắc
nghẽn giao thông, làm cho tình hình càng xấu hơn.
Không tìm ra phương cách giải quyết cuộc khủng hoảng, Tunku
Abdul Rahman chọn lấy quyết định trục xuất Singapore ra khỏi
Malyasia, "cắt đứt mọi quan hệ với chính quyền của một
tiểu bang đã không đưa ra bất cứ biện pháp nào chứng tỏ
lòng trung thành với chính quyền trung ương". Lý Quang Diệu cố
gắng xoay sở để tìm ra một thỏa hiệp nhưng không thành
công. Sau đó, do sự thuyết phục của Ngô Khánh Thụy (Goh Keng
Swee), ông nhận ra rằng ly khai là điều không thể tránh khỏi.
Ngày 7 tháng 8 năm 1965, Lý Quang Diệu ký thoả ước ly khai, trong
đó có bàn về mối quan hệ sau ly khai với Malaysia hầu có thể
tiếp tục duy trì sự hợp tác trong những lãnh vực như thương
mại và quốc phòng.
Đây là một đòn nặng đánh vào Lý Quang Diệu, vì ông tin
rằng sự hợp nhất là yếu tố căn cốt cho sự tồn vong của
Singapore. Trong cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp, oà
vỡ trong xúc cảm, Lý Quang Diệu thông báo với dân chúng về
quyết định ly khai:
"<em>Đối với tôi, đây là một khoảnh khắc đau thương.
Suốt cuộc đời tôi, suốt cuộc đời trưởng thành của tôi,
tôi luôn tin tưởng vào sự kết hợp và thống nhất của hai
vùng lãnh thổ... Ngay lúc này, tôi, Lý Quang Diệu, Thủ tướng
Singapore, nhân danh nhân dân và chính quyền Singapore, tuyên bố
rằng kể từ hôm nay, ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore sẽ vĩnh
viễn là một quốc gia độc lập, dân chủ với đầy đủ chủ
quyền, lập nền trên những nguyên lý của quyền tự do và
công bằng hầu mưu tìm phúc lợi và hạnh phúc cho nhân dân
đang sinh sống trong một xã hội tối hảo, công bằng và bình
đẳng.</em>"
Cũng trong ngày ấy, 9 tháng 8 năm 1965, Quốc hội Malaysia biểu
quyết thông qua nghị quyết cắt đứt quan hệ với tiểu bang
Singapore, như vậy nước Cộng hoà Singapore được hình thành.
Tân quốc không có tài nguyên thiên nhiên, không có nguồn nước
và khả năng quốc phòng thì hết sức nhỏ bé. Nay Lý Quang
Diệu phải đứng ra gánh vác trọng trách xây dựng đảo quốc
mới vừa được khai sinh này.
<h3>Thủ tướng, sau độc lập (1965–1990)</h3>
Trong quyển hồi ký của mình, Lý Quang Diệu nói rằng ông không
thể ngủ ngon và ngã bệnh sau ngày Singapore độc lập. Sau khi
nghe Cao uỷ John Robb tường trình về hoàn cảnh của Lý Quang
Diệu, Thủ tướng Anh Harold Wilson bày tỏ những quan ngại của
mình và nhận được phúc đáp của Lý Quang Diệu:
"<em>Đừng lo cho Singapore. Đồng sự của tôi và tôi là những
người tỉnh táo và chừng mực, ngay cả trong thời điểm đau
buồn này. Chúng tôi sẽ cân nhắc mọi hệ lụy có thể xảy ra
khi quyết định cho bất cứ động thái nào trên bàn cờ chính
trị...</em>"
Lý Quang Diệu khởi sự tìm kiếm sự công nhận của quốc tế
cho quốc gia Singapore độc lập. Ngày 21 tháng 9 năm 1965, Singapore
gia nhập Liên Hiệp Quốc, và ngày 8 tháng 8 năm 1967, gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 25 tháng 5 năm
1973, Lý Quang Diệu chính thức viếng thăm Indonesia, chỉ vài năm
sau chính sách đối đầu (Konfrontasi) dưới chế độ của
Sukarno. Quan hệ giữa Singapore và Indonesia có những bước cải
thiện căn bản nhờ những cuộc viếng thăm qua lại sau đó
giữa hai nước.
Vì Singapore chưa bao giờ có một nền văn hoá chủ đạo để
dân nhập cư có thể hoà nhập, cũng không có một ngôn ngữ
chung, trong hai thập niên 1970 và 1980, cùng với các nỗ lực từ
chính phủ và đảng cầm quyền, Lý Quang Diệu cố gắng kiến
tạo một bản sắc chung cho Singapore.
Lý Quang Diệu và chính quyền luôn nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của chủ trương bao dung tôn giáo và hoà hợp chủng
tộc, sẵn sàng sử dụng luật pháp để chống lại bất kỳ
hiểm hoạ nào có thể kích hoạt bạo động tôn giáo và chủng
tộc. Điển hình, Lý Quang Diệu đã cảnh cáo "việc truyền bá
phúc âm cách thiếu nhạy cảm" khi đề cập đến những
trường hợp các tín hữu Cơ Đốc chia sẻ đức tin của mình
cho người Mã Lai (tuyệt đại đa số theo Hồi giáo). Năm 1974,
chính phủ khuyến cáo Thánh Kinh Hội Singapore nên ngưng xuất
bản các ấn phẩm tôn giáo bằng tiếng Mã Lai.[4]
<h3>Chính sách</h3>
Trong cương vị lãnh đạo quốc gia suốt trong thời kỳ hậu
độc lập, ông Lý có ba mối quan tâm chính: an ninh quốc gia,
kinh tế và những vấn đề xã hội.
<h4>An ninh quốc gia</h4>
Tính dễ bị tổn thương của Singapore luôn được cảm nhận
sâu sắc khi xảy ra các mối đe doạ từ nhiều phía khác nhau,
trong đó có Indonesia (với chính sách đối đầu), cũng như
thành phần cực đoan trong đảng UMNO, những người này muốn
đem Singapore trở về với Malaysia. Ngay khi Singapore được gia
nhập Liên Hiệp Quốc, Lý Quang Diệu vội vàng tìm kiếm sự
công nhận của quốc tế dành cho nước Singapore độc lập. Theo
gương Thuỵ Sĩ, ông tuyên bố chính sách trung lập và không
liên kết. Cùng lúc, ông giao cho Ngô Khánh Thụy trọng trách xây
dựng Lực lượng vũ trang Singapore và xin trợ giúp từ các
quốc gia khác trong các lãnh vực tư vấn, huấn luyện và cung
ứng quân dụng.
Năm 1967, khi người Anh tỏ ý cắt giảm hoặc triệt thoái quân
đội khỏi Singapore và Malaysia, Lý Quang Diệu và Goh đưa ra
chương trình quân dịch National Service nhằm phát triển một
lực lượng trừ bị qui mô có thể huy động trong một thời
gian ngắn. Tháng 1 năm 1968, ông mua một ít xe tăng AMX-13 do Pháp
chế tạo, đến năm 1972, tổng số xe tăng tân trang được mua
là 72 chiếc.
Sau này, Singapore thiết lập quan hệ quân sự với các quốc gia
thành viên của ASEAN, với Hiệp ước Phòng thủ Ngũ Cường
(Five-Powers Defense Agreement, FPDA) và các nước khác, giúp phục
hồi nền an ninh quốc gia sau cuộc triệt thoái ngày 31 tháng 10
năm 1971 của quân đội Anh.
<h4>Kinh tế</h4>
Tách rời khỏi Malaysia có nghĩa là mất luôn thị trường chung
và thị trường nội địa. Khó khăn càng chồng chất khi quân
đội Anh triệt thoái làm mất thêm 50.000 chỗ làm. Mặc dù
người Anh ủng hộ những cam kết trước đó duy trì các căn
cứ quân sự cho đến năm 1975, Lý Quang Diệu không muốn làm
căng thẳng mối quan hệ với Luân Đôn. Ông tìm cách thuyết
phục Harold Wilson cho phép chuyển đổi các cơ sở quân sự (như
xưởng sửa chữa và đóng tàu của hải quân) cho các mục
đích dân sự, thay vì phá huỷ chúng như theo luật của nước
Anh. Với sự tư vấn của Tiến sĩ Albert Winsemius, Lý Quang Diệu
dẫn đưa Singapore vào con đường công nghiệp hoá. Năm 1961, Ban
Phát triển Kinh tế được thành lập với nhiệm vụ thu hút
đầu tư nước ngoài, đưa ra những ưu đãi thuế hấp dẫn và
xây dựng một lực lượng lao động lương thấp nhưng có kỷ
luật lao động và tay nghề cao. Đồng thời chính phủ duy trì
biện pháp kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế, ban hành những qui
định về phân phối đất đai, lao động và nguồn vốn. Tiến
hành xây dựng hạ tầng cơ sở hiện đại như phi trường,
hải cảng, đường sá và mạng lưới truyền thông. Ban Xúc
tiến Du lịch cũng được thành lập để phát triển du lịch
và tạo thêm việc làm. Trong vai trò lãnh đạo công cuộc xây
dựng và phát triển nền kinh tế Singapore, Lý Quang Diệu nhận
được sự hỗ trợ từ những bộ trưởng tài năng nhất,
đặc biệt là Goh Keng Swee và Hon Sui sen. Họ cố xoay sở để
hạ giảm tỷ lệ người thất nghiệp từ 14% trong năm 1965
xuống còn 4,5% vào năm 1973.
[sửa] Ấn định ngôn ngữ chính thức
Lý Quang Diệu chọn Anh ngữ là ngôn ngữ công sở và ngôn ngữ
chung cho các chủng tộc khác nhau, trong khi vẫn công nhận tiếng
Mã Lai, tiếng Trung Hoa và tiếng Tamil là ngôn ngữ chính thức.
Hầu hết trường học đều sử dụng tiếng Anh như là chuyển
ngữ cho học tập, mặc dù tiếng mẹ đẻ vẫn được dạy
trong trường học.
Lý Quang Diệu khuyến khích người dân ngưng sử dụng các
phương ngữ của tiếng Hoa, và phát triển tiếng Phổ thông
(Standard Mandarin) như một ngôn ngữ thay thế, chiếm lấy vị
trí "tiếng mẹ đẻ" với mục tiêu xây dựng một ngôn ngữ
giao tiếp chung cho cộng đồng người Hoa. Năm 1979, Lý Quang
Diệu chính thức phát động phong trào nói tiếng Hoa phổ thông.
Ông cho hủy bỏ tất cả chương trình truyền hình bằng tiếng
địa phương, ngoại trừ các chương trình tin tức và nhạc
kịch (phục vụ cho người lớn tuổi). Biện pháp này đã làm
suy tàn các phương ngữ của tiếng Hoa; ngày nay người ta nhận
ra rằng giới trẻ Singapore gốc Hoa không còn thông thạo khi sử
dụng phương ngữ tiếng Hoa, vì vậy họ gặp nhiều khó khăn
khi tiếp xúc với ông bà của họ là những người chỉ biết
nói tiếng Hoa địa phương.
Trong thập kỷ 1970, sinh viên tốt nghiệp từ Đại học Nanyang
nói tiếng Hoa gặp trở ngại khi kiếm việc làm vì không thông
thạo tiếng Anh, ngôn ngữ cần có tại chỗ làm, đặc biệt là
trong khu vực công. Lý Quang Diệu phải sử dụng biện pháp
triệt để bằng cách sáp nhập Đại học Nanyang vào Đại học
Singapore để trở thành Đại học Quốc gia Singapore. Động thái
này gây ảnh hưởng lớn trên các giáo sư nói tiếng Hoa vì họ
buộc phải dạy bằng tiếng Anh. Những người có công xây
dựng Đại học Nanyang cũng lên tiếng chống đối vì những
tình cảm ràng buộc với trường này.
<h4>Qui chế chính phủ</h4>
Giống các quốc gia châu Á khác, Singapore cũng không miễn nhiễm
đối với nạn tham nhũng. Lý Quang Diệu nhận thức rõ rằng
tham nhũng là một trong những nguyên do dẫn đến sự sụp đổ
của chính quyền Trung Hoa Dân quốc tại Trung Hoa. Ông ban hành
những luật lệ cần thiết dành cho Văn phòng Điều tra Tham
nhũng (Corrupt Practices Investigation Bureau, CPIB) nhiều quyền hạn
hơn để bắt giữ, lục soát, triệu tập nhân chứng, điều tra
các tài khoản ngân hàng và các khoản hoàn trả thuế lợi tức
của những cá nhân bị tình nghi cùng với gia đình của họ.
Với sự ủng hộ của Lý Quang Diệu, CPIB được giao thẩm
quyền tiến hành các cuộc điều tra đối với bất kỳ viên
chức hoặc bộ trưởng nào. Trong thực tế, sau đó đã có vài
bộ trưởng bị cáo buộc tham nhũng.
Lý Quang Diệu tin rằng các bộ trưởng nên được trả lương
cao để duy trì một chính quyền sạch và chân thật. Năm 1994,
ông đề nghị nối kết mức lương của bộ trưởng, thẩm
phán và viên chức công quyền cao cấp với mức lương của
giới chuyên nghiệp hàng đầu trong khu vực tư, vì ông cho rằng
như thế sẽ giúp tuyển mộ và duy trì nhiều tài năng phục
vụ trong khu vực công.
Năm 1983, Lý Quang Diệu gây ra nhiều tranh cãi gay gắt về hôn
nhân khi ông lên tiếng khuyến khích nam giới Singapore kết hôn
với phụ nữ thuộc thành phần học thức. Ông bày tỏ mối
quan ngại khi hiện có nhiều phụ nữ đã tốt nghiệp đại
học vẫn chưa lập gia đình. Một số nhóm dân cư, trong đó có
những phụ nữ tốt nghiệp đại học, tỏ ra giận dữ vì quan
điểm này. Dù vậy, một cơ quan môi giới hôn nhân, Social
Development Unit, đã được thành lập nhằm tạo điều kiện giao
tiếp cho những người tốt nghiệp đại học của cả hai
giới. Ông cũng đưa ra những biện pháp khuyến khích các bà
mẹ học thức có ba hoặc bốn con, đảo ngược chiến dịch
kế hoạch hoá gia đình "chỉ nên có hai con" trong hai thập niên
1960 và 1970.</div>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/7041), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét