Chỉ làm những điều mình tin là đúng

Vũ Thị Phương Anh bảo vệ luận án tiến sĩ ở Úc, năm 36
tuổi. Đến nay, bà đã làm việc trong ngành giáo dục 28 năm và
hiện là giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất
lượng thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Mặc dù
đứng trong hệ thống giáo dục nhưng người phụ nữ này
được biết đến như một tiếng nói phản biện khá bền bỉ
chung quanh những bất cập của ngành này. Đằng sau những góp
ý thẳng thắn là một tấm lòng dành cho giáo dục. Phải hiểu,
phải tha thiết với ngành giáo dục nhiều lắm thì người phụ
nữ này mới mạnh dạn nói lời ngỏ với vị tân bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận: "Nếu có cơ hội
nói, tôi khuyên bộ trưởng tập trung làm đến nơi đến chốn
những việc đúng quy luật mà bộ đang làm, như tiếp tục
đổi mới cơ chế quản trị theo hướng trao quyền tự chủ cho
các trường, và đừng đưa ra thêm những sáng kiến mới, từ
trường chuyên, cho đến những chỉ tiêu phi thực tế".

Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi diễn ra vào một buổi chiều
trung tuần tháng 8, ít giờ sau khi GS Ngô Bảo Châu nhận giải
thưởng Fields ở Ấn Độ.

<em>Chính phủ vừa quyết định đầu tư 651 tỉ đồng cho
Chương trình trọng điểm phát triển toán học quốc gia. Bà
đón nhận thông tin này như thế nào?</em>

Hình như thế giới cũng tin rằng người Việt Nam giỏi toán.
Biết đâu toán học là thành tựu khoa học hiếm hoi mà nước
ta có thể có được. Thêm nữa, toán học chủ yếu là dùng tư
duy, không đòi hỏi cơ sở vật chất quá hiện đại hoặc cũng
có thể vì đầu tư cho toán học mang lại hiệu quả cao hơn
các ngành khoa học cơ bản khác. Một dấu hỏi mà tôi đặt ra
là chúng ta sẽ sử dụng những tiến sĩ toán này như thế nào?
Với chế độ lương bổng như hiện nay thì khó mà giữ chân
được họ. Hay đào tạo xong rồi chúng ta sẽ xuất khẩu
những tiến sĩ toán chăng? Điều này tôi nói nghiêm chỉnh chứ
không đùa, vì tôi tin là thế giới cần. Nhưng lưu ý rằng họ
chỉ cần những nhà toán học giỏi thực sự. Còn xã hội ta
thì lại chưa sử dụng được những nhà toán học xuất chúng.

<em>Phải chăng vì chúng ta chưa có môi trường khoa học thuần
khiết?</em>

Trong tiếng Anh có một câu nói rất hay mà người ta hay dùng khi
hỏi về nguyên nhân của một thành tựu nào đó, rằng "<em>Is
it because of system, or is it in spite of the system?</em>". Câu này có
nghĩa phải chăng thành tựu ấy là do hệ thống tạo ra, hay nó
được tạo ra bất chấp hệ thống? "Hệ thống" được hiểu
là môi trường chung quanh, gồm nhiều yếu tố như thể chế,
văn hóa, xã hội... mà chúng ta thường gọi là "cơ chế". Môi
trường khoa học thuần khiết là có, nhưng hình như không do cơ
chế tạo ra, mà hình thành từ những cộng đồng nhỏ hoặc
nỗ lực của những cá nhân.

<em>Bà là giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất
lượng. Thực chất, kiểm định chất lượng giáo dục là
gì?</em>

Kiểm định chất lượng giáo dục là cơ chế giám sát của
hệ thống chuyên nghiệp. Ở các nước tiên tiến, cơ chế giám
sát đối với chất lượng giáo dục gồm ba tầng. Thứ nhất
là Nhà nước, giám sát bằng quy định và tiến hành hậu
kiểm. Hệ thống thứ hai là người tiêu dùng, thể hiện sự
giám sát của mình thông qua quyền lựa chọn sử dụng dịch
vụ giáo dục mà mình thấy là phù hợp. Và thứ ba là hệ
thống kiểm định của các tổ chức xã hội nghề nghiệp lập
ra, trong trường hợp này là cơ quan thuộc hiệp hội các
trường đại học, và hoạt động độc lập với nhà nước.

Công tác kiểm định giáo dục ở Việt Nam ra đời cách nay
khoảng 10 năm, xuất phát từ một giải pháp có tính "kỹ trị"
(technocracy). Những người có trách nhiệm cho rằng một trong
những yếu tố khiến giáo dục Hoa Kỳ thành công là nhờ hệ
thống giám sát "ba tầng". Nhìn lại mình, người ta thấy rằng
chúng ta đang thiếu loại tổ chức này. Thiếu thì bổ sung. Tuy
nhiên, người ta quên rằng "tầng thứ ba" ở Mỹ là tư nhân,
hoạt động độc lập, và chỉ có thể phát huy trên cơ sở
một nền giáo dục theo cơ chế thị trường. Còn ở ta, từ
lúc nó ra đời cho đến nay vẫn do Nhà nước quản lý.

<div class="boxright220"><img
src="http://tuanvietnam.net/assets/Uploads/Phuonganh.jpg" /><div
class="textholder">Bà Vũ Thị Phương Anh. Tranh Hoàng
Tường</div></div>
Tôi nghĩ chúng ta chưa đủ điều kiện để một tổ chức
kiểm định tư nhân theo mô hình của Mỹ ra đời. Bởi nếu
ngay lúc này mở cửa cho tư nhân tham gia kiểm định mà chưa có
một cơ chế thị trường lành mạnh và đúng nghĩa (người
tiêu dùng giáo dục được tự do lựa chọn, và nhà nước có
cơ chế bảo vệ người tiêu dùng một cách hữu hiệu) thì
rất dễ đẻ ra một hệ thống kiểm định sân sau của bộ
chủ quản, dẫn đến khả năng xảy ra tham nhũng.

<em>Theo bà, tình trạng tham nhũng trong giáo dục hiện nay đang
ở mức nào?</em>

Nếu áp dụng quan điểm của thế giới để đánh giá thì tôi
nghĩ tham nhũng trong ngành giáo dục là rất nghiêm trọng, vì nó
đã lan đến cấp thấp nhất là giáo viên đứng lớp. "Tham
nhũng" ở đây được định nghĩa là "lạm dụng quyền hạn,
vị trí công tác nhằm mục đích tư lợi". Với định nghĩa
này, rất nhiều việc ta đang xem là bình thường như đem học
sinh về nhà để dạy thêm cũng là tham nhũng. Tất nhiên, lương
trả thấp mà buộc giáo viên phải làm rất nhiều việc, trong
đó có cả những phong trào khá vô bổ, thì chuyện "tham nhũng"
là khó tránh khỏi.

<em>Lương cho giáo viên đã trở thành câu chuyện biết rồi,
khổ lắm, nói mãi...</em>

Chúng ta là nước nghèo. Vậy thì tại sao Nhà nước lại muốn
bao thầu ngành giáo dục? Hãy mở cửa cho tư nhân làm. Tư nhân
biết những gia đình nào sẵn sàng đóng học phí năm triệu
đồng/tháng và những gia đình nào không đủ khả năng đóng
học phí. Giáo dục công nên tập trung chăm sóc cho hai đối
tượng là những tài năng đặc biệt và đối tượng nghèo,
không đủ điều kiện đi học, còn lại để xã hội tự
điều tiết. Có thể nhiều người không đồng tình nhưng tôi
cho rằng nên dỡ trần học phí. Tuy nhiên, những trường muốn
nâng học phí phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện đi
kèm, được công khai, minh bạch.

Tôi nghĩ Nhà nước càng bớt nhúng tay vào quản lý giáo dục
càng tốt. Ví dụ, Bộ Giáo dục của liên bang ở Mỹ chỉ làm
một việc là xét cấp tiền hoặc cho vay tiền đối với
người học đại học. Nhưng để vay được tiền thì người
học phải chọn học ở những trường đã chứng minh được
việc đáp ứng những tiêu chuẩn chất lượng, nhằm đảm bảo
cả chất lượng lẫn khả năng hoàn trả khi người học tốt
nghiệp ra trường. Các tiêu chuẩn chất lượng này được quy
định bởi chính các trường, bởi các hội nghề nghiệp, và
sự thừa nhận của thị trường. Tất cả đều minh bạch và
các đối tượng liên quan tự giám sát lẫn nhau. Nhà nước
chỉ đóng vai trò điều tiết.

<em>Trở lại với câu chuyện về kiểm định chất lượng giáo
dục. Nhìn lại công tác này trong 10 năm qua, bà thấy sao?</em>

Trong năm năm đầu, giai đoạn 2001-2005, chúng ta chưa biết kiểm
định là cái gì, nên phải mướn chuyên gia nước ngoài, khá
tốn kém. Kinh phí triển khai dự án này là tiền vay của Ngân
hàng Thế giới (World Bank). Kết quả đánh giá 20 trường đại
học đầu tiên có nhiều tranh cãi nên không được công bố
ngay, khiến niềm tin của xã hội bị giảm sút. Tôi có tham gia
chương trình này ngay từ giai đoạn đầu tiên. Sau đó, dự án
tiếp tục triển khai đánh giá thêm vài chục trường nữa,
nhưng dường như cho đến nay kết quả cũng chưa được công
bố rõ ràng.

Tôi cho rằng tất cả những tranh cãi hoặc sơ sót vừa qua là
tất yếu và cần thiết. Dường như chúng ta quá nóng vội, nên
có những đòi hỏi thiếu tính khả thi khiến rất dễ thất
vọng. Tôi cho rằng lợi ích của khoảng thời gian 10 năm qua là
giúp cho một số người hiểu được kiểm định là gì, thông
qua những bài học thực tế, thậm chí đôi khi là những bài
học xương máu.

<em>Vậy thì mục tiêu của kiểm định chất lượng giáo dục
là gì?</em>

Kiểm định chất lượng giáo dục là sản phẩm của Mỹ,
được xem là một phần của xã hội dân sự. Thành ra, sẽ là
khiên cưỡng nếu chúng ta cố gắng áp đặt mô hình này tại
Việt Nam ngay lúc này mà không tính đến các điều kiện bên
ngoài để thực hiện nó. Theo tôi, áp dụng mô hình kiểm
định này trong cải cách giáo dục đại học có được một
cái lợi hiển nhiên là dễ thuyết phục được World Bank cho vay
tiền. Tôi không thích lắm các dự án giáo dục triển khai
bằng tiền vay của các tổ chức thế giới vì nhiều khi chủ
nợ không quan tâm con nợ sẽ sử dụng khoản vay như thế nào,
hiệu quả ra sao, mà chỉ muốn thực hiện mọi việc theo quan
điểm và lợi ích riêng của mình.

Nói về ngành giáo dục thì tôi nghĩ hiện nay ta đang có quá
nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhưng khi nói về nền giáo
dục, thì tôi nghĩ rằng nước ta vẫn khá. Tuy nhiên, nếu ngành
giáo dục không thay đổi, thì nền giáo dục của ta sẽ ngày
càng tệ. Giáo dục nước ta đào tạo cử nhân vẫn còn ở
mức khá, nhưng bắt đầu hỏng từ khi chuyển sang đào tạo sau
đại học một cách khá liều lĩnh, tức là duy ý chí thực
hiện những việc ngoài tầm tay của mình. Đào tạo sau đại
học cần phải rất bài bản, vì phần lớn những người
được đào tạo sau đại học sẽ đứng trên bục giảng,
truyền thụ kiến thức cho các thế hệ sau.

<em>Không lẽ bỏ đào tạo sau đại học?</em>

Không bỏ. Nhưng nhu cầu xã hội về đào tạo sau đại học
không đến mức phải làm ồ ạt như hiện nay. Chúng ta đã có
quá nhiều ví dụ về việc tạo ra những nhu cầu giả trong
giáo dục. Ví dụ, có một dạo để cứu tiếng Nga vốn không
có nhiều người học, có những trường đã đưa ra quy định
sinh viên phải học tiếng Nga như một ngoại ngữ bắt buộc.
Thế là sinh viên buộc phải học những điều mình không thích,
xã hội không cần.

<em>Theo bà, nhu cầu xã hội bây giờ là...</em>

Hồi còn nhỏ, gia đình tôi rất nghèo. Chúng tôi phải dọn nhà
liên tục, dời từ Phan Thiết vào đến Sài Gòn. Cha mẹ tôi
khá kỹ tính, nhưng ban đầu cũng phải chấp nhận ở những khu
vực đông dân lao động, nhập cư, gần chợ để tiện buôn
bán. Đương nhiên, an ninh ở đó cũng rất phức tạp. Giáo dục
cũng vậy thôi. Ý tôi muốn nói chúng ta không thể có ngay mọi
thứ cùng một lúc, mà phải ưu tiên từng giai đoạn. Hiện nay
chúng ta gần như không có đầu tư cho khu vực dạy nghề. Úc
là nước phát triển nhưng họ vẫn tập trung cho mảng đào
tạo này. Sau hai năm học là có thể đi làm liền. Đồng thời,
họ tạo điều kiện để những người tốt nghiệp trường
nghề có điều kiện học liên thông lên đại học. Giáo dục
chúng ta đang đi rất sai, khi phát triển đại học một cách ồ
ạt mà bỏ quên khu vực đào tạo nghề. Nên biết lượng sức
mình, tầm nhìn vừa tầm tay của mình.

Nói tiếp câu chuyện ngoại ngữ bắt buộc ở đại học. Sau
một thời gian cầm cự, tiếng Nga rồi cũng "chết". Những gì
không phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng thì sớm
hay muộn cũng bị đào thải. Đấy là chuyện xưa. Còn chuyện
nay là lối tư duy chỉ tiêu mà tôi rất sợ. Những chỉ tiêu
phi thực tế áp đặt từ trên xuống, và việc thực hiện
bằng được các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá
năng lực cán bộ. Chính sự phi thực tế đó khiến người ta
buộc phải nói dối, làm dối.

Hiện nay, các trường đại học phải tuân thủ theo một bộ
tiêu chuẩn chất lượng duy nhất của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, trong đó có một số tiêu chí về nghiên cứu khoa học.
Các trường công sử dụng tiền ngân sách nên nghiên cứu khoa
học có sử dụng được hay không cũng chẳng sao. Còn các
trường tư, mặc dù không hứng thú, thậm chí khó chịu, nhưng
vẫn phải làm nghiên cứu khoa học để được đánh giá là
đạt chuẩn. Vì mục đích đối phó nên những nghiên cứu khoa
học làm xong cũng xếp vào hộc tủ, lãng phí tiền của và
thời gian vô ích.

<em>Một chiếc áo tiêu chuẩn vừa vặn cho những đối tượng
khác nhau là sự khiên cưỡng?</em>

Nhìn ra thế giới, các nước đều có những bộ tiêu chuẩn
khác nhau cho các loại trường khác nhau. Những đối tượng
giống nhau, chẳng hạn như khối trường tư, sẽ ngồi lại và
đưa ra một bộ tiêu chuẩn phù hợp nhất. Hiện nay, Việt Nam
có hai hiệp hội các trường đại học. Bên cạnh "hội cha",
gồm tất cả các trường đại học trên cả nước thì còn có
"hội con", gồm các trường đại học tư. Tôi có lần trao
đổi với GS Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội đại học
ngoài công lập rằng "hiệp hội của thầy có thể là nơi
đầu tiên nên đòi quyền xây dựng một bộ tiêu chuẩn riêng".
Cụ Phan Khôi từng nói một câu mà tôi rất thích: "Nếu cứ
bắt người ta nghĩ theo ý mình thì đến một ngày kia tất cả
loài hoa cúc đều trở thành cúc vạn thọ".

<em>Nhiều chuyên gia giáo dục tỏ ra ngao ngán về tương lai
không mấy sáng sủa của giáo dục Việt Nam. Còn bà thì
sao?</em>

Khi chất lượng đào tạo thấp mà vẫn chiêu sinh được thì
các trường sẽ không thay đổi. Khối công và khối tư hiện
nay đều như vậy. Đối với ngành giáo dục, tôi không tin vào
việc họ "tự" thay đổi, mà "bị" thay đổi do sức ép cạnh
tranh. Tôi đặt hy vọng vào khối các trường đại học tư.
Nói như vậy không có nghĩa rằng tôi đánh giá cao các trường
tư hiện nay, mà bởi khu vực đại học tư là nơi đang bị
giám sát bởi thị trường nhiều nhất. Giáo dục đại học
thực chất là dịch vụ, dù là dịch vụ đặc biệt đi chăng
nữa. Giáo dục Mỹ thành công là vì họ nhận ra điều này từ
rất sớm. Thực tế là khối trường công lập ở Việt Nam
hiện nay bắt đầu bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi hệ thống
trường ngoài công lập.

Một trong những dấu hiệu rõ nhất là nhiều giảng viên giỏi
có tên ở trường công, kể cả những trường thành viên của
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, nhưng phần lớn thời gian
lại giảng dạy lại ở trường tư... Sự bật lên của
trường tư sẽ buộc trường công phải chạy theo.

<em>Bà phê phán ngành giáo dục ở nhiều mặt. Tại sao bà không
thoát ra khỏi hệ thống này cho thảnh thơi?</em>

Tôi luôn ở trong tâm thế sẵn sàng rời hệ thống bất kỳ
lúc nào nếu không thể làm được những điều mình tin là
đúng. Thực tế, tôi cũng đã nhiều lần xin từ chức.

<em>Nhưng rồi bà vẫn được giữ lại?</em>

Có thể vì người ta thừa nhận điều mình nói là đúng. Mà
cũng có thể vì không có nhiều người giống như tôi, chấp
nhận làm việc với mức lương hằng tháng năm, bảy triệu
đồng trong khu vực nhà nước như thế này. Thực ra, tôi có
thể kiếm tiền một cách khá dễ dàng ở bên ngoài. Nhưng
kiếm tiền dễ tôi không thích. Tôi mong được làm đúng giá
trị của mình và được tưởng thưởng một cách xứng đáng.
Với tôi, phần thưởng vật chất không phải là chính yếu.

<em>Vì kinh tế gia đình bà vững vàng?</em>

Không phải. Tôi quen với lối sống đạm bạc thời từ thơ
ấu. Năm 1996, sau khi học ở Úc về, với số tiền dành dụm
từ số tiền học bổng ít ỏi, tôi mới mua được nhà riêng.
Nhu cầu của tôi rất ít. Mặc ít. Ăn ít. Thế nên, tôi chỉ
làm những gì mình tin là đúng. Tôi đã từng nhận được
những lời mời làm việc có thù lao gấp mười lần khoản
lương hằng tháng ở Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh nhưng
rồi vẫn quyết định ở lại. Tôi ở trong hệ thống nên tôi
có thể thay đổi được nó ít nhiều. Tôi đang cố làm mọi
việc theo cách của tôi.

<em>Bà có thể nói rõ hơn...</em>

Cách không phải của tôi là ngồi chờ chỉ đạo và làm theo
những mệnh lệnh, hoặc tìm cách rút tỉa ngân sách. Cách dễ
nhất là không làm gì cả, tới tháng lãnh lương. Còn cách của
tôi là luôn đưa ra những lời cảnh báo, những điều có khi
cấp trên có thể không thích nghe.

<em>Có khi nào ý kiến tham mưu của bà không được lắng
nghe?</em>

Có.

<em>Bà có nản không?</em>

Tôi quen rồi. Những gì không nói ra được thì tôi đưa lên
blog. Tôi biết nhiều người ở cơ quan, kể cả các sếp của
tôi, vẫn thường xuyên đọc blog của tôi. Đó là nơi để
mình nói, bày tỏ quan điểm, hay nói cách khác là tạo ra một
xã hội dân sự.

<em>Có nói ra hết những điều bà suy nghĩ?</em>

Tôi biết tự kiểm duyệt mình. Tôi nghĩ mình là một công dân
tốt. Một người được giáo dục cẩn thận trước hết là
biết tôn trọng pháp luật. Những chỗ pháp luật chưa hợp lý
thì mình góp ý, xây dựng cho tốt hơn. Còn việc những ý kiến
của mình có được lắng nghe hay không lại là một câu chuyện
khác.

Ở trong hệ thống có cái lợi là được cập nhật thông tin
thường xuyên, nhưng đồng thời có những vấn đề mình không
thể nói ra hết. Năm nay tôi bước sang tuổi 50, cũng có thể
nghỉ hưu được rồi nhưng tôi sẽ làm hết nhiệm kỳ vào năm
2012. Trong khi các nhà khoa học trên thế giới được tạo
điều kiện để thể hiện chính kiến thì tôi phải bỏ thêm
thời gian, công sức để nghiên cứu và gián tiếp bày tỏ quan
điểm với lãnh đạo của mình. Nếu không, người ta sẽ đưa
ra những quyết sách không đúng và bắt tôi phải làm theo. Càng
ngày thì có vẻ như những điều tôi nói được lắng nghe
nhiều hơn.

Tôi thấy Nhà nước mình rất phí phạm chuyên gia trong nước.
Không phải tất cả chuyên gia nước ngoài đều giỏi, thậm
chí có những vấn đề họ không thể rành rẽ bằng chuyên gia
trong nước. Nhiều khi tôi có cảm giác là không có yếu tố
"nước ngoài" thì không thiêng. Điều đau đớn nhất với
những người làm khoa học là cảm giác mình bị phí hoài. Có
một thời kỳ dài, mỗi năm Úc cho Việt Nam 150 suất học
bổng. Những người sau khi học xong ở lại cũng nhiều, số
lượng những người về nước cũng không ít. Nhưng bây giờ
những người đó đang ở đâu? Họ đi làm cho các công ty
nước ngoài không hoàn toàn vì thu nhập, mà bởi vì ở đó tài
năng của người ta được trân trọng.

<em>Tại sao bà không ở lại Úc như những người khác?</em>

Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ, tôi được đề nghị ở
lại làm chương trình hậu tiến sĩ (postdoc). Lúc đó Úc đang
có chương trình khuyến khích nhập cư "chất xám". Theo bạn bè
đến cơ quan nhập cư, tôi hỏi tất cả thủ tục xong rồi...
thôi. Tôi quyết định về vì muốn gần chồng con. Đơn giản
có vậy thôi.

<em>Xin cảm ơn bà về cuộc trò chuyện này.</em>

Theo Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/6253), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét