Vũ Thành Tự Anh -Doanh nghiệp nhà nước không đủ năng lực đóng vai trò chủ đạo

Dự thảo Báo Cáo Chính Trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khẳng định mọi thành phần kinh tế đều được coi
trọng, đồng thời thừa nhận rằng hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư của khu vực nhà nước thấp hơn so với khu vực tư
nhân, <span class="underlined-text">nhưng vẫn tiếp tục khẳng
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước</span>. Câu hỏi
đặt ra là liệu kinh tế nhà nước có đủ năng lực để
đóng vài trò chủ đạo này hay không?

Góp phần trả lời câu hỏi trên, bài viết này sử dụng các
nguồn số liệu thống kê chính thức để đánh giá mức độ
sử dụng nguồn lực và đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), thành phần quan trọng nhất của kinh tế nhà
nước, trong mối quan hệ so sánh với khu vực doanh nghiệp dân
doanh trong nước (DNDD) và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI). Kết quả thống kê được tóm tắt
trong bảng dưới đây.

<center><img src="http://danluan.org/files/u1/DNNN2.jpg" width="405"
height="276" alt="DNNN2.jpg" /></center>
<center><em>Vài so sánh</em></center>

<h2>Chưa tính đúng, tính đủ</h2>

Về phương diện sử dụng nguồn lực, theo số liệu thống kê
chính thức, tỷ trọng vốn đầu tư và tín dụng của khu vực
DNNN đã giảm một cách đáng kể lần lượt từ 57% và 37% trong
giai đoạn 2001-2005 xuống 45% và 31% trong giai đoạn 2006-2009.
Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do chương trình
cổ phần hóa DNNN. Nhưng quan trọng hơn là do khu vực dân doanh
đã lớn mạnh không ngừng kể từ khi ra đời Luật Doanh
nghiệp 1999 và do dòng vốn FDI ồ ạt chảy vào Việt Nam cùng
với tiến trình Việt Nam gia nhập WTO.

Tuy nhiên, tỷ trọng đầu tư và tín dụng theo số liệu chính
thức chưa thực sự phản ánh đầy đủ thực trạng chiếm
dụng nguồn lực của khu vực DNNN.

Về phương diện đầu tư, nhiều khoản đầu tư của Nhà
nước cho các DNNN không nằm trong ngân sách. Đồng thời nhiều
khoản đầu tư của các DNNN, đặc biệt là của các tập đoàn
và tổng công ty, được thực hiện qua các công ty con, và do
vậy không được phản ánh một cách đầy đủ vào tổng đầu
tư của khu vực này.

Bên cạnh đó, nhiều DNNN, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải,
hàng không, viễn thông, được sử dụng cơ sở hạ tầng từ
nguồn đầu tư trực tiếp của Nhà nước.

Tương tự như vậy, về phương diện tín dụng, DNNN nhận
được rất nhiều tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển
trước đây và Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay nhưng
không nằm trong cơ sở dữ liệu của hệ thống ngân hàng
thương mại. Bên cạnh đó, tín dụng dành cho các công ty con,
công ty sân sau (kể cả doanh nghiệp cổ phần hóa) của nhiều
tập đoàn và tổng công ty cũng không được thống kê đầy
đủ.

Đấy là chưa kể đến một thực tế hiển nhiên là khu vực
DNNN được hưởng rất nhiều đặc quyền, đặc lợi so với
các khu vực còn lại. Cụ thể là DNNN được Nhà nước cấp
đất kinh doanh, hoặc nếu phải thuê thì với mức giá không
đáng kể so với giá trị thị trường, sau đó được sử
dụng đất thuê để thế chấp vay vốn ngân hàng, trong khi các
doanh nghiệp tư nhân không có lựa chọn này. Các DNNN, với sự
hậu thuẫn của Nhà nước, cũng được ưu tiên tiếp cận tín
dụng (trong nhiều trường hợp thông qua tín dụng chỉ định)
và ngoại tệ khan hiếm với giá thấp hơn giá thị trường.

<h2>Mức đóng góp ngày càng giảm</h2>

Mặc dù được biệt đãi về phương diện tiếp cận nguồn
lực, đồng thời trong nhiều trường hợp được hưởng vị
thế độc quyền trên thị trường nội địa, nhưng đóng góp
của khu vực DNNN cho nền kinh tế lại rất hạn chế, không
những thế lại đang trên đà đi xuống.

<span class="underlined-text">Thứ nhất</span>, trong 10 năm trở lại
đây tỷ lệ đóng góp của khu vực DNNN cho ngân sách nhà nước
trung bình chưa tới 20% và ngày một giảm so với chính mình
cũng như so với khu vực tư nhân (bao gồm khu vực DNDD và FDI).
Nếu như trong giai đoạn 2001-2005, DNNN đóng góp 19,6% cho ngân
sách, cao gần gấp rưỡi so với khu vực tư nhân, thì trong giai
đoạn 2006-2009, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 17%, tức là
chỉ bằng bốn phần năm so với khu vực tư nhân.

<span class="underlined-text">Thứ hai</span>, đóng góp của khu vực
DNNN vào GDP cũng đi theo xu hướng tương tự. Báo cáo của Chính
phủ thường dẫn số liệu của Tổng cục Thống kê cho rằng
DNNN tạo ra khoảng 35% GDP của Việt Nam, nhưng điều này không
chính xác vì 35% là tỷ lệ đóng góp của cả khu vực nhà
nước - trong đó DNNN chỉ là một bộ phận.

Sau khi trừ đi GDP tạo ra từ các hoạt động của khu vực nhà
nước nằm ngoài DNNN (như quản lý nhà nước, an ninh quốc
phòng, đảm bảo xã hội, văn hóa, y tế, giáo dục, thể dục
thể thao, hoạt động đoàn thể...) thì trong giai đoạn
2006-2009, khu vực DNNN trung bình chỉ tạo ra khoảng 28% GDP, giảm
từ mức 30% của giai đoạn 2001-2005.

Hơn nữa, đóng góp của khu vực DNNN vào tăng trưởng GDP đã
giảm từ mức 33% trong giai đoạn 2001-2005 xuống 19% trong giai
đoạn 2006-2009, nguyên nhân là do tốc độ tăng GDP của khu vực
DNNN giảm từ 7,6% xuống 4,0% - tức là chỉ bằng một nửa so
với khu vực tư nhân.

<span class="underlined-text">Thứ ba</span>, về phương diện lao
động - việc làm, kết quả điều tra doanh nghiệp của Tổng
cục Thống kê cho thấy tỷ trọng lao động của khu vực DNNN
giảm rất nhanh từ mức 44% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ
còn 24% trong giai đoạn 2006-2008. Không những thế, tỷ lệ tạo
ra việc làm mới cũng giảm một cách tương ứng, từ -4% xuống
đến -22%, tức là DNNN không những không tạo ra việc làm mới
mà còn cắt giảm lao động, do vậy đặt gánh nặng tạo việc
làm mới hoàn toàn trên vai của khu vực tư nhân, chủ yếu là
của khu vực dân doanh.

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Nếu áp dụng các phương
pháp kế toán đúng đắn thì hầu hết các tập đoàn và tổng
công ty nhà nước sẽ thua lỗ...<img class="quoright"
src="/misc/quoright.png"/> <br class="quoteclear"></div><div
class="quoteauthor">» Vũ Thành Tự Anh</div></div>

Đã đành việc cắt giảm lao động là hệ quả khó tránh khỏi
trong quá trình cổ phần hóa DNNN, nhưng nếu DNNN thực sự ngày
một lớn mạnh thì chúng cũng phải có khả năng tạo ra việc
làm mới, một yêu cầu tối quan trọng đối với một nền kinh
tế đang phát triển nhanh và có lực lượng lao động trẻ dồi
dào như Việt Nam.

<span class="underlined-text">Thứ tư</span>, nếu nhìn vào hoạt
động sản xuất công nghiệp, lĩnh vực trung tâm trong chiến
lược phát triển theo hướng công nghiệp hóa của Việt Nam,
thì vai trò của khu vực DNNN cũng hết sức khiêm tốn. Nếu như
vào năm 1995, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu
vực nhà nước và tư nhân là 50%-50%, thì đến năm 2009, tỷ
lệ này chỉ còn là 20-80%.

Không những thế, tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng giá trị
sản xuất công nghiệp của khu vực nhà nước (theo giá cố
định) đã giảm từ 29% trong giai đoạn 2001-2005 xuống chỉ còn
8% trong giai đoạn 2006-2009. Trong khi đó, đóng góp của khu vực
dân doanh tăng từ 34% lên 46% trong cùng thời kỳ.

<span class="underlined-text">Thứ năm</span>, có bằng chứng cho
thấy các DNNN đóng góp một cách khiêm tốn cho kim ngạch xuất
khẩu nhưng lại là nơi tạo ra một tỷ lệ lớn kim ngạch
nhập khẩu. Vì các nguồn số liệu chính thức hiện nay không
tách bạch số liệu xuất-nhập khẩu của khu vực DNNN và DNDD
nên kết quả xuất-nhập khẩu của hai khu vực này chỉ có
thể được ước tính một cách gần đúng. Cụ thể là sau khi
trừ dầu thô, than và khoáng sản thì DNNN chỉ tạo ra khoảng
15-20% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Về phương diện nhập khẩu, số liệu còn hạn chế hơn nữa.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào các dự án lớn như Dung Quất, Vinashin,
và những hoạt động thâm dụng vốn và công nghệ (chủ yếu
có được nhờ nhập khẩu) của DNNN thì tỷ trọng nhập khẩu
của DNNN chắc chắn rất cao.

Kết hợp hai thực tế, một là khu vực FDI xuất siêu (nên khu
vực trong nước nhập siêu) và hai là kim ngạch xuất khẩu của
khu vực DNNN chỉ chiếm dưới 20%, trong khi nhập khẩu rất
nhiều, có thể thấy rằng DNNN là một nguyên nhân quan trọng
của tình trạng nhập siêu ngày một cao ở Việt Nam.

Điều này cũng có nghĩa là một số vấn đề vĩ mô như thâm
hụt cán cân tài khoản vãng lai và sức ép giảm giá tiền
đồng Việt Nam sẽ không thể được giải quyết triệt để
nếu không thay đổi chính sách buộc các DNNN trở nên hiệu
quả và cạnh tranh hơn.

<h2>Bức tranh đã rõ</h2>

Những tính toán và phân tích trên đây cũng phù hợp với một
số đánh giá trước đây về hiệu quả hoạt động của khu
vực DNNN. Theo bài "Đánh giá hiệu quả đầu tư" (2010) của tác
giả Bùi Trinh, dù tính theo vốn đầu tư thực hiện hay theo
tích lũy tài sản thì hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà
nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung của toàn nền kinh
tế.

Theo báo cáo tóm tắt kết quả giám sát "<em>Việc thực hiện
chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản
nhà nước tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước</em>"
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì trong năm 2008, 56/91 tập
đoàn, tổng công ty nhà nước có tỷ suất lợi nhuận trên
vốn chủ sở hữu (ROE) dưới 15%, tức là thậm chí còn thấp
hơn mặt bằng lãi suất trong năm 2008 (là năm có chỉ số CPI
trung bình lên tới 20%).

Điều này có nghĩa là nếu áp dụng các phương pháp kế toán
đúng đắn thì hầu hết các tập đoàn và tổng công ty nhà
nước sẽ thua lỗ. Đồng thời, cũng có thể lập luận thêm
rằng ngay cả khi những tập đoàn và tổng công ty có lãi thì
chủ yếu nhờ vào sự bảo hộ của Chính phủ, nhờ vào vị
thế độc quyền trên thị trường nội địa, hay hàng rào
thuế quan cao, và/hoặc được Chính phủ trợ cấp bằng vốn,
đất đai, tài nguyên thiên nhiên rẻ, hay được ban phát các
hợp đồng béo bở.

Nói tóm lại, khu vực nhà nước ở Việt Nam hiện chiếm hữu
rất nhiều nguồn lực nhưng sử dụng chúng một cách kém hiệu
quả, đóng góp rất khiêm tốn cho ngân sách, tăng trưởng GDP,
tạo việc làm mới, phát triển công nghiệp, và xuất khẩu.

Trong khi đó, khu vực dân doanh hiệu quả hơn, đang ngày một
trưởng thành và đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế lại bị
chèn lấn, thiếu nguồn lực, và phải hoạt động trong môi
trường cạnh tranh không bình đẳng.

Ở một nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
luôn luôn khát vốn và có áp lực tạo việc làm mới lớn như
Việt Nam thì năng lực sử dụng vốn một cách hiệu quả, tạo
ra nhiều việc làm, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp và
xuất khẩu là những tiền đề thiết yếu để giúp đất
nước phát triển.

Để đạt được những điều này, trước hết cần từ bỏ
quan điểm chọn trước một khu vực nào đó là "xương sống"
hay "chủ đạo", bất chấp kết quả hoạt động của khu vực
này. Thay vào đó, Nhà nước cần tạo ra một môi trường cạnh
tranh công khai và bình đẳng, giúp cho khu vực dân doanh ngày
một trưởng thành tương xứng với tiềm tăng và những đóng
góp của khu vực này cho nền kinh tế quốc dân.

Vũ Thành Tự Anh (Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright)

© Thông Luận 2010

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6842), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét