Đó là ông Hai Vin. Ông thất bại trong cuộc khởi nghĩa Yên
Bái. Lính Pháp vẫn dã man như trong mọi cuộc đàn áp.
Khi đó cụ tôi dù đã đậu Hoàng Giáp Tiến Sĩ 1886 thời Tự
Đức cũng không cứu được con trai mình. Cụ tôi từ quan ở
ẩn đã lâu, rồi cả cụ ông cụ bà đều quy về cửa Phật.
Với một gia đình được "đóng dấu" là có dòng máu nổi
loạn thì chùa chiền có khi là chốn tựa lành nhất, cuối
đời.
Ông bà nội tôi sống đời thanh bạch. Ông làm quan ở Thái
Bình, nên bố tôi không phải quê Thái Bình vẫn thành bạn nối
khố từ thuở ba bốn với tướng Trần Độ.
Dòng họ tôi có một lời nguyền kéo dài năm đời, chỉ giáng
vào những người tài giỏi khí phách nhất họ. Đã ba thế kỷ
nay, mỗi đời đều có một người đang ở đỉnh cao quyền
lực và tài năng, sẽ bỗng nhiên từ quan ở ẩn, ngao du sơn
thuỷ, du lịch đó đây chẳng màng lợi danh.
Bà cụ nội tôi phiền muộn, còn quá trẻ đã xuống tóc vào
chùa xin bình an cho cả họ. Vẫn không ngăn được đời thứ
hai, ông nội tôi, ngao du khắp lục tỉnh, khắp Nam Kỳ, sang
tận Miên, Lào.
Một ngày, cụ bà thấy một phó mộc lăm lăm tay đục tay cưa
vấn khăn đầu rìu vào chùa mình. Thì ra thằng cháu đích tôn.
Dở khăn ra, người ngời ngời, cao 1m75, nặng 70 kg, cười răng
trắng. Cụ than, con ơi, cho con ăn học lên sinh viên Luật, giờ
sao ra nông nỗi này.
Bác tôi nói, con dẫn đầu đoàn Thanh niên sinh viên Hà Nội tham
gia mít tinh ở Đấu Xảo hôm 1/5 (1938), lại vừa được bầu
vào Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh Niên Dân Chủ. Nên giặc
Pháp đuổi con khỏi trường Luật. Con đang trên đường công
tác.
Đấy là lần cuối cùng bác tôi gặp cụ. Chùa ở Kiến An sau
thành cơ sở cách mạng. Cụ lại mất sau cháu, không rõ những
năm cuối đời của cụ trong chùa có an bình nổi không.
Rời trường Luật, bác tôi về mở Hiệu sách Đồng Xuân ở 26
phố Đồng Xuân, thành nơi đầu tiên phát hành sách báo của
Đảng Cộng Sản VN. Bác lấy bút danh Hán Mai cùng các ông Trần
Huy Liệu, Đào Duy Kỳ… viết những bài chính luận đăng trên
các báo Mặt trận dân chủ thời kỳ đó để đề cao quan
điểm của Đảng cộng sản.
Khi Liên Xô ký hiệp ước hoà hoãn với Hít-le, bác tôi trở
thành nạn nhân đầu tiên trong đợt khủng bố vu cáo "Cộng
sản bắt tay với Phát-xít". Trong tù Hoả Lò gần một năm,
bác viết một bức thư tạm biệt bà nội tôi.
Bà tôi không biết cậu con trai đầu lòng đã thắt ống dẫn
tinh, triệt sản từ năm 19 tuổi với lý do, tuy kết hôn với
một con gái địa chủ để lấy vỏ bọc hoạt động cách
mạng, nhưng không muốn con cái vướng bận vào con đường
hoạt động cách mạng sau này.
Chỉ có bố tôi biết anh mình đã triệt sản. Hồi còn nhỏ,
anh em thân nhau như bạn bè.
Một lý do nữa, bác tôi muốn lặng lẽ khẳng định tình yêu
duy nhất với cô Ái Mai, hoa khôi Hội Thương năm ấy ở Bắc
Giang (em ruột nữ thi sĩ Anh Thơ).
Tôi vẫn chưa hình dung nổi lý tưởng cách mạng nào có thể
lớn tới mức khiến một người hy sinh cả cuộc sống và tình
yêu, cả của mình, cả của cuộc đời những người quanh
mình.
Vương Kiều Ái Mai đau đớn, cuối cùng quyết định đi làm
vợ một người đàn ông năm mươi, goá vợ, năm con, nghèo.
Cách lãng quên tình yêu này thật đáng sợ và quá xót xa. Cho
đến tận bây giờ đã là thế kỷ 21, mỗi năm ngày 29 Tết,
bà vẫn châm nén hương lên bàn thờ để thắp vọng mối tình
đầu.
Nhờ luật sư Trần Văn Chương (bố Trần Lệ Xuân-đệ nhất
phu nhân sau này) giúp đỡ, bác tôi trắng án, ra tù. Gia đình
tôi vẫn luôn nhắc tới ơn bào chữa miễn phí của luật sư
Trần Văn Chương.
Bởi trong hoàn cảnh đó, bà nội tôi đi khắp các nhà quen, ai
cũng sợ sệt liên luỵ cộng sản. Bố tôi và các chú bị
đuổi khỏi nhà trọ, không ai dám chứa. Ai cũng sợ dây vào!
Hồi đó Trần Văn Chương là luật sư nổi tiếng và uy tín
nhất Hà Nội.
1941, sau Hội nghị các tỉnh Đông Bắc, bác tôi bị bắt lần
nữa, khi đó bác đã là Uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ. Sau những
cực hình tra tấn, dụ dỗ mua chuộc, bác tôi quyết định
tuyệt thực, im lặng giữ những bí mật công tác về người
đồng đội "bác D" cùng Xứ uỷ, người mà 50 năm sau khi
bác tôi mất, đã quay lại thăm mộ người đồng đội mãi mãi
dừng lại ở những năm 1941. Khi đó "bác D" đã trở thành
Phó Tổng Tham Mưu Trưởng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bà nội tôi kể, địch cho bà nội vào làm "tâm lý chiến",
bà tôi thấy bác da bọc xương, đầy thương tích, ruồi nhặng
đua nhau rúc vào các vết thương, mắt mũi tai hút máu mủ, rách
nát trong manh quần đùi, bụng lép vào xương, bà nội tôi khóc
oà lên.
Bà nội tôi hỏi, sao con lại nói ngọng?
Vì hai hôm trước con đã cắn lưỡi lấy máu vết các khẩu
hiệu lên tường nhà tù "Đảng cộng sản Đông Dương muôn
năm".
Bà nội tôi kêu lên, con ơi con.
Bác tôi nói, mẹ cứ tin là rồi đây, cờ đỏ sẽ mọc lên
khắp cả nước.
Sau 47 ngày tuyệt thực, bác tôi kiệt sức chết.
Bà nội tôi chạy đến trước cổng trụ sở mật thám Pháp ở
Hải Dương, đấm tay vào cửa rầm rầm, trả xác con tôi cho
tôi, người đã chết rồi, chúng mày giữ làm gì.
Nước mắt bà nội tôi ướt đẫm vạt áo mới để mặc vào
thăm tù.
Về sau này, nhạc sĩ Đỗ Nhuận có cho biết, khi nghe tin Hồng
Quang chết, nhạc sĩ đang bị giam ở nhà tù Sơn La, cảm xúc
hào hùng xót thương trước sự hy sinh này đã trở thành một
trong những cảm xúc để sau này ông viết nên bản nhạc
"Chiêu hồn Tử Sĩ".
Bao năm nay mỗi lần nghe thấy giai điệu "Chiêu hồn tử
sĩ", cho dù ở bất cứ đâu, tôi chỉ thấy nhớ bác tôi.
Một người cao lớn và tài hoa, chết năm 23 tuổi.
Thật tiếc, sau này những đồng chí một thời của bác tôi
đã từng họp lại phê phán, cho rằng bác tôi chết là vì…
cắn lưỡi chứ không phải vì tuyệt thực, mà cắn lưỡi để
chết cho nhanh, tức là trốn đòn roi nhục hình, là hèn nhát,
tức là không chịu giữ gìn thân thể để sống tiếp mà phục
vụ cách mạng. Họ gạch tên bác tôi ra khỏi một đường phố
ở Hà Nội (giờ đã đổi tên phố Hồng Quang thành tên phố
Hoè Nhai). Rất tiếc trong Hồi ký của Đỗ Nhuận cũng đã ghi
lại theo "dư luận" đó, chứ không theo sự thật.
Bố tôi kể, năm 1941 một chiếc xe ngựa chở quan tài, có vỏn
vẹn một vòng hoa trắng sơ sài đi từ nhà tù Hải Dương ra,
theo sau là một bà già và hai cô con gái. Con ngựa cúi đầu kéo
cỗ xe đi qua nhiều phố ở thị xã Hải Dương, dân chúng sợ
không dám ra xem. Họ chỉ dám đứng dòm ra từ sau mành cửa
đám tang của một nhân vật Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Không hiểu vì sao người vợ hôn thú của bác tôi chưa một
lần nào hiện diện trong đời sống gia tộc tôi. Bà vợ con
nhà địa chủ, dù cũng yêu nước nhưng cho đến lúc chết cũng
chưa bao giờ xuất hiện trong gia đình tôi. Chúng tôi chỉ nhắc
đến mối tình đầu của bác tôi, ruột thịt yêu thương bà
già chưa bao giờ ruột thịt nhưng còn hơn cả ruột thịt
Vương Kiều Ái Mai. Có lẽ mối tình đầu sâu đậm không chỉ
vì tình yêu, còn vì nghĩa nặng ơn sâu những lúc khó khăn tù
đày, bà nhờ chồng kiếm luật sư giúp người yêu cũ, những
khi oan ức những ngày vẻ vang.
Tôi không biết bà Ái Mai đã bao giờ đặt chân đến Đài
tưởng niệm bác tôi chưa, đã đến xã Hồng Quang chưa, đã đi
trên đại lộ Hồng Quang chưa, đã bước chân vào trường Trung
học mang tên Hồng Quang chưa. Tôi chỉ biết đã có những nén
hương những hôm 29 Tết.
Chỉ còn lại những nén hương ấy, cùng những dòng thơ của
bạn tù Hải Dương viếng sự hy sinh của bác khi ấy, là còn
chung thuỷ với linh hồn bác tôi:
"<em>Chết đi nhắc nhủ bao lòng</em>
<em>Đem son sắt ấy nhuộm hồng giang san</em>"
P/S: Hà Nội đề nghị đặt và đổi tên 45 đường, phố
http://dantri.com.vn/c20/s20-408623/ha-noi-de-nghi-dat-va-doi-ten-45-duong-pho.htm
Quận Hoàng Mai đặt tên phố Định Công Hạ, phố Linh Đàm,
phố Nguyễn Cảnh Dị, phố Nguyễn Công Thái, phố Hồng Quang,
đường Nghiêm Xuân Yêm.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5652), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét