"Nếu Chính Phủ làm hại Dân thì Dân có quyền đuổi Chính Phủ"

<em><strong>Làm sao thực hiện được tư tưởng Hồ Chí Minh:
"NẾU CHÍNH PHỦ LÀM HẠI DÂN THÌ DÂN CÓ QUYỀN ĐUỔI CHÍNH
PHỦ"? </strong></em>

Sau bài viết "Vì sao Hồ Chí Minh đặt dân chủ trước giàu
mạnh?", tôi nhận được nhiều ý kiến bạn đọc trong, ngoài
nước, hỏi vì sao hiện nay cả nước đang liên tục rầm rộ
tổ chức học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng
những tư tưởng lớn của người rất cần cho sự nghiệp
Đổi mới, cho cuộc sống nhân dân thì lại không được học
tập, vận dụng?

Trong bài viết này, tôi muốn đề cập đến một trong những
nội dung cốt lõi về dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định một cách mạnh mẽ: "<em>Nếu chính phủ làm hại
dân thì dân có quyền đuổi chính phủ</em>" (HCM toàn tập, NXB
Sự thật, tập 4, trang 283).

Đây là một nội dung có ý nghĩa then chốt ở một thể chế
dân chủ, nó như lửa thử vàng để biết vàng thật hay vàng
giả, ở đây là dân chủ thật hay dân chủ giả.

Có thể bạn sẽ hỏi liệu Chính phủ của chúng ta đã có
những sai lầm gì "làm hại dân"?

Năm qua, Chính phủ có nhiều việc làm bị chỉ trích nặng nề
như:

– Dung dưỡng các tập đoàn kinh tế làm ăn tùy tiện gây
thất thoát lớn (hiện dư luận đang bức xúc về chỉ thị
của Thủ tướng giải cứu sự sụp đổ của Vinashin).

– Quản lý kém làm cho nền kinh tế mất sức cạnh tranh (giá
chi phí cho một đơn vị tăng trưởng cao gấp đôi, thậm chí
gấp ba các nước Châu Á, Thái Bình Dương).

– Cho nước ngoài vào khai thác bauxite Tây nguyên gây bất an
về quốc phòng và môi sinh; cho nước ngoài thuê rừng biên
giới.

– Gần đây nhất là đề án đường sắt cao tốc bị toàn
dân đặt ra nhiều nghi vấn...

Tuy nhiên tôi chỉ xin nêu ra đây một hiểm họa của đất
nước: <strong>Tham nhũng – Giặc nội xâm!</strong>

Nếu chính phủ để tình trạng tham nhũng kéo dài và tăng lên
vô hạn thì có phải là đã mang tội "làm hại dân"?

Tổng thống Mỹ, Thủ tướng Nhật bị mất chức chỉ vì
"nghe lén" và "<em>không thực hiện được một lời
hứa</em>". Ngày 5-7-2010, Thủ tướng Hàn quốc từ chức vì
đề án xây dựng một thành phố mới của ông đưa ra bị
Quốc hội bác bỏ... So với người thì các vị lãnh đạo
nước ta có lỗi nặng gấp nhiều lần, nhưng đã được xuê
xoa quá mức, chính vì thế mà không có sức răn đe để sửa
chữa sai lầm!

Vậy tìm điều kiện để thực hiện được tư tưởng Hồ Chí
Minh "<em>Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ</em>" chính là tìm đơn thuốc hiệu quả trị
được chứng nan y tham nhũng và nhiều khuyết điểm khác của
hệ thống chính trị.

Bài viết này bắt đầu từ tình trạng tham nhũng; xác định
chân tướng, nhân thân kẻ tham nhũng; phân tích nguyên nhân bất
trị của tham nhũng; và cuối cùng là đề ra phương thuốc
đặc trị tham nhũng. Phương thuốc ấy tạo ra điều kiện và
khả năng thực hiện thắng lợi tư tưởng Hồ Chí Minh.

<h2>1. Khuyến nghị quốc tế: kiểm soát quyền lực</h2>

Nghị quyết Đại hội 8 năm 1996 kết luận tham nhũng là một
trong bốn nguy cơ đe dọa đất nước.

Gần 10 năm sau, tham nhũng phình to, câu kết nhau như thành như
lũy, khiến nguyên Phó trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng
Trần Bạch Đằng kêu gọi: "<em>Nã đại bác vào tham
nhũng!</em>" (Báo Tuổi trẻ xuân) với những lời lẽ thống
thiết. Ông nói: "<em>Tham nhũng đang đe dọa sự phát triển kinh
tế cùng đạo đức xã hội</em>"!

Gần một năm sau, tại Hội nghị Trung ương 3/7/2006, Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh nhận định: "<em>Tham nhũng là một trong
những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ</em>".

Ba năm sau nữa, ông Đặng Quốc Bảo – nguyên Ủy viên Trung
ương Đảng – miêu tả hình dáng tham nhũng nằm lồ lộ ở
nước ta với hai đặc trưng: (1) Kinh tế ngầm lộng hành, mafia
cộng với cán bộ thoái hóa; (2) Bộ máy công quyền hư hỏng,
vô cảm, tham nhũng, quan liêu, hách dịch, thiếu chuyên nghiệp,
ít hiểu biết, xa rời nhân dân, dị ứng với dân chủ.

Các vị lãnh đạo Việt Nam cho rằng Đảng đã rất quyết tâm
chống tham nhũng, nhưng do luật pháp còn bất cập, năng lực
quản lý yếu, cán bộ bị sa sút đạo đức trong cơ chế thị
trường, các hoạt động chống tham nhũng chưa đồng bộ.

Chủ tịch Nguyễn Minh Triết trong cuộc gặp Việt kiều dịp
Tết 2010 nói: "<em>Ở nước người ta đó thì muốn tiêu cực,
muốn tham nhũng cũng khó, vì cái hệ thống luật pháp nó chặt
chẽ. Còn ở Việt Nam mình thì có khi không muốn tham nhũng cũng
động lòng tham</em>".

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận định: "Có bốn nguyên nhân
dẫn đến tham nhũng là: thể chế còn sơ hở, thủ tục hành
chính rắc rối, phiền hà, tinh thần phê tự phê bình còn yếu,
đặc biệt là vai trò của cấp ủy Đảng và người đứng
đầu chưa được thể hiện" (Báo Tuổi trẻ ngày 13-1-2008).

Liệu những nguyên nhân mà các vị lãnh đạo Việt Nam nêu ra
đã đủ chưa?

Năm 2009, chương trình Hỗ trợ Phát triển của Liên Hiệp Quốc
(UNDP) có một công trình nghiên cứu quan trọng về vấn đề
tham nhũng ở Việt Nam và đã trao kết quả công trình cho Chính
phủ ta. Công trình này nêu rõ hình tướng của tham nhũng ở
Việt Nam. Xin tóm lược:

- Do kinh tế tăng trưởng cho nên dù cho nạn tham nhũng đang tràn
lan vẫn ít được đề cập. Tham nhũng hủy hoại dần tính
chính danh của chế độ.

- Nông dân biểu tình chống tham nhũng đất đai gia tăng, doanh
nhân bực dọc nạn nhũng nhiễu gia tăng.

- Nền kinh tế tự do hóa, nhưng vai trò quản lý của Nhà nước
không giảm đã tạo điều kiện cho tham nhũng.

- Tham nhũng xảy ra dưới 3 hình thức: Hối lộ – còn gọi là
"bôi trơn"; tư nhân hóa bất hợp pháp tài sản Nhà nước trong
chính sách cổ phần hóa; mua bán quyền lực.

- Quan hệ mờ ám giữa cán bộ chính trị và doanh nhân được
gọi là "doanh nghiệp sân sau", "công ty gia tộc", "thế lực
đen móc ngoặc với các phần tử biến chất trong bộ máy cầm
quyền".

- Đảng và Nhà nước Việt Nam cho rằng thực thi kém hiệu quả
việc chống tham nhũng là do luật pháp bất cập, đạo đức suy
đồi trước kinh tế thị trường. Thực ra đó chỉ là những
yếu tố liên quan, chứ không phải vấn đề trung tâm của tham
nhũng.

<h2>Tham nhũng ở Việt Nam thực chất là một vấn đề mang tính
hệ thống</h2>

Biểu hiện của tính hệ thống là: Tham nhũng vận hành phổ
biến, bình thường, không phải biệt lệ, không thể tiến hành
công việc nếu không chịu dính với tham nhũng! Hầu hết những
người vốn là tốt,nhưng khi nằm trong guồng máy họ cũng
phải chấp nhận tham nhũng để tồn tại.

- Các văn bản pháp lý ở Việt Nam thường thiếu rõ ràng và
chồng chéo. Không phải người soạn thảo kém, mà do hệ thống
đòi hỏi phải như vậy để dễ dàng lạm dụng quyền lực,
tham nhũng. Đó là tác động của các nhóm lợi ích có quyền
lực lớn. Bà Phạm Chi Lan – nguyên tư vấn Văn phòng Chính
phủ phát biểu trong cuộc Hội thảo hồi tháng 3/2009 cho rằng
đó là cách các nhóm lợi ích "cài cắm lợi ích cục bộ khi
soạn thảo luật, cơ chế".

- Xu thế coi công quyền như công cụ làm giàu, nên tệ nạn mua
quan bán chức tràn lan. Tập tục "một người làm quan cả họ
được nhờ" đang sống lại.

- Lương thấp, đạo đức xuống cấp chỉ là nguyên nhân thứ
yếu. Không làm rõ các quy định được, chừng nào cái
"logic" đang chi phối hệ thống vẫn tồn tại.

<em><strong>Nâng cao tính minh bạch và kiểm soát quyền lực bộ
máy công quyền</strong></em> là khuyến nghị mấu chốt của UNDP.

<em><strong>Nâng cao tính minh bạch</strong></em> gồm: công khai tài
liệu thanh tra; nâng cao tính độc lập của thanh tra, của hoạt
động tòa án, của cơ quan giám sát; coi trọng giải quyết tố
cáo của dân; nâng cao vai trò xã hội dân sự, các cơ quan
truyền thông giám sát hoạt động của nhà nước, khuyến khích
công dân tố giác, khuyến khích báo chí dám đứng ra điều tra
tham nhũng.

Để làm rõ thêm bộ mặt của tham nhũng, xin nghe bà Lê Hiền
Đức (tên thật là Phạm Thị Dung Mỹ) sinh năm 1932, giáo viên
nghỉ hưu, người được Tổ chức Minh bạch quốc tế tặng
Giải thưởng Liêm chính năm 2009 kể:

"Các cấp trung gian nó bao che cho nhau, bảo kê cho nhau mình
không thể cựa được. Tôi nhận đơn từ của nhân dân 63
tỉnh thành tố cáo đủ các mặt, đất đai nhà cửa... Thanh tra
Nhà nước đã đến [nhà tôi] chở đi hồ sơ 214 vụ rồi,
nhưng chưa thấy thông báo việc này việc kia được giải
quyết. Có người đi kiện lúc 27 tuổi tới năm 54 tuổi mà
vẫn chưa được giải quyết! Ông Bí thư quận Cầu Giấy có
biết bao tội, là kẻ bảo kê cho bà Hiệu trưởng tham nhũng.
Tôi báo cáo việc này với ông Bí thư Thành ủy Hà Nội thì hai
tháng sau được tin ông quận này đã được chuyển công tác…
Ở cấp nào bọn tham nhũng cũng có ô dù cả"!

Tham nhũng ở Việt Nam năm 2008 được Tổ chức Minh bạch toàn
cầu xếp ở đầu trong nhóm 1/3 nước cuối bảng xếp hạng.
Chỉ số thứ hạng từ năm 1997 - 2008 hầu như không đổi: 2,8;
2,6; 2,7. So sánh với các nước trong vùng thì điểm số của
Việt Nam khá hơn Indonesia 5 bậc, hơn Philippines 20 bậc, xấu hơn
Thái Lan 41 bậc, Trung quốc 49 bậc, Malaysia 74 bậc, Hongkong 109
bậc, Singapore 117 bậc. Năm 2009, Tổ chức Tư vấn Rủi ro chính
trị, kinh tế (PERC) xếp Việt Nam là nước tham nhũng đứng
thứ 3 Châu Á, chỉ khá hơn Indonesia và Campuchia, tụt lại sau
Philippines. Chỉ số minh bạch về thị trường bất động sản
thì Việt Nam xấu hơn Indonesia 22 bậc, Philippines 29 bậc, Thái
Lan 31 bậc, Malaysia 54 bậc, Singapore 68 bậc.

<h2>2. Tham nhũng là ai?</h2>

Tham nhũng là hành vi của kẻ có chức quyền.

Ngày xưa là quan lại. Do đó, Luật Hồng Đức của Lê Thánh
Tông có 40 điều chống tham nhũng (trong tổng số 722 điều)
đều là dành cho quan lại chứ không phải cho thứ dân.

Ngày nay, kẻ tham nhũng là viên chức trong hệ thống cầm
quyền. Tham nhũng nhỏ xảy ra ở người có chức quyền nhỏ.
Tham nhũng lớn ở người có chức quyền lớn. Tuy không có quy
định thành văn nhưng trong thực tế từ cán bộ cấp trưởng
ấp, trưởng khu phố đến phó trưởng phòng của phường xã,
đều phải là đảng viên. Do vậy bệnh tham nhũng trong thực
tế lại chính là bệnh của đảng viên từ thôn ấp cho tới
những cơ quan cao nhất! Nhiều đảng viên không làm công tác
chính quyền, nhưng với cơ chế Đảng lãnh đạo toàn diện,
họ có điều kiện tham nhũng còn hơn cả viên chức chính
quyền. Vậy tham nhũng là bệnh của Đảng, của cả hệ thống
chính trị.

Xin nêu ra đây một số nhận định của các nhà nghiên cứu
về tham nhũng ở nước ta.

Giáo sư Yoshiharu Tsuboi người Nhật Bản – là nhà Việt Nam
học có nhiều công trình sâu sắc – đã nói như sau về tham
nhũng ở Việt Nam:

– "<em>Tham nhũng ở Việt Nam không đơn thuần là vấn đề
đạo đức mà là cơ cấu trong tổ chức, để loại được tham
nhũng phải cải thiện lớn cơ cấu tổ chức và quản lý tài
chính</em>".

– "<em>…Khó thúc đẩy tình hình nếu như không có một số
lợi nhuận cho các đảng viên và cán bộ chính quyền. Vì vậy
Đảng Cộng sản Việt Nam phải làm ngơ ở mức độ nhất
định trước vấn đề biển thủ hoặc tham nhũng của
họ</em>".

– "<em>...Số lượng tham nhũng quá đông, nếu toàn bộ các
vụ tham nhũng bị lật tẩy thì hệ thống hành chính có nguy cơ
ngừng hoạt động, thậm chí dẫn tới khủng hoảng chính trị.
Do vậy nếu khoản tiền tham nhũng không cao quá mức và được
chia đều cho những người dính líu thì chính quyền để yên
cho họ</em>".

– "<em>…Tham nhũng ở Việt Nam có thể tóm gọn là "Ai lại
sợ đèn đỏ, khi tất cả đều vượt đèn đỏ</em>"!

– "<em>...Hệ thống được thành lập theo kiểu khi bên trong
xuất hiện có người có khả năng phản đối tham nhũng thì
tham nhũng sẽ được dùng làm lý do để loại bỏ người
đó</em>".

– "<em>...Bằng cơ cấu nuôi dưỡng tham nhũng, nhà cầm quyền
đặt gần như toàn bộ người dân vào vị trí tội phạm tiềm
năng, với cung cách phán xử tùy tiện, những ai làm mất lòng
hệ thống tham nhũng có thể bị trừng phạt đúng theo pháp
luật</em>"!

Giáo sư Carl Thayer người Úc, một chuyên gia nghiên cứu Việt
Nam có uy tín trên thế giới, cũng có bài viết về tham nhũng
ở Việt Nam. Nhận xét các vụ án tham nhũng lớn như PMU 18,
Đại lộ Đông - Tây, giáo sư nhận định: "<em>Các vụ tham
nhũng lớn ở Việt Nam có trung tâm bảo trợ của những hệ
thống quyền lực gồm những đảng viên cao cấp và gia đình
họ, và ngay trong luật lệ... Khi tham nhũng bị phơi bày, chúng
đều được chỉ đạo giải quyết từ "bên trong cánh
cửa".</em>

..."<em>Trong vòng 5 năm có 12 ủy viên Trung ương bị kỷ luật
liên quan đến tham nhũng, nhưng rất ít vụ bị đưa ra tòa. Qua
hai kỳ Đại hội, 12 năm, tham nhũng đã tăng nhiều hơn. Nguyên
nhân là do Đảng cộng sản Việt Nam chống thực hiện tam
quyền phân lập (hành pháp, lập pháp, tư pháp) mà nắm trọn,
kiểm soát cả ba quyền này</em>".

Các tác giả Lê Đăng Doanh, Nguyễn Trung, Phạm Chi Lan, Hoàng
Ngọc Giao... cũng có những bài viết miêu tả rõ nét khuôn mặt
tham nhũng đang ngự trên chiếc ghế quyền lực của đất
nước. Những đảng viên còn giữ lòng tự trọng hẳn sẽ luôn
cảm thấy căm giận và xấu hổ!

<h2>3. "Tham nhũng nã đại bác vào Đảng"</h2>

Chúng ta đều biết rằng chủ nghĩa Mác – Lênin không có khái
niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà chỉ có các
hình thức Nhà nước chuyên chính vô sản được "<em>vận dụng
sáng tạo thích hơp với thực tiễn của mỗi quốc gia</em>".

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước tập quyền và
Đảng hóa. Trong một bài nói ở Hội nghị Trung ương khóa 3,
ông Lê Duẩn cũng cho rằng Đảng Cộng sản Liên Xô không coi
trọng nhà nước.

Thật ra các nhà nước toàn trị đều đặt Đảng trên nhà
nước, nghị quyết Đảng cao hơn pháp luật.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường phân tích nguyên nhân chính gây ra
sai lầm lớn của cải cách ruộng đất ở Việt Nam là không
dùng luật pháp mà dựa vào đấu tố. Vì nhận định đúng
đắn ấy mà ông bị sa thải. Sau Đổi mới, cùng với sự hội
nhập quốc tế, khẩu hiệu "Sống và làm việc theo pháp
luật" mới được xuất hiện.

Mãi đến 29/11/1991, tại Hội nghị lần thứ 2 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa 7, Tổng Bí thư Đỗ Mười với tư
duy bị trói bởi ý thức hệ đã khiên cưỡng lắp ghép từ
"xã hội chủ nghĩa" vào "nhà nước pháp quyền". Hơn 15
năm sau, tháng 4/2006, nghị quyết Đại hội 10 của Đảng Cộng
sản Việt Nam đưa ra nội dung: "<em>Xây dựng cơ chế vận
hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân
dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp… Xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến hợp pháp trong
các hoạt động và các quyết định của các cơ quan công
quyền</em>".

Tiến sĩ Hồ Bá Thâm đã thắc mắc rằng: kiểm tra, giám sát
được đặt riêng ra như vậy, không rõ là nó nằm bên trong hay
nằm ngoài hệ thống quyền lực nhà nước?

Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh công bố nội dung học thuyết Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong bài diễn văn ở
phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa 12, ngày
19/7/2007. Nhiều nhà lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam
đã viết bài lý giải học thuyết mới mẻ này.

Với cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước,
ông Trần Đức Lương có bài viết đăng trên tạp chí Cộng
sản số 1 năm 2007 với tựa đề: "<em>Xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, ngày
càng trong sạch vững mạnh là nhiệm vụ quan trọng thường
xuyên của Đảng, nhà nước và nhân dân ta</em>". Xin trích ra
đây một nội dung cơ bản:

"<em>Một trong những điểm cơ bản của việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
là quyền lực Nhà nước thống nhất trên cơ sở phân công và
phối hợp trong việc thực hiên quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có
thể hiểu rằng sự thống nhất là nền tảng, sự phân công
và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống
nhất của quyền lực Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng
cũng nhằm đảm bảo cho sự phân công và phối hợp được
thông suốt, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, đưa cương
lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc
sống</em>".

Các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam viết nhiều bài dẫn
giải nội dung học thuyết Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đưa ra những khái niệm lạ lẫm như "tam quyền phân
hợp", "tam quyền phân hợp giám". Nói chung, những khái niệm
phân lập, đối trọng không được phép đặt ra...

GS. TS. Tô Xuân Dân và cán bộ Mặt trận Tổ quốc Trung ương
Nguyễn Thanh Bình có bài viết chung nhan đề "<em>Xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng</em>" (Tạp chí Cộng sản số
1/2007). Hai ông đưa ra 7 vấn đề có tính nguyên tắc để thực
hiện đúng đắn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đọc dẫn giải 7 vấn đề thấy hai ông là những lý thuyết
gia chính trị hơn là nhà luật học. Tôi đặc biệt chú ý
đoạn văn sau đây của hai ông:

"<em>...Vấn đề là ở chỗ, bản chất của Đảng cầm quyền
thế nào, mục tiêu chính trị của nó có phải vì lợi ích
chung của dân tộc, vì con người hay không và do đó có sẵn
sàng tuân theo những quy định của pháp luật hay không; có đủ
phẩm chất đạo đức để vượt qua các cám dỗ quyền lực to
lớn mà một Đảng cầm quyền duy nhất có nhiều khả năng
gặp phải hay không và nó có tự đặt ra và thực hiện được
những lề luật nghiêm khắc cho chính mình hay không?</em>".

Nêu ra nội dung trên hai ông không nhằm cảnh báo nguy cơ đối
với Đảng mà ngay sau đó đưa ra khẳng định: "<em>Thực
tiễn phát triển của xã hội ta, đất nước ta xác nhận và
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hơn 74 năm qua Đảng
thể hiện tập trung ý chí nguyện vọng và trí tuệ của toàn
dân tộc</em>". Hai ông tin rằng: "<em>Hoàn thiện những cơ
sở pháp lý đó sẽ giúp tránh được bao biện, làm thay hay can
thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy và cán bộ Đảng
vào công việc của chính quyền mà có thời kỳ nhiều nơi đã
mắc phải</em>".

<strong>Thực tiễn đất nước 3 năm qua đã bác bỏ nhận định
nói trên của hai ông, và chứng minh rằng số đông đảng viên
cộng sản không thể "vượt qua các cám dỗ quyền lực to
lớn"!</strong>

Tiến sĩ Hồ Bá Thâm trong bài "Dân chủ hóa, phân quyền hóa
cơ cấu hệ thống quyền lực Nhà nước theo tư duy pháp quyền
biện chứng" đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng
11/2009 đã nêu ra nhiều điều còn băn khoăn. Đặc biệt là
đoạn văn sau:

"<em>...Với thực tế nảy sinh tràn lan và kéo dài ngày càng
trầm trọng tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, quan liêu và lãng
phí hiện nay trong hệ thống chính trị và trong xã hội ta,càng
thấy thiếu sót lớn trong một cơ chế thiếu giám sát và kiềm
chế quyền lực tệ hại như thế nào. Đó là chỗ hổng và
yếu kém nhất trong cơ chế hệ thống tam quyền của Nhà
nước, phải được khắc phục sớm bằng cả nhận thức và
thể chế</em>".

Tuy nhiên, Dự thảo Văn kiện trình Đại hội 11 của Đảng
Cộng sản Việt Nam về quyền lực Nhà nước vẫn na ná như
nội dung văn kiện Đại hội 10: "Quyền lực nhà nước là
thống nhất; có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; có
cơ chế kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện ba quyền
đó".

Thực tế hiểm họa "nội xâm"của đất nước đã chứng
tỏ sự "liệt kháng" của thể chế phân công ba quyền
thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xin dẫn chứng
thêm hai câu chuyện:

(1) Cách đây 15 năm, ngày 16/11/1993, Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn
Đình Lộc trả lời phỏng vấn báo Lao động về việc "phải
cấp bách cải cách Tư pháp để chấm dứt tệ nạn "thư tay
gửi tòa án" và "những bản án bỏ túi" trước khi tòa
xử. Cơ quan Nhà nước cũng như công chức Nhà nước khi thực
thi công vụ phải trong khuôn khổ pháp luật và họ có thể bị
kiện trước tòa nếu gây hại cho dân".

Sau 15 năm cấp bách cải cách Tư pháp như ông Lộc nói, hiện
trạng của quyền Tư pháp được thể hiện trong vụ án bà Ba
Sương ở Cần Thơ là thế này:

UBND thành phố Cần Thơ có công văn số 1575/UBND -NC ngày
25/3/2008 nội dung: "Thực hiện ý kiến kết luận của thường
trực Thành ủy tại Thông báo số 91-TB/VPTU ngày 20/8/2008, Chủ
tịch UBND thành phố có ý kiến chỉ đạo như sau: Sau khi Thanh
tra Thành phố chuyển một số nội dung sai phạm của Nông
trường Sông Hậu sang Cảnh sát điều tra thì tổ chức họp
báo, công khai với báo chí...". Cơ quan Tư pháp các cấp đều
không có phản ứng gì về cách chỉ đạo ấy, chỉ có nguyên
Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi thư phản đối: Tôi không rõ có
những lý do gì bên trong mà cơ quan Đảng chỉ đạo cơ quan
điều tra khởi tố vụ án? Việc này phải do cơ quan điều tra
hoặc Viện kiểm sát tiến hành chứ? (Có tin "lý do bên
trong" mà cụ Võ Văn Kiệt hỏi là lãnh đạo Cần Thơ muốn
tìm cớ để thu hồi đất của Nông trường Sông Hậu cho một
dự án lớn!).

Như vậy là tệ nạn "thư tay", "bản án bỏ túi" kiểu du
kích thời Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc ngày nay đã
được chính quy hóa thành những Công văn, Thông báo rất ngang
nhiên!

(2) Ngày 19/9/1997, Thủ tướng Chính phủ có công văn số 4678/QT1
"chuyển khu dân cư ở số 2 Thụy Khuê, Hà Nội. Văn phòng
Chính phủ xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu đất phía sau
khách sạn La Thành cho các hộ dân ở đó tái định cư". Ngày
6/9/1998, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có quyết
định số 498/QĐ-VPCP phê duyệt phương án bố trí diện tích
đất cho từng hộ gia đình, nhưng danh sách này thiếu 11 hộ,
trong đó có bốn hộ do các ông bà Nguyễn Xông Pha, Chu Quang
Biên, Lê Lục Công, Trần Minh Hồng làm đại diện. Văn phòng
Chính phủ có công văn 6403/VPCP-QT1 giao cho UBND quận Tây Hồ bố
trí tái định cư cho 4 hộ dân nói trên. Bốn hộ dân này tìm
hiểu biết rằng Văn phòng Chính phủ làm trái công văn Thủ
tướng, cốt để thừa ra 233 m2 đất ở một ví trí đắc
địa xây chung cư đưa ra bán giá cao cho 15 hộ dân không thuộc
khu nhà số 2 Thụy Khuê. Ngày 21/9/2009, bốn hộ dân nói trên
làm đơn khiếu nại gửi Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ, nhưng không được Bộ trưởng giải quyết. Ngày
2/11/ 2009, bốn hộ dân làm đơn gửi Tòa án nhân dân Hà Nội.
Tòa án nhân dân Hà Nội thông báo trả lại đơn với lý do
"Không thuộc thẩm quyền giải quyết bằng một vụ án hành
chính tại Tòa án". Bốn hộ dân khiếu nại Tòa án Hà Nội
nhận lại đơn kiện, nhưng không được. Ngày 29/12/2009, bốn
hộ dân gửi đơn kiện lên Tòa án nhân dân Tối cao. Tòa án
nhân dân tối cao im lặng. Bốn hộ dân cầu cứu luật sư Cù
Huy Hà Vũ. Luật sư Cù Huy Hà Vũ gửi hồ sơ vụ này lên Ủy
ban Tư Pháp của Quốc hội. Và vụ việc được... nằm yên
trên đó!

Vụ này không lớn, nhưng sự ách tắc của nó chứa 3 điều
đáng suy ngẫm:

1/ Nó dính líu đến nhiều bộ luật: Luật đất đai, Luật
khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao...

2/ Nó liên quan đến ba nhánh quyền lực nhà nước là hành
pháp, tư pháp, lập pháp mà không giải quyết được.

3/ Nó liên quan trách nhiệm của các Ủy viên Bộ chính trị,
Ủy viên Trung ương Đảng, Thủ tướng, Bộ trưởng, Chánh án
tòa tối cao, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật mà vẫn bị tắc!

Điều ấy đủ để nói lên rằng, công thức pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện hành có nhược điểm lớn nhất là trao
cho Đảng trực tiếp lãnh đạo cả ba quyền lực Nhà nước,
tạo tình thế Đảng đứng trên pháp luật. Nhà tư tưởng
Montesquieu từng cho rằng, khi quyền lực tập trung vào một
mối, dù là một người, hay một tổ chức thì nguy cơ chuyên
chế vẫn còn. Rõ ràng pháp quyền xã hội chủ nghĩa không tạo
sức mạnh và uy tín cho Đảng mà nó tạo ra nguy cơ, tôi muốn
dùng cách nói của ông Trần Bạch Đằng: "Hằng phút, hằng
giờ tham nhũng nả đại bác vào Đảng"! Trong khi Đảng thì...
ngay một nhà lý luận lớn của Đảng như Giáo sư Tiến sĩ
Mạnh Quang Thắng cũng phải rầu buồn: "Thật đáng tiếc là
cho đến nay vẫn còn một bộ phân không nhỏ cán bộ đảng
viên suy thoái một cách nghiêm trọng...".

<h2>4. Phải tam quyền phân lập mới có "thần linh pháp
quyền"</h2>

Gần đây có nhiều bài viết tán dương việc cải cách tư pháp
theo hướng không để tòa án ở cùng với cấp hành chính, cho
rằng như vậy sẽ tránh được cơ quan hành pháp can thiệp vào
việc xét xử của tòa án, và từ đó sẽ có tư pháp độc
lập. Có đúng vậy không? E rằng những người nêu ý kiến này
mới nhìn sự thật ở một nửa! Cần thẳng thắn đặt ra và
bàn bạc thấu đáo trước thềm Đại hội 11 của Đảng là:
Đảng có nên lãnh đạo tư pháp theo kiểu cầm tay chỉ việc
như vậy hay không? Sự lãnh đạo của Đảng đối với quyền
Tư pháp nên theo cách nào?

Mới đây, nguyên Ủy viên Bộ chính trị, nguyên Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn Văn An có bài trả lời rất hay phỏng vấn
của Thu Hà trên VietNamNet về việc sửa đổi Hiến pháp. Ông
nói: "<em>Còn quyền lực của cơ quan tư pháp thì sao? Trong
thực tiễn thì nó yếu thế hơn các cơ quan lập pháp và hành
pháp, và còn bị chi phối trong xét xử</em>".

Vậy ai chi phối? Và để chi phối được tư pháp, họ có cần
phải ở cùng một cấp hành chính hay không? Nếu họ ở trên
một cấp, hoặc trên hai, ba cấp hành chính, ở tận Hà Nội
thì họ có thể chi phối được tòa án ở các tỉnh thành phía
Nam hay không?

Mặc dù rất dè dặt khi phân tích những nguyên nhân yếu kém
của quyền tư pháp, Tiến sĩ Hồ Bá Thâm cũng đã nêu ra một
ý kiến rất đáng suy nghĩ về sự lãnh đạo của Đảng đối
với quyền tư pháp: "<em>Hơn nữa, khi đường lối của Đảng
đã được cụ thể hóa thành Hiến pháp thì Hiến pháp là cao
nhất chứ không phải Đảng cầm quyền khi thực thi quyền lực
Nhà nước</em>".

Tiến sĩ Hồ Bá Thâm đã chỉ đúng chỗ mắc mứu lớn chính
là vì học thuyết Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
đặt "<em>việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam</em>". Lẽ ra sự lãnh đạo của Đảng chỉ nhằm đưa ra
quan điểm lớn là: "<em>Phải làm thế nào để thực hiện cho
được quyền tư pháp độc lập, thượng tôn pháp luật, không
chấp nhận bất cứ sự chi phối nào ngoài pháp luật</em>".

Với tinh thần nói thẳng, nói thật có từ Đại hội 6 - Đổi
mới, nhưng từ đó đến nay không được nuôi dưỡng tốt, tôi
muốn tiếp lời Tiến sĩ Hồ Bá Thâm đặt ra câu hỏi vốn
rất kiêng kỵ này: <em><strong>Tại sao chúng ta không chấp nhận
tam quyền phân lập?</strong></em> Đó là kết tinh tư tưởng cao
cả của các hiền triết thời cổ đại từ Platon, Aristotle cho
đến các nhà tư tưởng thế kỷ 18 như Lock, Montesquieu, J.J.
Rousseau, Kant, Hegel... đã trở thành tài sản vô giá của toàn
nhân loại trong tiến trình tranh đấu tìm đến Dân chủ - Tự
do. Chính Marx, Engels lúc cuối đời cũng chấp nhận các phương
pháp đấu tranh nghị trường trong thể chế của Nhà nước
pháp quyền. Cương lĩnh của Quốc tế xã hội dân chủ do Engels
sáng lập đã được phát triển và vận dụng ở nhiều nước,
có xây dựng Nhà nước tam quyền phân lập, đưa các quốc gia
ấy trở thành dân chủ, giàu mạnh. Sự nghiệp Đổi mới của
chúng ta thực ra cũng đã vận dụng nhiều bài học của chủ
nghĩa xã hội dân chủ, rất tiếc lại không vận dụng bài
học xây dựng Nhà nước theo Tam quyền phân lập!

Tại sao? Vì sợ mất đi tính thống nhất của quyền lực Nhà
nước chăng? Không đúng! Tính thống nhất của Nhà nước chính
là lý tưởng của dân, do dân, vì dân. Một nền tư pháp độc
lập mạnh mẽ sẽ kiềm chế được sự lạm quyền của hành
pháp, hoặc sự vi hiến của lập pháp, sự bạc nhược của tư
pháp thì đó mới là bảo vệ thành công sự thống nhất lý
tưởng xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân!

Sợ mất đi trách nhiệm "phân công quyền lực"? Ai phân
công? Các nghị quyết của Đảng đều dùng từ "phân công".
Bài viết của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Văn An cũng dùng từ "phân công quyền lực". Tuy
không nói rõ chủ thể phân công, nhưng Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo Nhà nước thì mặc nhiên phải hiểu rằng Đảng
phân công ba quyền lực Nhà nước. Đúng ra, phải dùng từ phân
quyền (decentralize) vốn là một thuật ngữ đã phổ biến thế
giới về nhà nước pháp quyền. Còn từ phân công (to divide the
work) là để chỉ việc phân chia lao động như phân công lao
động theo ngành, giới tính, vùng đất, phân công lao động
quốc tế... Có ý kiến cho rằng từ "phân công" tỏ ra nhẹ
nhàng hơn "phân quyền" (Tiến sĩ Hồ Bá Thâm). Nhưng ở đây
điều cần đạt tới không phải là cảm giác "nặng"hay
"nhẹ"mà rất cần đạt được sự chính xác của thuật ngữ
quốc tế giữa thời hội nhập toàn cầu.

Sợ mất sự "phối hợp", tạo nên "sức mạnh tổng
hợp" vốn là truyền thống? Xin thưa, các lý thuyết phân
quyền chỉ nhấn mạnh kiềm chế, kiểm soát, đối trọng. Nếu
muốn nói đến sự phối hợp thì cũng có thể tìm thấy
được: Khi cả ba quyền kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau sẽ
bật lên một sức mạnh tổng hợp kéo nhà nước đang ở trên
đầu nhân dân, phải hạ xuống nằm bên dưới luật pháp!

Sao lại kiêng kỵ tam quyền phân lập đã có mầm mống hằng
ngàn năm, được hoàn chỉnh hằng trăm năm, tạo ra sự phân
quyền cân bằng và độc lập giữa ba quyền lực nhà nước
(Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp), quyền lực này kiểm soát,
kiềm chế quyền lực kia, tránh xảy ra lạm quyền, chuyên
quyền, độc quyền, đảm bảo cho sự tự do chính trị của
Nhà nước được lập nên từ quyền lực nhân dân?

Sợ thực hiện tam quyền phân lập sẽ làm cho ba quyền ấy
vuột khỏi tầm tay lãnh đạo của Đảng? Rất sai! Trước
hết, nó làm cho chúng ta có một Nhà nước dân chủ đáp ứng
nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.
Xu thế thời đại là: Pháp luật đứng trên Nhà nước. Chính
quyền phục vụ nhân dân chứ không phải hành dân. Chính phủ
có trách nhiệm tìm chính sách phù hợp để phát triển đất
nước nâng cao phúc lợi nhân dân và bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Người dân được làm mọi việc mà luật pháp không cấm, còn
chính quyền chỉ được làm đúng theo quy định của pháp
luật. Quốc hội chỉ tuân thủ Hiến pháp lập nên từ ý chí,
nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân. Quốc hội không giơ
tay theo nghị quyết đã có sẵn, để bị mang tiếng là nghị
gật!

Hệ thống tư pháp độc lập ngăn chặn những việc làm sai
trái của hành pháp và lập pháp gây hại cho quyền lợi và tự
do của công dân. Tòa án độc lập xét xử mọi tranh chấp và
mâu thuẫn xã hội theo luật pháp và chỉ tuân theo luật pháp,
cho nên được coi là "thành trì của tự do". Hôm qua,
6/7/2010, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết nói với Hội nghị cải
cách tư pháp, dặn rằng việc đầu tiên là phải bồi dưỡng
một đội ngũ cán bộ tòa án trong sạch, vững vàng. E rằng
điều ông dặn chỉ là vấn đề thuộc vào thứ yếu.

Lịch sử xây dựng quyền tư pháp của nhân loại đã chứng
tỏ rằng, Bao Công chỉ xuất hiện được từ cơ chế. Cơ chế
mới là vấn đế số một, vấn đề đầu tiên! Cơ chế tam
quyền phân lập, dùng quyền lực hạn chế quyền lực, sẽ
buộc được các Tổng Bí thư, Thủ tướng cũng như phó
thường dân khi tòa gọi phải nhanh chóng kíp hầu tòa. Không
còn chuyện Tòa án Hà Nội, rồi cả Tòa án tối cao đều bó
tay không gọi nổi Thủ tướng! Như vậy có làm giảm quyền
lãnh đạo của Đảng? Không! Vụ Quốc hội bác bỏ dự án
Đường sắt cao tốc vừa qua đã làm cho nhân dân tin Đảng đã
tôn trọng ý dân, đã có thêm động lực để "Đảng phải
gần dân, hiểu biết dân, học hỏi dân" (Hồ Chí Minh). Nhân
dân sẽ thấy Nhà nước của dân, do dân, vì dân không phải
chỉ ở khẩu hiệu mà đã là sự thật nhìn thấy. Sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước nhận được thêm năng lực
mới. Quyền Tư pháp độc lập sẽ góp một trong những sức
mạnh lớn nhất tẩy trừ tham nhũng. Đảng thải loại được
lũ sâu mọt thoái hóa đang ẩn náu trong hàng ngũ của mình.
Đảng viên sẽ gồm những người liêm khiết trong mắt của
nhân dân. Hồ Chí Minh nói "chống tham ô lãng phí quan liêu là
dân chủ", có ý nghĩa như vậy. Nhân dân sẽ công nhận Đảng
tích cực đổi mới toàn diện, từ đó mà tính chính danh
được nâng lên.

"<em>Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi
Chính phủ</em>"! Với tam quyền phân lập, "<em>trăm điều
phải có Thần linh pháp quyền</em>" (Hồ Chí Minh), tư tưởng
ấy sẽ hiện diện trong đời sống, nâng cao quyền dân, làm
trong sạch Đảng, tăng cường sinh lực Nhà nước. Há chẳng
phải là một việc cấp bách mà Đại hội Đảng rất cần quan
tâm?

Đến đây, xin dùng một danh ngôn đã có sức sống 2500 tuổi
của nhà hiền triết Platon thay cho lời kết: "<em>Tôi nhìn
thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước ở nơi nào mà
pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực của
một ai đó. Còn ở nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà
cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp
luật thì, ở đó tôi thấy có sự cứu thoát của Nhà
nước</em>".

T. V. C

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6275), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét