Dương Thu Hương - Để gọi tên sự vật một cách rõ ràng – Phần 1: Lợi quyền

Sáng ngày 27 tháng 10 năm 2010 toà án tỉnh Trà Vinh đã kết án
ba nhà sáng lập công đoàn Tự do với mức án khiến công chúng
kinh ngạc hoặc kinh hoàng.

- Anh Nguyễn Hoàng Quốc Hùng chịu án chín năm tù giam.

- Anh Đoàn huy Chương chịu án bẩy năm tù giam.

- Chị Đỗ thị Minh Hạnh chịu án bẩy năm tù giam.

<div class="boxright400"><img src="http://danluan.org/files/u1/tucongsan.jpg"
width="400" height="179" alt="tucongsan.jpg" /><div
class="textholder">Những người tù cộng sản (Nguồn:
baovelaodong.com)</div></div>
Thấy dư luận xôn xao một cách thái quá, tôi xin góp đôi lời
bình về nỗi kinh ngạc hoặc kinh hoàng của dân ta. Bởi vì,
từ sự kiện này, chúng ta có cơ hội để phân tích hiện
trạng đất nước một cách bao quát.

Hai tính từ "kinh ngạc" và "kinh hoàng" đều chỉ một
hiện tượng: sự vật bất bình thường, hoặc chưa bao giờ
thấy, hoặc phi logic, hoặc quá liều lượng cũng như chiều
kích quen thuộc, và tất cả các đặc điểm trên khiến người
ta ngờ vực.

Chúng có một điểm khác biệt: kinh ngạc chỉ trạng thái sửng
sốt, bất tin một cách thuần tuý.

Kinh hoàng, bao gồm cả sự ngạc nhiên lẫn sự sợ hãi, sợ
hãi đến tê liệt, và điều này đối với nhà cầm quyền quan
trọng hơn. Nói một cách thẳng thừng, đây là hiệu ứng mà
nhà cầm quyền Hà Nội cố tình tìm kiếm. Bất cứ chế độ
độc tài nào cũng dùng các vụ xử án như một vũ khí đặc
biệt hiệu nghiệm để trấn áp những kẻ đối lập và hù
doạ dân chúng, biện pháp này tuy cổ điển nhưng chưa bao giờ
lỗi thời.

Trở lại sự việc cụ thể là vụ xử án ba nhà sáng lập
công đoàn Tự do: Tại sao họ lãnh án nặng đến như vậy?
Phải chăng đây là cơn bốc đồng của một ông quan toà tỉnh
lẻ vì bị vợ cắm sừng hay mắc chứng táo bón trầm kha nên
trút nỗi oán hơn lên đầu kẻ khác, hoặc phải chăng đây là
sự nhầm lẫn do lơ là, do vô ý, và một khi đã nhỡ nhầm thì
các quan lớn không muốn rút lại lời?...

Tôi không tin vào những chuyện cắc cớ như vậy cho dù chúng
vẫn thường xẩy ra trong cuộc đời. Đối với người cầm
quyền Hà Nội, án của ba thanh niên sáng lập công đoàn tự do
kia là xứng với tội danh của họ, thậm chí còn quá nhẹ.
Nếu không e ngại sự phản ứng dội vào từ phía ngoài biên
giới, ắt các án này còn cộng thêm nhiều năm cấm cố nếu
chẳng phải là chung thân.

Hơn tất cả các thứ đảng phái đối lập, hơn mọi lời
tuyên bố hùng hồn, văn vẻ của các bậc mũ cao áo dài, ba kẻ
bình dân kia mới thực sự là mối đe doạ của họ, mối đe
doạ sờ thấy được, ngửi thấy được, hình dung được một
cách rõ ràng, mối đe doạ xác lập trên các nghiệm sinh.

Nghiệm sinh của con người vốn là phần cốt lõi nhất trong
nhận thức của họ đối với thế giới xung quanh cũng như
với chính bản thân, nghiệm sinh là kiến thức trực tiếp,
yếu tố thứ nhất trong cấu tạo nền, mà yếu tố thứ hai là
sự tổng hoà, sự điều tiết giữa bản năng với các kiến
thức mà họ thâu nhận được trong quá trình sống theo cách
gián tiếp (giáo dục, học hành, trao đổi với tha nhân).

Nếu như cuộc đời của một con người có các ngã rẽ, có
các chuyển hướng căn bản thì những sự kiện trọng đại
này thường xảy ra dưới áp lực của nghiệm sinh, vì lẽ các
kiến thức trực tiếp luôn luôn là động năng tiên quyết
điều khiển hành vi cũng như ứng xử của con người.

Nhà cầm quyền Hà Nội sợ hãi ba thanh niên đứng lên cầm
ngọn cờ của những người lao động bởi vì ba người này là
vọng âm, là hình ảnh phản chiếu, là bản sao lại của chính
bản thân họ vào những năm tiền khởi nghĩa, những năm mà
"quốc tế ca của những người lao động" vang vọng khắp
nửa địa cầu:

<em>Vùng lên, hỡi các nô lệ của thế gian,</em>
<em>Vùng lên, hỡi ai cực khổ bần hàn,</em>
<em>Đấu tranh này là trận cuối cùng...</em>

Nói cho rõ ràng hơn, có thể ví hai chàng trai và cô gái đứng
sau vành móng ngựa của toà án tỉnh Trà Vinh ngày hôm nay như
đoạn phim chiếu lại hình ảnh người cộng sản những năm
cuối thập kỉ 30 sang thập kỉ 40 khi họ đứng sau vành móng
ngựa của các toà án thực dân, khi họ sôi sục nhiệt tình
cách mạng và sẵn sàng quên mình vì độc lập của dân tộc.

Do tinh thần hy sinh và lòng can đảm cộng với các ưu thế
đương thời, người cộng sản đã thành công trong khi rất
nhiều chàng trai yêu nước dấn thân vào các xu thế chính trị
khác, cũng đầy lòng hy sinh và thừa dũng khí, nhưng không đi
đến được thắng lợi cuối cùng.

Hãy nhắc tên Nguyễn Thái Học như biểu tượng của lớp
người này, dù không đạt được vinh quang, nhưng họ vẫn
sống mãi trong lòng dân tộc và bất cứ người Việt yêu
nước nào cũng phải xây trong tim mình một đài tưởng niệm
cho những anh hùng bất đắc chí.

Như thế, chính quyền cộng sản được dựng lên ngày
02/09/1945. Từ năm 1945 đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua,
các chàng trai cộng sản năm ấy giờ ở đâu? Họ là ai?

Đương nhiên, nói theo nghĩa xác thực thì rất nhiều người
trong số họ đã qua đời. Những người còn lại như ông Đỗ
Mười, ông Lê Đức Anh và một số khác đã trở thành các tù
trưởng bộ lạc, các lão trượng ngồi trên đống vàng, con
cháu họ hàng của họ đoàn đoàn lũ lũ lúc nhúc chia nhau cầm
nắm các vị trí then chốt, các rường cột của quốc gia, chia
chác nhau các mối lời béo bở, tha hồ đục khoét ngân khố,
đương nhiên thụ hưởng toàn bộ lợi quyền mà hàng chục
triệu người dân Việt nam đã đổ xương đổ máu để giành
lấy. Vậy thì bài ca "quốc tế lao động" khi dịch lời sang
tiếng Việt đã ứng nghiệm một trăm phần trăm câu hát này:

<em>Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình!</em>

BAO NHIÊU LỢI QUYỀN ẮT QUA TAY MÌNH!

Đó là một ước muốn mãnh liệt nhưng kém phần phần thuận
lý và hoàn toàn thiếu vắng tinh thần cao thượng.

Năm 1988, khi nói chuyện tại câu lạc bộ Trí thức Sài gòn,
tôi đã chỉ ra đích danh câu hát này, nó phản chiếu một cách
vô thức chí hướng cũng như tâm tư những người cộng sản
Việt Nam mà ở đó, toát ra một cách không thể che giấu, lòng
tham vô độ cũng như khát vọng thống trị tuyệt đối.

Trong bất cứ xã hội nào, khi một nhóm người đã chủ tâm
thâu tóm toàn bộ lợi quyền vào tay mình thì xã hội đó ắt
không thể tồn tại lâu dài bởi vì từ cổ chí kim, xã hội
nào cũng hình thành trên sự cộng sinh, sự cộng sinh đòi hỏi
sự tồn tại cùng một lần nhiều lớp người khác biệt và do
đó phải có một đường lối chính trị thích hợp để cho
mọi công dân đều có quyền lao động, sống, thụ hưởng cũng
như có cơ hội phát triển. Điều này ở phương Tây người ta
gọi là "Bình đẳng về cơ may cho mọi người", còn ở
nước Việt trong các triều đình thịnh vượng trước đây,
tinh thần đó được phản chiếu một cách nôm na trong câu
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Nếu kẻ cầm quyền chỉ
nghĩ đến mối lời của chính họ, ắt những nhóm người khác
sẽ bị đẩy sang bên lề, bị tước đoạt, bị bần cùng hoá,
nô lệ hoá, chịu đựng sự nhục mạ và nỗi đau khổ với
các phương thức khác biệt, và như thế, con đường khởi
loạn ắt không tránh khỏi.

Đừng quên rằng chính quyền Hà Nội hình thành được là nhờ
ân sủng của cuộc cách mạng tháng tám. Cuộc cách mạng tháng
tám thành công vì nó dựa trên hào khí của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, cảm hứng chủ yếu của phong trào này là
ý chí tự chủ, sự kế tục truyền thống từ các khởi nghĩa
Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng
Đạo, Lê Lợi, Quang Trung...

Một nghìn năm nô lệ giặc Tầu, tiếp đến một trăm năm nô
lệ giặc Tây, trong vô thức dân tộc, đó là một dòng chảy
không ngưng nghỉ của một cuộc kháng chiến không ngưng nghỉ,
dẫu rằng có những giai đoạn chìm trong bóng tối lặng câm
của máu và nước mắt. Nếu ông Hồ chí Minh không biết bắt
chước (hoặc học hỏi, nói một cách văn chương hơn) các vua
xưa để đoàn kết dân chúng, làm sao có chín năm kháng chiến
thành công? Nếu những người dân Việt không quên thân vì tổ
quốc, làm sao có thể xẻ dọc trường sơn đi cứu nước? Các
cuộc chiến tranh này chẳng là gì khác hơn sự kéo dài các
cuộc chiến tranh chống xâm lăng của Trần Hưng Đạo, Lý
thường Kiệt, Nguyễn Huệ Quang Trung. Chiến thắng Điện biên
Phủ chẳng là một công trình duy nhất, là hiện tượng đơn
lẻ trong lịch sử Việt Nam mà nó chỉ là sự thay đổi địa
dư và tên gọi của các trận thuỷ chiến Bạch Đằng, của
trận chiến oanh liệt trên Gò Đống Đa.

Tuy nhiên, chế độ cộng sản Hà Nội đã núp dưới bóng ngọn
cờ liềm búa, với chủ thuyết đấu tranh giai cấp của Mác
như một người đàn bà Việt Nam cạo răng đen để lấy bộ
răng có mầu cải mả và đổi bộ váy chùng sang chiếc quần.
Phải nói rằng sự chọn lựa đó có tính định mệnh, kèm theo
nó là các ưu thế tạm thời cùng những yếu tố phản động
có tác hại lâu dài về mặt lịch sử.

Số phận một dân tộc cũng giống như số phận một con
người, thường bị quyết định hoặc bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố nằm bên ngoài ý chí của chính họ. Vì thế,
chúng ta không đặt lại vấn đề bằng những cụm từ "giả
sử" hay "nếu như" bởi trong thực tiễn, các danh từ này
là vô nghĩa. Điều chúng ta cần quan tâm là xã hội Việt Nam
hiện nay, năm tháng này, bởi hiện tại và tương lai là các
vấn đề khẩn cấp trong sinh tồn của một dân tộc.

Nếu coi chế độ cộng sản như một thứ triều đình, để
tiện so sánh với các triều đình trong quá khứ như triều Lê,
triều Lý, triều Trần, thì thứ chính trị mà chính quyền Hà
Nội thực thi là thứ chính trị phi nhân, bất nghĩa, tham tàn
nhất trong lịch sử Việt Nam. Sáu mươi lăm năm chỉ là một
chớp mắt so với vĩnh hằng, nhưng quãng thời gian đó đã bộc
lộ đầy đủ quá trình thối rữa của bộ máy quyền lực mà
khởi thuỷ, ra đời được là nhờ sự ủng hộ của đại bộ
phận dân chúng, bởi dân chúng tin vào các tiêu chí họ nêu
lên:

Một chính quyền Nhờ dân, Do dân, và Vì dân.

Kiểm lại các sự kiện, ta thấy rằng:

Nếu sau chiến tranh, vua Trần đã quăng tráp đựng hồ sơ
những người cộng sự với Tầu vào lửa để xoá đi một quá
khứ nô lệ, để hoà giải mọi thành phần dân tộc, để có
đủ hào khí viết nên trang sử mới cho đất nước thì ngược
lại, sau năm 1975, nhà cầm quyền cộng sản đã bắt bớ, đàn
áp, giam giữ, hành nhục hàng trăm ngàn binh sĩ của chính quyền
miền Nam trong các trại tù khổng lồ, là tác nhân gây ra cuộc
vượt biển tập thể chưa từng thấy trong lịch sử thế giới
về mặt quy mô cũng như về tính tàn khốc.

<em>Thuyền nhân!</em>

Đó là danh từ độc đáo mà chính quyền Hà Nội đã sáng tạo
ra. Danh từ này được dùng với một mật độ dày đặc trên
các phương tiện thông tin toàn trái đất trong một quãng thời
gian dài, từ những năm cuối thập kỉ 70, qua suốt thập kỉ
80, cho đến những năm đầu của thập kỉ 90. Danh từ này mô
tả cuộc di dân kinh hoàng, bằng chứng sống động về tội ác
của nhà nước cộng sản Việt Nam, gây phẫn nộ lẫn sự khinh
bỉ một cách rộng rãi trên dư luận toàn thế giới.

Danh từ "Thuyền nhân" sẽ mãi mãi vĩnh định trong tất cả
các cuốn tự điển của nhân loại, để ghi nhận khả năng
độc ác và sự man rợ của con người đối với con người,
một hiện tượng được liệt kê sau các lò thiêu Do Thái của
Đức và quần đảo Goulag của Nga. Ở các nước châu Âu, nơi
cuộc chiến tranh chống Mỹ được nêu lên như bằng cớ về
tinh thần bất khuất của dân tộc Việt, thì tiếp theo đó,
danh từ "Thuyền nhân" trở thành biểu tượng của thần
tượng sụp đổ, của tội ác bị lộ diện, nói cách khác:
mặt trái của tấm mề đay.

Thời xưa, sau các cuộc chiến tranh khi nhân tài, vật lực hao
tổn, các vua Lý vua Trần đã ban hành chính sách khuyến khích
sản xuất, cổ vũ dân cầy để tu tạo lại xã tắc giang sơn,
do đó triều đình của họ mới bền vững.

Bất kể là ai, khi đã khoác long bào đều phải ghi xương khắc
cốt câu "Chở thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là
dân", cho nên sự vỗ về dân chúng không thời nào được lơi
lỏng. Một khi triều đình quay lưng lại dân chúng, chỉ lo tham
lam vơ vét cho đầy túi, chỉ lo thoả mãn lòng dục của bản
thân, lúc ấy vua quan đã biến thành một lũ thú vật chỉ lo
liếm láp bộ lông của chính mình, ắt giặc giã phải nổi lên
khắp nơi và triều đình phải đi đến sự huỷ diệt.

Nhìn lại thời Mạt Trần là thấy rõ. Từ ngày khởi lập nhà
Trần cho đến năm Hồ Quý Ly đoạt ngôi là bao nhiêu năm tháng?
Từ 1225 đến 1400 là 175 năm. Một trăm bảy mươi lăm năm dẫn
từ vàng son đến tro bụi, đó là thời gian cho quá trình thối
rữa. Khá ngắn ngủi so với các triều vua phương Bắc nhưng
lại quá dài so với chế độ Hà Nội.

Vào năm 1287, triều Trần tròn 62 tuổi, tướng Trần Hưng Đạo
còn đủ uy tín, tài lực để làm cuộc kháng chiến vĩ đại
chống quân Mông. Năm nay, chính quyền Hà Nội 65 tuổi, giả như
bây giờ quân xâm lược kéo đến, liệu họ còn khả năng như
tướng Trần Hưng Đạo năm xưa? Liệu trong đám các uỷ viên
ngồi quanh bàn họp bộ chính trị, ai đủ nhân cách để đứng
lên hô hào dân chúng?

Không cần đọc tin tức và các bình phẩm trên các site Internet,
bởi những người sử dụng phương tiện này đã nghiễm nhiên
được coi như "bộ phận tinh hoa" của xã hội, chỉ cần
lắng nghe lời đám bình dân kháo nhau nơi quán xá một cách vô
cùng hài hước và chua chát cũng có thể hiểu được thái độ
của họ.

Nào là "bọn Vinashin thuộc phe thằng Dũng xỉn, chắc thằng
khác muốn nhoi lên trong đại hội đảng kì tới nên lôi vụ
này ra. Nếu tính đếm, còn bao nhiêu vụ Vinashin chưa bị lòi
mặt?" Nào là "Con gái thằng Dũng xỉn nắm yết hầu ngành
ngân hàng, liệu bố con nó có dưới hay trên một tỷ đô la?"
Nào là "Đố các ông ai là tác giả vụ bô-xít? Thằng Dũng
xỉn kí nhưng kẻ giật dây lại chính là Tô Huy Rứa. Phải
chăng thằng này là hậu duệ của lão Tô Định mấy ngàn năm
xưa?" Nào là "Lão Nông Đức Mạnh đi đêm với bọn Tầu bao
nhiêu lượt? Nghe đồn chúng nó ngầm bán đất cho Tầu lấy 5
tỷ đô la. Tất thảy các con số công bố trên báo chí đều
là con số rởm". Nào là "Trong mười năm vừa qua, mụ
Trương Mỹ Heo và gia tộc nó đã cướp được bao nhiêu đất
của dân cày?" Vân vân và vân vân...

Những lời bình phẩm quanh mâm cơm, quanh ấm trà thường nhật
khá đủ để đo đếm mức độ khinh bỉ của dân đen đối
với kẻ cầm quyền. Như thế, so với các triều đại cũ, quá
trình băng hoại của chính quyền Hà Nội xảy ra một cách quá
nhanh chóng, nói cách khác, quá trình thối rữa này được tính
theo cấp số luỹ thừa. Nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng
này? Tôi cho rằng lý do đầu tiên là sự kiêu ngạo của nhà
cầm quyền Hà Nội, lòng kiêu ngạo mà chính họ tự nhận là
"Lòng kiêu ngạo cộng sản".

Lòng kiêu ngạo cũng giống như lòng tham, làm mờ mắt con
người. Mắt đã mờ thì tai cũng dễ điếc theo và trí nhớ
trở nên cùn nhụt. Những người cộng sản Việt Nam mắc bệnh
Alzheimer quá sớm. Họ ngửa mặt lên trời vênh vang hô không
mệt mỏi "Chiến thắng Điện Biên Phủ", đinh ninh rằng đó
là thành công của riêng họ.

Họ đã quên rằng Điện Biên Phủ có được là nhờ hàng
chục ngàn binh sĩ dũi đất, đào hầm, kéo pháo vượt núi
đèo, hàng trăm ngàn dân công khắp các miền thồ lúa gạo ra
tiền tuyến. Những con người này hy sinh vì nền độc lập
của dân tộc, đương nhiên, nhưng cũng đồng thời hy vọng vào
một ngày mai tươi sáng khi khẩu hiệu "Người cày có
ruộng" trở thành hiện thực.

Kẻ cầm quyền cộng sản cũng lại quên rằng cuộc kháng
chiến chống Pháp thành công là nhờ vào hàng nghìn gia đình
hữu sản dốc vàng, đổ tiền nuôi tướng lẫn nuôi quân như
ông bà Trịnh văn Bô, như giám đốc nhà máy in tiền Con Trâu
Xanh, như bà Nguyễn Thị Năm, như cụ Cửu...

Ông Trường Chinh cũng như đa phần các đồng chí của ông ta
từng ăn mòn bát tại nhà bà Nguyễn Thị Năm, các binh đoàn
liên tục đến đó đóng quân vật hết đàn bò này đến đàn
lợn kia ra ngả thịt. Thế nhưng, sự thật hiển nhiên cho thấy
bà Năm là người đầu tiên bị bắn trong cải cách ruộng
đất cùng cụ Cử, sau đó đến lượt hàng vạn người yêu
nước khác, những người móc hầu bao lấy đến đồng xu cuối
cùng để mua thóc gạo, thuốc men và quần áo gửi ra chiến
trường.

Về phía những người nông dân, phần cay đắng cũng không thua
kém. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua, nhưng khẩu hiệu "Người
cày có ruộng" cho đến ngày hôm nay vẫn chỉ là một lời
dối trá không e thẹn, và người cày, thay vì là nô điền cho
chánh tổng, lý trưởng, địa chủ trở thành nô điền cho các
cán bộ đảng.

Vậy thì, đối với tầng lớp hữu sản, người cộng sản
cầm quyền là lũ vô ơn, ăn cháo đái bát, còn đối với đám
nông dân cùng khổ thì họ là kẻ lừa đảo trắng trợn không
mảy may áy náy lương tâm. Những chiếc răng chó sói luôn luôn
là răng chó sói, dù chúng sơn đen hay để trắng, kẻ tham tàn
dù nói lời lẽ nào vẫn là kẻ tham tàn. Hiện thực mạnh hơn
mọi thứ xảo ngôn. Lá cờ búa liềm vẫn được kéo lên mỗi
kì họp đảng, nhưng liệu còn ai tin rằng những kẻ đứng giơ
tay chào lá cờ này còn là những người vô sản, đang nỗ lực
tranh đấu cho các giai cấp bần cùng?

Câu trả lời sẽ là: Có! Vẫn còn những người tin vào điều
đó, ấy là các con bệnh tâm thần, những ai đang sống trong
trại điên Trâu Quỳ, đang ở nhà thương điên Đà Nẵng, hoặc
các cơ sở chữa trị tâm thần khác trên đất nước. Tóm
lại, những kẻ mất trí nhớ, những kẻ đập vỡ đồng hồ
từ năm Con Ngựa (1954), hoặc những người bị bệnh Down.

Đại bộ phận dân chúng đều biết các quan chức cộng sản
giờ đây đang sống ra sao. Họ đang xuỳ tiền mở các resorts,
tức là các khu nghỉ mát cao cấp để hứng khách nước ngoài.
Họ cưỡi máy bay sang Hồng Kông để đánh bạc và chơi gái.
Họ có ngân khoản khắp các nhà băng trên thế giới, từ Thụy
Sỹ đến Washington, từ Singapore đến Bangkok, từ Paris sang
Berlin. Con cái họ đặt mua váy cưới tại các tiệm sang nhất
trên đại lộ Champs Elysées, mỗi chiếc váy giá từ 130.000
đến 210.000 euros. Vợ lớn vợ bé hoặc gái bao của họ cưỡi
các loại ô tô đắt tiền, các loại xe mà những người ngoại
quốc làm việc tại Hà Nội hay Sài Gòn nhìn thấy phải tái
mặt. Được như vậy là vì họ đã thực hiện một cách
tuyệt vời câu ca "Bao nhiêu lợi quyền ắt qua tay mình"!

Chỉ một câu này thôi, đủ lý giải mọi chính sách được
thực thi trên đất nước từ nửa thế kỉ nay.

Cho nên, xét trên phương diện tính thực dụng thì lá cờ liềm
búa lúc này là thứ bùa hộ mệnh, tuy đã lợt mầu, nhưng vẫn
còn hữu hiệu.

Trước hết, nó được sử dụng như loại thuốc an thần để
dẫn đám dân đen vào giấc ngủ, đám dân bị tước đoạt và
bị lùa ra bên lề xã hội, những nông dân bị đuổi khỏi
đất đai, trở thành vô gia cư, vô điền địa, chen chúc quanh
các kênh rạch bẩn thỉu của Sài Gòn hoặc các khu ngoại ô Hà
Nội, làm đủ thứ nghề để tồn tại, mà trong các thứ nghề
bấp bênh, khốn khổ nhằm mưu sinh, nghề làm điếm, ăn cắp
là không thể tránh.

Lá cờ kia nhắc nhở một cách mơ hồ rằng các quan lớn cũng
đã từng có thứ dây mơ rễ má nào đó, gần gũi họ, một
thứ chủ nghĩa dân túy đặc biệt xảo quyệt và trữ tình.

Sau nữa, lá cờ này được coi là thứ khói độc, kiểu như
lựu đạn cay của cảnh sát, để làm mù mắt (dù tạm thời)
những công nhân lao động đến kiệt sức để lĩnh đồng
lương trên dưới một triệu đồng Việt Nam, mà tiền thuê nhà
trọ, nơi họ nằm xếp hàng như những con cá hộp, cũng đã
mất năm trăm hoặc sáu trăm ngàn.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta nói rằng, trong nhiều
trường hợp, chính trị rất giống thứ nghề cổ truyền nhất
trên trái đất: Nghề làm đĩ.

<div class="boxleft220"><img
src="http://danluan.org/files/u1/duong_thu_huong_0.jpg" width="220"
height="281" alt="duong_thu_huong_0.jpg" /><div class="textholder">Tác giả
Dương Thu Hương</div></div>
Xét trên khía cạnh bản chất của sự vật thì lá cờ búa
liềm bây giờ là mảnh váy nát che đậy bộ phận sinh dục
lầy lụa của những người cộng sản Việt Nam. Họ tiếp tục
dùng nó dù trong thâm tâm, biết rằng tấm giẻ rách này không
thể che kín thân xác họ một cách lâu dài.

Trong thâm tâm, họ sợ. Trong thâm tâm, họ biết rằng họ dối
láo và không sự dối láo nào có thể đứng vững lâu dài. Già
hay trẻ, ngu hay khôn, họ đều biết rõ rằng những năm tháng
này là những năm tháng cuối cùng họ chen chúc trên chuyến
tầu vét, mỗi kẻ tìm cách vơ cào vơ cấu, ngõ hầu lèn đầy
túi, còn tương lai đất nước, vận mệnh dân chúng, lương tâm
kẻ cầm quyền, trách nhiệm trước lịch sử, những khái niệm
đó đã nằm bên ngoài mối quan tâm của họ. Hoặc là, họ
chưa bao giờ với tới các ý tưởng đó, chúng là thứ quá xa
xỉ đối với đời sống tinh thần của họ, những kẻ đang
ngụp lặn trong tiền tài và khoái lạc. Hoặc là, khi nghĩ đến
những điều đó, ngay lập tức họ sẽ hiểu rằng họ là kẻ
bất khả và vì lòng tự ái luôn luôn mạnh hơn lý trí, họ
sẽ cố tình lãng quên.

Nếu như trong đội ngũ quan chức, còn đôi kẻ biết giữ liêm
sỉ, còn đôi kẻ biết lo âu khắc khoải cho vận mệnh non
sông, những kẻ đó ắt bị vô hiệu hoá. Giữa một bầy
chuột đang đục khoét, con chim sẻ lạc vào ắt bị cắn phòi
ruột. Giữa đám chó sói, kẻ nào trái nòi, kẻ đó ắt bị
phanh thây.

Bây giờ, để định danh giai cấp cầm quyền, ta cần lùi lại
đôi bước trong quá khứ.

Thời cách mạng tháng tám, người cộng sản tự nhận là vô
sản, dù rất nhiều người trong bọn họ xuất thân từ đám
tiểu quan lại hay hào lý, bởi lẽ tấm môn bài vô sản lúc
ấy vô cùng hiệu lực, nó là tiếng kèn đồng vang dội nhất
với âm sắc tương hợp và nhạc cảm quyến rũ, đủ sức lôi
cuốn, vẫy gọi và tập hợp tuyệt đại đa số nông dân bị
bần cùng dưới chế độ thống trị của thực dân.

Những người dân cầy quả thực là động lực chủ của cuộc
cách mạng này, bởi họ đã từng chứng kiến hai triệu đồng
loại chết đói còng queo, xác rải dọc các con đường từ
Thái Bình về Nam Định, từ Nam Định về Hà Nội, từ Thanh
Hoá vào Vinh... Những xác chết này trở thành mối hù dọa
đối với họ, bởi chính họ cũng sẽ có ngày gục xuống vì
đói khát.

Tóm lại, sự tuyệt vọng và cái chết rình rập người dân
cầy phía trước con đường. Để tự cứu mình, chỉ còn lối
thoát duy nhất là vùng lên chiến đấu, lối thoát này được
hình thành trong ngõ cụt, trong cơn tuyệt vọng của một đám
đông. Đám đông ấy đã đi theo cách mạng để phá kho thóc,
cứu đói, và cướp chính quyền. Trong con mắt dân chúng,
người cộng sản lúc ấy thực sự là các anh hùng bởi họ
đáp ứng một cách chính xác các khát vọng của một dân tộc
nô lệ và đói khổ.

"Những anh hùng năm xưa, những người cầm cờ đỏ sao vàng
vẫy gọi dân chúng làm cuộc cách mạng tháng Tám, giờ họ ở
đâu? "

Chúng ta cần lặp lại câu hỏi này vì điệp khúc bao giờ cũng
là phần dễ nhớ nhất trong một bài hát. Câu trả lời sẽ
là: Tuyệt đại đa số các chàng trai cộng sản năm xưa đã
nằm trong nghĩa trang Mai Dịch. Còn người cộng sản bây giờ
thực sự là các nhà tư sản đỏ, giai cấp tư sản được
hình thành một cách đặc biệt trong hoàn cảnh đặc biệt nên
chưa từ điển bách khoa nào trên thế giới tìm được định
danh.

Giai cấp tư sản này được xác lập theo cách "truyền
ngôi", nói nôm na là được thâu tóm các vị trí quan trọng
của guồng máy quốc gia một cách vô điều kiện để làm
giầu, và quá trình làm giầu của họ được đặt trên các ưu
thế tuyệt đối do quyền lực.

Lấy một ví dụ cụ thể, nếu như trước cách mạng, ông Đỗ
Mười dắt lợn rong qua các làng cho lợn nhẩy, hành nghề
thiến lợn làm kế mưu sinh, thì con rể ông từ những năm
cuối thập kỉ 80 đã trở thành chủ khách sạn Bảo Sơn. Để
cho khách sạn này làm ăn thuận tiện, nhà nước đã mở đại
lộ Nguyễn Chí Thanh, con đường được coi là đẹp nhất Hà
Nội.

Chắc chắn không có gia đình tư sản nào ở Pháp được
hưởng một thứ ân sủng hoàng gia theo kiểu đó. Điều này
chỉ có thể xảy ra (dẫu rằng hiếm hoi) dưới các triều
đại trước cách mạng tư sản, khi giai cấp quý tộc còn trong
thời vàng son.

Hiện tượng sử dụng tài sản quốc gia vào mục tiêu kiếm
lợi cho cá nhân được coi như đương nhiên và phổ biến trong
chính quyền Hà Nội. Dưới các hình thức khác nhau, hiện
tượng này xảy ra trên khắp các lĩnh vực, từ các vụ mua bán
khí giới cho quân đội đến các vụ đấu thầu những công
trình quốc gia như cầu, đường, điện lực, từ thương mại
cho đến công, nông nghiệp, từ các hoạt động văn hoá, giáo
dục cho đến các nghề nghiệp phục vụ khác.

© DCVOnline

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6710), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét