Long</em></strong></center>
<div class="special_quote">[*] Bài này nên đọc cùng với bài
"Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21"
Thời Đại Mới, số 18, tháng 3/2010. Nội dung chính bao gồm:
I. Tình hình đã chín muồi
II. Bàn thêm về chữ "nếu"
III. Đảng đang tự "diễn biến hòa bình"
IV. Trách nhiệm lịch sử.
V. Thay lời kết: Bàn về đa nguyên, đa đảng
Tài liệu tham khảo </div>
<h2>I. Tình hình đã chín muồi</h2>
Lịch sử đầy máu và nước mắt của nước ta trong thế kỷ
20, đặc biệt trong nửa sau của thế kỷ này cho thấy sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi phải có
tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới hiện
tại - với lý tưởng lợi ích quốc gia là duy nhất và trên
hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước
bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên
ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm
những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ
được. Đòi hỏi này ngày nay rất cấp bách, vì đất nước
đang cần có mọi điều kiện thuận lợi nhất để chuyển sang
một giai đoạn phát triển mới - trong một thế giới đang có
nhiều bất trắc mới vì những biến đổi sâu sắc cả về
kinh tế và chính trị đang diễn ra.
Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, thế giới tiếp
tục đi sâu vào cục diện đa cực. Mỹ vẫn là siêu cường duy
nhất, song đang xuống dốc nhanh. Trung Quốc đang ngoi lên nhanh
trên con đường trở thành siêu cường.
Điểm lại, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh Mỹ chiếm
được vị thế quốc tế mạnh nhất trong lịch sử của nó,
song cũng là thời kỳ Mỹ chịu nhiều thất bại và tổn thất
nhất, là thời kỳ quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ sa sút
nhanh nhất so với mọi thời kỳ từ sau chiến tranh thế giới
II đến nay. Nguyên do là "tham vọng và gánh nặng đế chế"
quá lớn và sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa tân tự do
trong kinh tế! Tình hình nghiêm trọng đến mức trong khi tranh
cử và kể cả sau khi thắng cử Obama chủ trương phải thay
đổi cấu trúc kinh tế Mỹ, từ bỏ học thuyết Bush trong
chiến lược toàn cầu, Mỹ phải tìm cách tiếp cận mới để
không thu hút mọi gánh nặng toàn cầu vào Mỹ - thực chất là
chấp nhận một bước lùi chiến lược.
Thất bại của Mỹ kéo theo vị thế toàn cầu của cả phương
Tây xuống thấp. Trong bối cảnh như thế, người ta càng bị
ấn tượng sâu sắc là Trung Quốc đang đi nhanh quá trên con
đường trở thành siêu cường - gần như với bất kỳ giá
nào: khai thác lao động rẻ trong nước, chấp nhận môi trường
trong nước bị ô nhiễm tệ hại, thẳng tay trong các vụ Tây
Tạng, Tân Cương, chủ nghĩa thực dân mới kiểu mới ồ ạt
ở mọi nơi trên thế giới liên quan đến thu hút tài nguyên,
ráo riết vũ trang, uy hiếp Biển Đông… Trung Quốc 2009 có trong
tay 2100 tỷ USD để giữ vai chủ nợ lớn nhất thế giới và
sẽ còn tăng nữa (hiện nay là 2400 tỷ USD).
Chưa bao giờ như hiện nay sách báo và các phương tiện truyền
thông Mỹ lại đầy dẫy các nhận định, đánh giá, về Hiện
tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trở thành chủ
nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới
hạn của quyền lực Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của
Washington đang hủy hoại nước Mỹ, về Triển vọng chẳng lấy
gì làm sáng sủa của Obamanomics, về Sự cáo chung của đế
chế Mỹ, vân vân, - và về …Các chủ thuyết và mô hình phát
triển hiện có xuất hiện nhiều vấn đề phải xem lại. Thế
giới trong thập kỷ tới này phải chăng đang nghiêng về
phương Đông?!.. Đang manh nha một trật tự thế giới mới...
[1]
Thật rất khó thờ ơ trước những ý kiến hay nhận định
như vậy. Tình hình này liên quan đến mọi quốc gia, trong đó
có lẽ đặc biệt là Việt Nam – vì nước ta ở sát nách cái
"công xưởng thế giới" và nằm ngang con đường độc đạo
thuận lợi nhất cho siêu cường tương lai Trung Quốc vươn ra
Thái Bình Dương. Cường quốc quân sự lớn nhất này trong khu
vực đang hàng ngày có nhiều hành động trực tiếp uy hiếp
nước ta trên Biển Đông – mặc dù lãnh đạo Trung Quốc vẫn
khẳng định quan hệ 16 chữ với Việt Nam.
Trên thế giới đã thấp thoáng các mối lo: Một khi do Mỹ
ngày càng suy yếu và vì thế có thể xuất hiện khả năng Mỹ
-Trung Quốc thoả hiệp tay đôi chi phối thế giới, tình hình
sẽ ra sao? Lác đác đã có dự báo về một khả năng lúc nào
đó sẽ tái hiện trở lại "mối quan hệ các quốc gia triều
cống" dưới dạng mới nào đó và Trung Quốc sẽ có một số
nước chư hầu thời hiện đại!.. Nếu lại thêm tình hình
một nền kinh tế lớn nào đó – ví dụ Trung Quốc – nổ bong
bóng, hay các nền kinh tế phương Tây chưa có lối ra – ví dụ
như căn bệnh "Hy Lạp"[2]… sẽ chấn động đến nước ta
như thế nào? Nếu hai đồng tiền USD và Nhân dân tệ sẽ
"đánh nhau" hay "bắt tay nhau" (vấn đề tỷ giá và phá
giá đồng tiền)?..[3] Nếu quan hệ Mỹ - Trung nóng lên cũng
rất phiền toái cho nhiều nước, trước hết là Việt Nam, vân
vân…
Tóm lại, thế giới vừa bước vào một thời kỳ mới của
khủng hoảng mô hình phát triển kinh tế - đến mức phải nhìn
lại nhiều vấn đề của các chủ thuyết,[4] vừa có nhiều
thay đổi lớn trong các mối tương quan chính trị, phía trước
có nhiều chuyện khó lường. Tất cả đặt nước ta đứng
trước nhiều thách thức mới.
Nhìn xa thêm chút nữa, hiện nay Việt Nam là một trong nhóm 11
quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng tàn phá nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu toàn cầu, thời gian không còn nhiều để
chuẩn bị đối phó với những nguy cơ đang đến gần – ví
dụ khoảng gần cuối thế kỷ này có thể mất tới 20% diện
tích trồng trọt vì mất ruộng và vì ngập mặn trong khi dân
số nước ta vào khoảng thời gian ấy sẽ tăng gấp đôi hiện
nay. Thậm chí ngay từ năm 2020 sự gia tăng của nhiệt độ và
biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến nông
nghiệp nước ta…[5] Ngay trước mắt thiên tai ngày càng nhiều
và lớn, nước và năng lượng ngày càng trở nên khan hiếm,
v.v. Đó là những vấn đề nóng bỏng của phát triển của
nước ta, đòi hỏi phải được xử lý ngay từ hôm nay, không
thể tiếp tục mô hình phát triển cũ. Thế hệ hôm nay không
có quyền sống nước đến chân mới nhảy, không có quyền
để lại mọi gánh nặng cho các thế hệ sau, càng không được
phép đời cha ăn ốc, đời con đổ vỏ!
Trên hết cả, sau chặng đường 25 năm đầu tiên của đổi
mới, mô hình phát triển theo chiều rộng[6] đã làm xong chức
năng của nó, đất nước ta nhất thiết phải chuyển sang một
giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi phải có những thay đổi
sâu sắc và toàn diện. Tình hình cấp bách đến mức có thể
nói: Vì đã đi tới cái ngưỡng của nó, mô hình phát triển
theo chiều rộng ngày càng phát sinh những yếu kém nội tại;
nổi bật là càng tăng trưởng kinh tế như hiện nay càng có
nhiều ách tắc, thể chế chính trị đang tích tụ ngày càng
nhiều bất cập, trở thành trở lực chính kìm hãm đất nước
ta phát triển, đang làm tê liệt khả năng của nước ta đối
phó với thách thức cũng như tranh thủ cơ hội mới. Chuyển
sang mô hình phát triển theo chiều sâu – mô hình phát triển
dựa trên phát huy sức mạnh của nguồn lực con người, thực
chất cũng là phát huy sức mạnh của dân chủ - ngày nay trở
thành đòi hỏi khách quan của nước ta trong tình hình mới.[7]
Chính thực tế vừa trình bày trên xác định nhiệm vụ chính
yếu đặt ra cho nước ta trong thập kỷ tới là phải cơ bản
khắc phục mọi yếu kém, để mở đường cho đất nước đi
vào một giai đoạn phát triển mới, xử lý thành công mọi
thách thức phía trước trong một thế giới nhiều biến động
mới.[8]
Muốn thế, trước hết cần dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại
cả chặng đường dân tộc ta đã trải qua từ khi Thế Chiến
II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào
muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát
triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình?
Lịch sử không làm lại được, nhưng bài học thì phải rút
ra.
Câu hỏi nên đặt ra là: Vì sao một dân tộc có bề dày lịch
sử và văn hóa như dân tộc ta, vào thời đại ngày nay đã
hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất
đất nước trong bối cảnh quốc tế khốc liệt, song lại vẫn
là một quốc gia phát triển lạc hậu sau 35 năm nỗ lực kiến
thiết đất nước? Cái gì là những yếu kém của tự thân
nước ta, cái gì là do nguyên nhân cản trở hay kìm hãm từ bên
ngoài? Đối với mọi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh
đất nước, câu hỏi này sẽ nhức nhối hơn nếu so sánh mức
độ phát triển mọi mặt nước ta đạt được hôm nay với
những hy sinh, mất mát dân tộc phải chịu đựng trong những
thập kỷ kháng chiến, và sau này là công sức đã bỏ ra cho 35
năm xây dựng và bảo vệ đất nước, so sánh với các nước
cùng điều kiện tương tự nhưng đi nhanh hơn nước ta!.. Nói
đơn giản, nhìn lại 35 năm qua, GDP tính theo đầu người của
nước ta hôm nay tăng khoảng 10-12 lần so với sau khi ra khỏi
chiến tranh, trong khoảng thời gian này Trung Quốc tăng gần 20
lần, Hàn Quốc và Đài Loan tăng khoảng 40 lần, v.v… Tụt hậu
là tụt hậu, cạnh tranh là cạnh tranh, trong thế giới của
hội nhập toàn cầu hoá không có sự chiếu cố "tại vì
nước ta thế này, tại vì nước ta thế nọ…", cạnh tranh
với Trung Quốc càng không có chuyện chiếu cố "tại vì…"
này nọ!..
Những thành tựu đạt được có thể mở ra một triển vọng
tốt đẹp cho đất nước, nhưng đồng thời thực trạng hiện
nay cũng đang thai nghén những hiểm họa khôn lường. Triển
vọng, hay hiểm họa nặng nhẹ hơn nhau như thế nào? Cái nào
sẽ lấn át cái nào?.. Tình hình mọi mặt của đất nước hôm
nay đang đặt ra nhiều điều lo âu. Tất cả nói lên: Đất
nước chí ít từ Đại hội IX đã đứng trước ngã ba
đường: hoặc là dấn thân đi vào hướng phát triển phồn vinh
của dân chủ tự do, hay sẽ ngoặt vào đổ vỡ - do sự tham
nhũng độc tài bên trong và do sự o ép từ bên ngoài![9]
Thành tựu đạt được dù to lớn đến đâu cũng chưa thể nói
là vững chắc, nguy cơ kiếm củi ba năm thiêu một giờ hoặc
rơi vào khốn quẫn luôn luôn cận kề. Nguy cơ này đang gia
tăng. Trong nhiều năm qua khắp nơi trong nước không lúc nào
ngớt tiếng nói nặng lòng với đất nước, với Đảng, đã
nêu lên những cảnh báo nghiêm khắc. Có đảng viên đã chiến
đấu gần hết cuộc đời trong hàng ngũ Đảng phải thốt lên:
Đảng trong tim tôi và Đảng ngày nay là hai Đảng khác nhau mất
rồi! Có đảng viên đã lên tiếng cảnh báo về mối nguy của
"nội xâm"[10] và "ngoại xâm".
Nếu tổng hợp những ý kiến đóng góp với thiện chí, một
mặt chẳng những sẽ thấy rõ thực trạng đất nước hiện
nay nguy hiểm đến mức nào, mặt khác cũng thấy rõ ràng lối
ra sáng sủa của đất nước nếu quyết tâm lựa chọn.
Không một sự quy chụp hay xuyên tạc nào có thể bác bỏ
những ý kiến phân tích thấu đáo và thiện chí như vậy. Chỉ
riêng việc những người tâm huyết này đặt vấn đề Đảng
phải chủ động tự đổi mới để đất nước thoát tụt
hậu và tránh nguy cơ sụp đổ của Đảng, cũng là tránh nguy
cơ tổn thất và đổ máu cho đất nước, đã đủ nói lên ý
thức trách nhiệm của họ.
Còn bạn bè xa gần đã lên tiếng cảnh báo Việt Nam cần rút
ra các bài học trên thế giới để tránh bằng được rơi vào
cái bẫy các nước có thu nhập trung bình – nghĩa là đi dần
đến chỗ bế tắc và không thể trở thành một nước công
nghiệp hóa hay một nước phát triển – với triển vọng cuối
cùng là sẽ đi tới hỗn loạn và sụp đổ - như đang lặp đi
lặp lại năm này qua năm khác ở hàng chục nước đang phát
triển khắp nơi trên thế giới. Ngay cạnh nách ta là tình
trạng bế tắc của Thái Lan, Mianma[11]…
Giả sử đặt ra một cuộc thăm dò ý kiến trong các tầng lớp
nhân dân thế hệ đã tham gia kháng chiến với câu hỏi: Nếu
biết cái đích đi tới được sau 35 năm độc lập thống nhất
là thực trạng mọi mặt đất nước như hôm nay, liệu dân
tộc ta trước đây có dám hy sinh chiến đấu hết thế hệ này
đến thế hệ khác như vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam hay không? Câu chuyện có lẽ sẽ còn trầm
trọng hơn nhiều nếu tổ chức thăm dò ý kiến nhân dân về
thực trạng hiện nay của đất nước và lòng tin của dân
đối với chế độ.
Tuy rằng chưa có cuộc thăm dò ý kiến với chữ "nếu" như
thế này, song ngày càng nhiều tiếng nói của những đảng viên
chân chính bầy tỏ sự thất vọng về nhiều vấn đề trong
thực tại cuộc sống hiện thời. Trong số những người ấy,
có không ít là đảng viên thuộc bậc khai quốc công thần, lão
thành cách mạng... Có những bà mẹ từng mang đơn đi kiện cơ
quan chính quyền các tội tham nhũng đã phải thốt lên: Biết
các người hư hỏng như hôm nay, chắc chắn ta đã không che
chở cho các người trong những khi bị địch bố ráp năm nào!
<h2>II. Bàn thêm về chữ "nếu"</h2>
Dù chưa có hay không có những cuộc thăm dò ý kiến rất đáng
làm như nói trên, trong tư duy chúng ta không thể tránh né các
chữ "nếu" để có thể nhìn hết mọi chiều cạnh của sự
vật.
Xin đơn cử hai trường hợp cụ thể:
- Một là: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng nói chiến
thắng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước là
chiến thắng của toàn dân tộc. Giả thiết rằng với tinh
thần như vậy, ngay sau chiến thắng 30 Tháng Tư, nếu Đảng
giương cao ngọn cờ dân chủ và thống nhất dân tộc, thu nhân
tâm về một mối, không phân biệt bên này bên kia, kêu gọi
mọi người một lòng đem hết tài sức ra hàn gắn vết thương
chiến tranh và phát triển đất nước… Nếu làm được như
vậy, cái bẫy vấn đề Campuchia liệu có tác dụng ghê gớm
đến thế không? Kẻ thù trong, ngoài nào sẽ làm gì được
Việt Nam? tổn thất mới nào sẽ tránh được, thương đau nào
sẽ dịu bớt? và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong
hàng ngũ các quốc gia trên thế giới?..
- Hai là: Mùa đông 1990-1991 Liên Xô tan rã, đánh dấu sự sụp
đổ hoàn toàn của phe (hệ thống) xã hội chủ nghĩa, chiến
tranh lạnh kết thúc; trong khi đó Trung Quốc sau khi tiến hành
cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam tháng 2-1979 chưa ra
khỏi chấn động Thiên An Môn (1989); Mỹ đang bận rộn với
chiến tranh vùng Vịnh trừng phạt Iraq xâm lược Kuwait trong
một cục diện quốc tế đã thay đổi (Mỹ chú trọng những
mục tiêu chiến lược toàn cầu khác ngoài khu vực Đông
Dương). Giả thiết rằng trong bối cảnh không còn hai phe như
vậy, nếu Việt nam giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ,
về đối nội thì phát huy đoàn kết, hòa hợp và hòa giải
dân tộc xây dựng đất nước (mà như vậy cũng có nghĩa là
phát huy dân chủ xây dựng đất nước), về đối ngoại bang
giao và hợp tác với mọi quốc gia vì hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển, Việt Nam có cần phải tìm kiếm liên
minh ý thức hệ không[12]? Việt Nam có cần chấp nhận những
nhân nhượng không đáng có và liệu có rơi vào tình thế bị
bao vây cấm vận kéo dài đến tận giữa thập kỷ 1990 hay
không? Lựa chọn phương án này, ai làm gì được Việt Nam?
Lựa chọn phương án này, Viêt Nam đương nhiên chẳng phải
dựa vào ai, và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong
bàn cờ thế giới, trong ASEAN?..
Trên thực tế Đảng đã lựa chọn quyết sách gì vào hai thời
điểm lịch sử nêu trên?
Xin gợi ra đôi điều.
■ <span class="underlined-text">Về trường hợp chữ "nếu"
thứ nhất</span>:
Sau khi giành lại được đất nước, sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước cực kỳ quan trọng. Nhằm mục tiêu này,
sau chiến thắng 30 Tháng Tư 1975, Đảng đã lựa chọn con
đường đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với niềm tin sâu
sắc đó là con đường mở ra tương lai cho Việt Nam và giành
lấy vị thế quốc tế xứng đáng. Về căn bản, đấy là sự
lựa chọn của duy ý chí và lòng yêu nước trên nền tảng ý
thức hệ mà Đảng hằng nuôi dưỡng và theo đuổi.
Sự lựa chọn này phải chăng đã bỏ qua thực tế cuộc kháng
chiến chống Mỹ mang trong nó 5 hay 6 cuộc chiến tranh khác nhau:
(1) Cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống Mỹ xâm lược, (2)
cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế
quốc mà Việt Nam là tiền đồn – nói khác đi, đó là một
cuộc chiến tranh nóng trong thời kỳ chiến tranh lạnh trực
tiếp giữa 2 "phe" diễn ra trên đất Việt Nam, (3) cuộc
chiến tranh trá hình (proxy war) giữa Liên Xô và Mỹ trên đất
Việt Nam, (4) cuộc chiến tranh trá hình giữa Trung Quốc và Mỹ
trên đất Việt Nam, (5) cuộc giành giật ảnh hưởng toàn cầu
giữa Liên Xô và Trung Quốc trên đất Việt Nam, và (6) trên
hết cả, và đau lòng hơn tất cả - do nhiều nguyên nhân chính
trị, lịch sử và do bối cảnh quốc tế rất phức tạp (nhất
là những hệ quả của chính sách chia để trị và chủ nghĩa
thực dân mới đang rất thịnh hành hồi đó, những hệ quả
của ba dòng thác cách mạng[13] cuốn hút hầu như toàn bộ thế
giới thứ ba trong thời kỳ này, của 2 phe 4 mâu thuẫn, sự xô
đẩy của các trào lưu trên thế giới...) - cuộc chiến tranh
này còn mang tính chất nội chiến Bắc-Nam kéo dài, rất đẫm
máu và sâu sắc, bắt nguồn rất sớm từ thời kỳ nước ta
mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, và đấy cũng là
tình huống nước ta bị xô đẩy vào, là bi kịch dân tộc, là
cái giá bắt buộc phải trả vô cùng đau xót cho thống nhất
đất nước[14].
Nhìn lại có thể nói: Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm
lược kết thúc, mọi vấn đề thời hậu chiến đặt ra từ 6
cuộc chiến tranh này không được nhìn nhận tháo đáo, không
được xử lý thỏa đáng. Về đối nội không làm tốt được
hòa giải, dung dưỡng sức dân, thu nhân tâm về một mối và
tạo ra sinh lực mới của đất nước để giữ cho trong ấm.
Về đối ngoại là thực hiện không tốt bài học của cha ông:
đánh giặc xong còn phải lo trải chiếu hoa mời giặc về để
giữ cho được ngoài êm. Mọi nỗ lực sau khi kháng chiến kết
thúc chủ yếu chỉ được dành cho quan điểm thừa thắng xông
lên giành chiến thắng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi sai
lầm chủ quan và duy ý chí bắt đầu từ đây.
Sự lựa chọn nói trên của Đảng sau 30 Tháng Tư 1975 còn dựa
trên lòng tin chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu và đang
chiến thắng của thời đại (mặc dù chủ nghĩa xã hội cho
đến nay còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ). Suy nghĩ chủ
quan này không nhìn nhận đúng thực tế tình hình thế giới
lúc đó là: Lợi ích quốc gia và lợi ích chiến lược toàn
cầu cũng như thực lực của từng bên hữu quan giữ vai trò
chủ chốt trên bàn cờ thế giới lúc đó. Những bên hữu quan
ấy là Mỹ và phe cánh, Trung Quốc và phe cánh, Liên Xô và phe
cánh… Chính ba thế lực này mới là các nhân tố chủ yếu chi
phối trực tiếp tình hình thế giới thời kỳ này – nhất là
tại khu vực nước ta, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội
với tính cách là xu thế tất yếu của thời đại như những
người cộng sản Việt Nam thời đó tin tưởng[15].
Chính sự lựa chọn nói trên của Đảng có lẽ cắt nghĩa
được vì sao ngay sau 30 Tháng Tư 1975 Việt Nam mau chóng rơi vào
cái bẫy "Campuchia" do Trung Quốc sắp đặt[16], bị cô lập
trên thế giới cả một thập kỷ sau đó, để cho Trung Quốc
và Mỹ tha hồ khai thác tình trạng cô lập này và cố "gỡ"
lại những gì họ đã mất![17]
Trong khi đó duy ý chí đã khiến cho đường lối phát triển
đất nước của Đảng đi vào ngõ cụt, dẫn đến khủng
hoảng trầm trọng,[18] chế độ chính trị của đất nước
đến gần miệng hố sụp đổ, các vết thương chiến tranh và
các vết thương trầm trọng khác trong lòng dân tộc chẳng
những không được nỗ lực hàn gắn mà có những mặt còn bị
những chính sách sai lầm khoét sâu thêm.
Nói rốt ráo, có thể coi đấy là sự lựa chọn của chủ quan
duy ý chí cho chiến thắng và vinh quang của Đảng sau khi đã
hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, mặc dù - và xin
nhấn mạnh - sự lựa chọn này dựa trên chủ nghĩa yêu nước
với niềm tin sâu sắc của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa.
Tình trạng này gây nên bị động chiến lược nguy hiểm cho
đất nước, kéo dài cả một thập kỷ với nhiều hệ quả
lâu dài về sau.
Đặt lại vấn đề như thế, riêng về đối nội, liệu có
thể nói: Với sự lựa chọn nêu trên, Đảng đã đánh mất cơ
hội là người duy nhất lúc ấy có khả năng và uy tín lớn
nhất thực hiện sự nghiệp thống nhất dân tộc một cách
bền vững và mãi mãi trên nền tảng của dân chủ cho một
đất nước đã từng mấy thập kỷ bị nước ngoài xâu xé và
xô đẩy vào trạng thái nội chiến đẫm máu. Phải chăng là
như vậy?
Xin lưu ý, sau giải phóng miền Nam ngày 30-04-1975, với tư cách
là người chiến thắng, quan trọng hơn nữa là với tư cách là
lực lượng duy nhất lãnh đạo dân tộc trong thời kỳ hoàn
thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam là người có tính chính đáng và có thực lực nhất,
thậm chí có nghĩa vụ cao cả và nặng nề nhất, thực hiện
sự nghiệp thống nhất dân tộc - chẳng những để vĩnh viễn
khép lại quá khứ đau thương của dân tộc mà còn vì tương
lai lâu bền của đất nước. Sự nghiệp độc lập thống
nhất của quốc gia sẽ là gì nếu chưa hoàn thành sự nghiệp
thống nhất dân tộc?
Nắm quyền lãnh đạo, Đảng không thể thoái thác nhiệm vụ
lịch sử trọng đại này.
Bởi vì sau khi có độc lập thống nhất quốc gia, sự nghiệp
thống nhất dân tộc như thế là bảo đảm vĩnh viễn tính
bất khả xâm phạm của non sông đất nước, là nguồn gốc
sức mạnh phục hồi đất nước và xây dựng một Việt Nam
cường thịnh, hạnh phúc, là làm cho đất nước trở nên mãi
mãi bất khả kháng trong tương lai. Thực hiện được sự
nghiệp thống nhất dân tộc như thế sẽ có thể là con
đường ngắn nhất để Việt Nam mau chóng có đủ lực trở
thành một đối tác bình đẳng trong cộng đồng quốc tế hôm
nay! Có phải như vậy không?
Trên đây là bàn lại về lịch sử.
Nhìn vào hiện tại, cần nhấn mạnh trong 25 năm đổi mới đã
có nhiều chính sách khắc phục những yếu kém vấp phải, và
đã tăng cường đáng kể khối đoàn kết thống nhất dân
tộc. Kết quả của những chính sách đúng này đã góp phần
vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, vết thương dân
tộc, và tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Chính những
thành quả này đã đảo ngược tình thế hiểm nguy của đất
nước, phát triển đất nước về nhiều mặt 25 năm qua, khẳng
định tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết thống nhất dân
tộc. Nếu so tình hình hôm nay với 10 năm đầu sau khi hoàn
thành thống nhất đất nước rõ ràng đã đạt được một
bước tiến bộ trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân
tộc. Điểm lại, cốt lõi của sự chuyển biến quan trọng này
là những việc đã làm được trong thực thi dân chủ trên
nhiều phương diện. Thực tế đã diễn ra cho thấy: Dân chủ
được thực hiện tới đâu, khối đại đoàn kết thống nhất
dân tộc trở thành hiện thực đến đấy, chỗ nào là dân
chủ hình thức thì chỉ có đại đoàn kết thống nhất dân
tộc hình thức – và đây là điều cần rút ra cho tương lai
để đi tiếp.
Tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nhận xét: Con đường phải đi
còn rất dài cho việc thực hiện sự thống nhất dân tộc có
khả năng tạo ra hào khí mới cho đất nước mà sự nghiệp
xây dựng nước đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng,
văn minh không thể thiếu. Đó là sự thống nhất dân tộc với
tính chất là:
(a) làm nền tảng cho quyền làm chủ của nhân dân – nghĩa là
nền tảng cho quyền lực của dân,
(b) bảo đảm gìn giữ kỷ cương nhất thiết phải có của
thể chế chính trị dân chủ và
(c) trở thành cội nguồn sức mạnh của đất nước.
Thống nhất dân tộc với chức năng như thế sẽ không thể
là một sự thống nhất "tả-pí-lù", thống nhất của
"bầy đàn" có người chăn dắt. Đấy phải là sự thống
nhất của nhân dân, được xây dựng trên sự giác ngộ của
nhân dân về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức cùng
hợp nhất lại để tạo ra sức mạnh cho dân tộc, cho quốc
gia. Đấy chính là sự thống nhất dựa trên sự giác ngộ sâu
sắc của dân về dân chủ.
Tạo ra thống nhất dân tộc trên cơ sở phát huy trí tuệ và
quyền năng của nhân dân như thế, tạo ra sự thống nhất dân
tộc với ba chức năng cụ thể nêu trên như thế, nhất thiết
đòi hỏi phải có sự lãnh đạo để thực hiện, phải giác
ngộ từng người dân để thực hiện. Xin nhấn mạnh: Cốt lõi
của sự thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như
thế chính là dân chủ. Từng người dân giác ngộ quyền và
nhiệm vụ của mình đối với đất nước sẽ chỉ giống như
"một cây làm chẳng nên non", nhưng toàn dân thống nhất
được như thế về quyền và nhiệm vụ đối với đất nước
trên cơ sở giác ngộ về dân chủ, với ý thức hợp nhất
lại với nhau, sẽ là tiền đề tất yếu làm cho quyền lực
của dân thuộc về dân và được thực hiện, không thế lực
nào tước đoạt được.
Sự thống nhất dân tộc như thế sẽ là tiền đề tất yếu
của một Việt Nam hưng thịnh, về bên trong thì đủ khả năng
trấn áp bất kỳ "nội xâm" nào và có sức phát triển năng
động, về bên ngoài thì đủ mạnh để tạo ra được chỗ
đứng phải có cho đất nước và để trở nên bất khả kháng
đối với bất kỳ thứ "ngoại xâm" nào. Thống nhất dân
tộc với chức năng như thế vẫn là cái đích quan trọng phía
trước, nhất thiết phải hướng tới.
Đã có nhiều ý kiến tâm huyết nhấn mạnh:
Cho đến nay Đảng vẫn chưa làm xong nhiệm vụ lãnh đạo nhân
dân hoàn thành sự nghiệp thống nhất dân tộc đúng với tinh
thần (a)hàn gắn vết thương quá khứ, (b)thu phục nhân tâm về
một mối, (c)thống nhất ý chí vì một Việt Nam dân chủ, giàu
mạnh, công bằng, văn minh và con đường (xin nhấn mạnh: sự
thống nhất về con đường) thành đạt mục tiêu này.[19] Chưa
có thể nói đã tạo ra được sự thống nhất dân tộc với
tinh thần hòa hợp hòa giải, nhằm tạo ra sự đồng thuận
lớn nhất làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhìn lại càng chưa thể nói Đảng đã mở ra được một trang
sử mới cho đất nước trên con đường xây dựng một chế
độ chính trị gồm những giá trị khiến người dân cảm
nhận được chế độ chính trị ấy của đất nước gắn bó
với mình gần như đồng nghĩa với Tổ Quốc. Mọi việc còn
đang ở phía trước![20]
Ba mươi lăm năm qua tình trạng thiếu vắng sự thống nhất
dân tộc ở tầm cao như thế một mặt đã kìm hãm nghiêm
trọng sự phát triển của đất nước, mặt khác không tạo ra
được sức mạnh cần thiết kiểm soát sự tha hoá của hệ
thống chính trị. Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra cho đất
nước ở bước ngoặt hiện nay lại càng đòi hỏi thực hiện
thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như vậy.
Nhận về mình sứ mệnh lãnh đạo, chẳng lẽ một sự nghiệp
thống nhất dân tộc như thế không đáng ghi vào Cương lĩnh
của Đảng để toàn Đảng phấn đấu, không đáng để cho
Đảng mang hết ý chí, nghị lực và tâm huyết lãnh đạo nhân
dân xây dựng?
Xin nói thêm:
Vết thương dân tộc của quá khứ ngày nay phải được hàn
gắn không phải chỉ có chuyện Bắc - Nam, mà còn bao gồm tất
cả mọi tổn thất, sai lầm và yếu kém khác của đảng cầm
quyền, bao gồm hệ quả của biết bao đoạn trường quanh co
rất đau lòng của đất nước đã xảy ra vì bất kỳ lý do gì
sau khi thống nhất đất nước mà ngày nay không lấy lại
được.
Xem xét vết thương quá khứ còn có nghĩa phải xem xét rất
nhiều các vết thương khác chia rẽ dân tộc xuất hiện trong
các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước, kể cả
những thời kỳ trong lịch sử Việt Nam cận đại từ khi Pháp
đô hộ nước ta cho đến nay – bao gồm cả chia rẽ chính
trị, chia rẽ các đảng phái, chia rẽ tôn giáo đang để lại
nhiều tàn dư tiêu cực… Khép lại vết thương của quá khứ
còn đòi hỏi có cái tâm và trí tuệ gạt bỏ mọi tư duy cũ,
thành kiến hay định kiến cũ, để trân trọng từng hy sinh,
mất mát – dù trong hoàn cảnh nào, máu nào đổ cũng là máu
Việt Nam, để bao dung, vị tha với nhau, để cùng động viên
nhau vắt óc tìm đường đi lên cho đất nước.
Cho đến hôm nay vẫn chưa xây dựng nên được cho đất nước
một chế độ chính trị gắn bó toàn dân tộc gần như đồng
nghĩa với Tổ quốc, nguyên do chủ yếu là lãnh đạo Đảng và
Nhà nước chưa thiết kế và chưa xây dựng được cho đất
nước một thể chế dân chủ đích thực: Người dân là chủ
của chính mình và là chủ của đất nước, không có độc
quyền yêu nước, nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam
yêu nước dù chính kiến, tôn giáo, địa vị xã hội hay giai
cấp nào, tất cả đều bình đẳng và không phân biệt quá
khứ bên này bên kia, giá trị cao nhất – và cũng là lý
tưởng cao nhất – để xác định, đánh giá và tôn vinh vị
trí của mỗi người là sự cống hiến cho một nước Việt Nam
cường thịnh… Nói cách khác, giải phóng xong đất nước,
nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ giải
phóng đích thực: Mỗi người dân có quyền sống vì mình và
vì đất nước, để từ quyền này xây dựng sự đồng thuận
tối đa và bất khả xâm phạm của toàn dân tộc cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc[21]; nghĩa là người dân
chưa thực sự có tự do dân chủ, chưa phải là chủ của chế
độ chính trị cai quản đất nước. Không có gì quý hơn độc
lập tự do cần được hiểu là cho đất nước và cho cả
từng công dân của nó. Sự thật là có cái này thì phải có
cái kia, mới có được cái kia: Làm sao một nước có thể
độc lập tự do mà dân của nó không được độc lập tự do,
và ngược lại cũng thế.
Hơn nữa, để hàn gắn vết thương dân tộc, mỗi người còn
nên khép lại quá khứ với chính mình - vì một bước tiến
mới cho bản thân mình, cho đất nước, và vì một điều tốt
đẹp gì đó đáng mong đợi cho mình trong tương lai, để không
thỏa mãn ngồi xổm trên vinh quang của quá khứ, hoặc cũng
không ủ dột với những vấp váp, và càng không nên để cho
quá khứ nuôi dưỡng thù hận riêng mà làm yếu sơn hà xã
tắc. Khép lại quá khứ như thế là mỗi người tự mở ra cho
chính mình một thế giới mới, trước hết là vì sự tiến
bộ và hoài bão chính đáng của chính mình, và cùng nhau đóng
góp chung vào sự tiến bộ của đất nước...
Khép lại quá khứ, hướng về tương lai với tinh thần nêu
trên là việc nên làm của từng người Việt Nam, để tất cả
bắt tay nhau mở ra một trang sử mới cho Tổ quốc, dốc lòng
làm rạng rỡ đất nước mình, coi đấy là báo đáp tổ tiên
và phấn đấu hết mình cho tương lai của bản thân mình và con
cháu.
Thu giang san về một mối thực chất là như vậy. Là nhiệm vụ
của lực lượng lãnh đạo đất nước và nhiệm vụ của
từng người!
Có gì ngăn cấm mỗi người Việt Nam chúng ta ước mơ sống
như vậy và quyết tâm sống như vậy? Suy nghĩ và sống như
vậy là không yêu nước? là trái với định hướng xã hội
chủ nghĩa? là phi giai cấp? Là ảo tưởng? Hay là nghĩ như vậy
mới rõ ai là ai? Không dám suy nghĩ như vậy mới là thấp kém?
Nước ta đã khép lại quá khứ với tất cả các nước đã
xâm lược ta, để bình thường hóa quan hệ, để hũu nghị và
hợp tác; vậy giữa người Việt chúng ta với nhau và trong
từng người tại sao không?
Thực tế thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao
trên nền tảng của dân chủ như vậy khiến cho trong 35 năm qua
đã mắc bao nhiêu sai lầm; lãng phí biết bao nhiêu trí tuệ,
nhân tài và tiềm năng to lớn của dân tộc; bỏ lỡ biết bao
nhiêu cơ hội lớn; đã thế còn gây thêm biết bao nhiêu khó
khăn và đau thương không đáng có; quá khứ đầy máu và nước
mắt của dân tộc vì thế cho đến hôm nay vẫn chưa sao khép
lại được; nguy cơ rạn nứt vẫn tiềm tàng. Đấy là chưa
nói đến ngay trong nội bộ Đảng vẫn chưa sao loại bỏ
được hết sự phân chia vùng, miền, tính công thần, cục bộ
địa phương nặng nề... Trong lương tri người dân nặng lòng
với đất nước riết róng những câu hỏi rớm máu: Người
Việt ta sao không lo chung lưng đấu cật vươn lên và đối mặt
với cả thế giới mà cứ lo cào xé, ghen tị, đố kỵ nhau?
Việt Nam hôm nay sẽ đứng ở đâu trên thế giới này nếu đã
hoàn thành được sự nghiệp thống nhất dân tộc với nội
dung và chức năng như thế? Nếu thống nhất dân tộc như thế
trở thành một trong những giá trị cao cả nhất của lẽ sống
của mỗi người Việt Nam chúng ta!..
Nhiệm vụ thống nhất dân tộc này đến hôm nay chưa thể nói
là đã hoàn thành, không phải chỉ vì còn những vấn đề của
quá khứ chưa được giải quyết thỏa đáng, mà còn vì các
nguyên nhân trong hiện tại:
(a) chưa tạo ra được ý chí thống nhất của toàn dân tộc
về con đường phát triển đất nước,
(b) tệ nạn quan liêu tham nhũng đang tích tụ những bất công
mới và huỷ hoại ghê gớm mọi nỗ lực cho sự thống nhất
này,
(c) đang xảy ra những phân hóa và chia rẽ mới trong nội bộ
các tầng lớp nhân dân với nhau và giữa nhân dân với chính
quyền.
Trong thực tế cuộc sống vẫn tồn tại không ít quan điểm,
chính sách, cách cư xử không dung nạp sự thống nhất dân tộc
đáng mong muốn này, khiến cho lời nói và việc làm khác nhau.
Trên hết cả, nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu hẳn một
thể chế dân chủ thực hiện được đại đoàn kết dân tộc,
hòa hợp và hòa giải dân tộc - nhằm một mặt là khép lại
quá khứ, mặt khác là đẩy lùi tham nhũng tiêu cực, tất cả
nhằm tạo dựng đồng thuận và khơi dậy sức mạnh cả
nước.[22] Chính vì thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở
tầm cao như vậy trên nền tảng dân chủ, nên các quyền của
dân được ghi trong Hiến pháp không thực hiện được, thiếu
vắng sức mạnh cần thiết của nhân dân gìn gữ sự trong
sạch của chế độ chính trị, không đủ sức đẩy lùi
được sự tha hoá của hệ thống chính trị đang ngày càng tự
diễn biến thành bộ máy cai trị.
Tổ quốc chúng ta đang đứng trước những hiểm nguy và thách
thức lớn, chẳng lẽ điều này không đáng để mỗi người
Việt Nam chúng ta vươn lên đứng ở tầm quốc gia của mình,
để suy nghĩ, để tự giác ngộ và giành lấy quyền của chính
mình, để phấn đấu và hành động xây dựng sự thống nhất
dân tộc trên nền tảng dân chủ như vậy hay sao? Tự nhận
lấy vai trò tiền phong chiến đấu, thiết nghĩ người đảng
viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là công dân đầu tiên
trả lời câu hỏi này! Để cho đất nước còn phải chịu
nhiều trở lực của tha hoá và tham nhũng trong hệ thống chính
trị như hôm nay, có phần còn thiếu sự giác ngộ và phấn
đấu nêu trên của từng người dân, từng công dân. Cần thừa
nhận là đang tồn tại thực tế này, để mỗi người dân
hiểu rõ và chủ động tìm cách thực hiện quyền và trách
nhiệm của chính mình, bởi vì quyền lực không biết làm từ
thiện.
Đảng cầm quyền muốn xây dựng nhà nước của dân, do dân,
vì dân mà không dành mọi nỗ lực xây dựng bằng được
quyền lực của nhân dân dựa trên nền tảng thống nhất của
dân chủ như vậy, nhà nước định xây dựng nên sẽ chỉ còn
là khẩu hiệu, trong thực trạng này bản thân đảng cầm
quyền cũng tự tha hoá dần thành đảng cai trị.
■ <span class="underlined-text">Về trường hợp chữ "nếu"
thứ hai</span>:
Trước khi trình bày, xin nhắc lại một điểm: Tinh thần độc
lập tự chủ và ý chí đặt lợi ích quốc gia trên hết là
một trong những yếu tố quyết định của Đảng lãnh đạo
làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước! Rồi đây lịch sử có lẽ sẽ công bố cho mọi
người biết cuộc kháng chiến này đã phải vượt qua những
tác động gay go hay kiềm chế từ bên ngoài như thế nào, lúc
thì sợ kháng chiến của ta loang thành chiến tranh lớn, lúc thì
cần Viêt Nam ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, lúc
thì muốn ta hòa hoãn, với lý do chổi ngắn không quét được
rác xa, thống nhất đất nước (Việt Nam) là sự nghiệp hàng
trăm năm!.. Những sự can thiệp như thế diễn ra trong tình hình
cuộc kháng chiến của ta phải dựa vào nguồn chi viện rất
lớn của các nước bạn! Có lúc ta đã phải nói thẳng với
bạn: Không giúp, người Việt Nam chúng tôi cũng chiến đấu
chống Mỹ xâm lược đến cùng!
Câu hỏi đặt ra là: Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ và
Tổ quốc trên hết ấy của Đảng trước tình hình sụp đổ
của các nước Liên Xô Đông Âu cuối thập kỷ 1980 như thế
nào?
Thay vì khôi phục quan hệ bình thường, hữu nghị và hợp tác
với Trung Quốc trên cơ sở độc lập tự chủ và lợi ích
quốc gia trên hết, lãnh đạo Đảng lúc ấy đã lựa chọn
liên minh ý thức hệ với Trung Quốc. Thậm chí lúc ấy hy vọng
có thể cùng với Trung Quốc xây dựng liên minh còn lại cuối
cùng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, bảo vệ chủ
nghĩa xã hội!
Quá trình đi tìm liên minh này mở đầu từ hội nghị Thành
Đô năm 1990, trong bổi cảnh Trung Quốc đã tiến hành cuộc
chiến tranh biên giới tháng 2-1979 và tiếp tục kéo dài xung
đột vũ trang lấn chiếm biên gới nước ta đến năm 1989, trong
thế yếu của ta trước sức ép mọi mặt của Trung Quốc. Kết
quả là chỉ được Trung Quốc công nhận là đồng minh, chứ
không phải là đồng chí – trước hết vì chính Trung Quốc
cũng không muốn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội trước
thế giới, sau nữa Trung Quốc chỉ muốn coi ta là một đối
tác có nhiều khác biệt với Trung Quốc. Xem những gì được
viết trong các sách báo chính thống của Trung Quốc ngày nay,
còn phải kết luận: Trong thâm tâm những người lãnh đạo
Trung Quốc từ đó đến nay đặt nước ta ở vị trí thấp hơn
nữa trong chính sách đối ngoại của họ.
Hồi ấy trong lãnh đạo Đảng có những ý kiến không tán
thành quyết sách đi tìm liên minh kiểu như thế này, nhưng đã
bị gạt đi.[23]
Rất nên đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự lựa chọn như vậy
của lãnh đạo Đảng nói lên sự hoang mang dao động trước
bước ngoặt lịch sử của thế giới: Chiến tranh lạnh kết
thúc với sự sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu!?
Nếu là như vậy, phải chăng thực chất và trước tiên sự
lựa chọn này hầu như chỉ nhằm bảo vệ quyền lực và chế
độ chính trị của Đảng, nhân danh bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa trong nước, nhân danh bảo vệ trào lưu và con
đường của chủ nghĩa xã hội trên thế giới?
Trong các thời kỳ cách mạng trước, quan điểm độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội được gắn kết với lợi
ích quốc gia, với chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm ý thức
hệ của Đảng. Nhưng bước vào thời kỳ này trở đi, với
cách đi tìm liên minh như vậy, phải chăng quan điểm này ngày
càng được nhấn mạnh, trở thành tiêu chí và kim chỉ nam cho
mọi đường lối chính sách và hành động của Đảng trong
đối nội cũng như đối ngoại – nhưng lại với mục đích
tối thượng là bảo vệ chế độ chính trị của Đảng; lợi
ích quốc gia bị đánh đồng với mục đích tối thượng này
và trên thực tế tụt xuống vị trí thứ hai?
Đặt ưu tiên như vậy, phải chăng có nghĩa quyền lợi quốc
gia chỉ được thực hiện trong phạm vi không thách thức quyền
lực của Đảng?
Cứ giả định rằng bảo vệ chế độ chính trị trong tình
hình các nước LXĐÂ sụp đổ như vậy cũng hoàn toàn xuất
phát từ lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia, nghĩa là
không mảy may có vấn đề đặt lợi ích quốc gia xuống hạng
hai, thì chí ít cũng phải kết luận: Ý thức hệ và tầm nhìn
lúc ấy đã ngăn cản lãnh đạo Đảng đi tới một nhận
định khác có lẽ đúng hơn, cần rút ra để lựa chọn quyết
định tối ưu nhất cho đất nước: Việt Nam trong tình hình
này cần đứng lên giữa thế giới với tính cách là một
quốc gia - với tất cả tinh thần độc lập tự chủ, hòa bình
và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, tự tìm ra
con đường phát triển cho nước mình, không cần đi theo ai
hoặc dựa vào ai! Nếu chọn con đường như vậy, ai sẽ làm gì
được ta? Hay là: Nếu chọn con đường như vậy, nước ta sẽ
bước lên một vị thế mới chưa từng có, sẽ là phương
thức duy nhất hữu hiệu gìn gữ được quan hệ hợp tác hữu
nghị đời đời với Trung Quốc trên cơ sở 5 nguyên tắc chung
sống hòa bình mà chính Trung Quốc đề xướng[24]?.. Chọn con
đường như vậy, cả dân tộc ta sẽ vùng đứng lên như thế
nào cho một Việt Nam mới?!..
Đương nhiên, nói gì bây giờ cũng chỉ là nói hậu. Nhưng xin
nhấn mạnh: Lịch sử không làm lại được, nhưng bài học thì
phải rút ra. Rất đáng nghĩ lại lắm! Vì cuộc sống của
nước ta phía trước đang rất cần một Việt Nam hiểu biết
sâu sắc thế giới và có bản lĩnh như thế! Chọn con đường
như vậy, có lẽ không có một sức ép hay sự ngăn cản nào
từ bên ngoài nước ta không thể vượt qua được. Nhưng nếu
chọn con đường như vậy, chắc chắn Đảng phải vượt qua
trở ngại lớn nhất của chính mình: Phải thực hiện dân
chủ!
Cần nói thêm, vào thời điểm này:
· Mỹ bận tâm với các mối quan hệ chiến lược toàn
cầu ở Trung Đông và Đông Âu (khi các nước xã hội chủ
nghĩa ở đây khủng hoảng và đi vào quá trình sụp đổ).
· Trung Quốc sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới
đánh Việt Nam đang chưa ra khỏi chấn động của sự kiện
Thiên An Môn năm 1989, chiến tranh biên giới Việt-Trung đi dần
vào thời kỳ kết thúc hẳn.
· Trên mặt trận phía Tây Nam vấn đề Khmer đỏ ở
Campuchia cơ bản đã giải quyết xong: Ta đã hoàn thành tốt
nghĩa vụ cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng do
bè lũ Pol Pot gây ra. Ngoại trừ Trung Quốc bảo vệ Khmer đỏ
nên ngoan cố đòi "giải pháp đỏ cho vấn đề Campuchia"[25],
toàn thế giới còn lại – trước hết là các cường quốc
phương Tây có liên quan - đều lên án Khmer đỏ, những điều
kiện cho giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia đã hội đủ
và chín muồi, đồng thời qua việc giải quyết hòa bình vấn
đề Campuchia như vậy sẽ mở ra cho ta nhiều thuận lợi bình
thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc.
Nghĩa là tình hình lúc ấy không thể hay rất khó có thể xảy
ra một cuộc chiến tranh ngoại xâm mới bất kỳ từ đâu tới
chống lại Việt Nam. Trung Quốc lúc này chỉ có thể tiếp tục
cuộc chiến tranh biên giới chống ta đang tàn lụi dần, chứ
không thể mở rộng thêm hay tiến hành một cuộc chiến tranh
mới chống ta; chính bản thân Trung Quốc lúc này cũng lúng túng
vì có nhiều chuyện khác phải lo – nhất là lo ảnh hưởng
của Liên Xô sụp đổ tác động vào nội tại Trung Quốc và
các dư chấn sâu sắc khác. Còn về phía nước ta, sau những
thành công đầu tiên của đổi mới (được tiến hành từ
Đại hội VI, 1986) kinh tế bắt đầu khởi sắc, kể từ
1987-1988 trở đi chế độ chính trị nước ta đã được củng
cố vững chắc, hầu như lúc ấy không có một sự uy hiếp
đáng kể nào từ bên trong.
Nghĩa là vào thời điểm các nước Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, tình hình nội trị bên trong của nước ta cũng như bối
cảnh quốc tế bên ngoài lúc ấy không nhất thiết buộc lãnh
đạo Đảng phải đi tìm liên minh ý thức hệ bằng cách thỏa
hiệp với Trung Quốc, với kết cục từ đấy trở đi chính
sách o ép, lũng đoạn Việt Nam của Trung Quốc cho đến hôm nay
ngày càng leo thang, cái giá phải trả là tình hình hôm nay! Có
phải như vậy không? Trong khi đó các bài học khác cho ta về
Trung Quốc ở Hội nghị Geneva 1954, về cuộc gặp Mỹ-Trung ở
Thượng Hải 1972, về hải quân Trung Quốc tấn công đẫm máu
chiếm Hoàng Sa 1974 và chiếm thêm một số đảo nữa ở
Trường Sa 1988… còn nóng bỏng! Hay là ấn tượng của chiến
tranh Campuchia và chiến tranh "dạy cho Việt Nam bài học"
tháng 2-1979 quá sâu sắc?
Phải chăng đặt ra những câu hỏi như vậy sẽ thấy rõ
được nhiều điều cay đắng!?[26]
Sau khi kháng chiến chống Mỹ xâm lược kết thúc, sự việc
diễn ra là:
(1) đất nước rất sớm rơi vào cái bẫy của "vấn đề
Campuchia",
(2) để cho Trung Quốc trở thành thế lực đối kháng thù
địch đến mức ghi vào Hiến pháp, rồi sau đó lại phải tìm
đường liên minh ý thức hệ với Trung quốc ở hội nghị
Thành Đô năm 1990, với kết quả hôm nay không đúng như mong
đợi,
(3) kháng chiến kết thúc 20 năm mới bình thường hóa được
quan hệ với Mỹ (1994-95),
(4) sau kháng chiến 35 năm vị thế quốc tế của Việt Nam và
ảnh hưởng của nó đối với thế giới bên ngoài không đáp
ứng thỏa đáng đòi hỏi của xây dựng và bảo vệ tổ quốc
–
Bốn điểm nổi bật này nói lên sự lạc lõng của nước ta
trong bối cảnh hậu chiến, được sách báo nước ngoài, kể
cả ở Trung Quốc, từ niều năm nay tổng hợp lại và phân
tích khá sâu sắc, đương nhiên mỗi bên hữu quan ra sức khai
thác theo những cách khác nhau cho lợi ích riêng của mình[27].
Ngày nay khoảng cách thời gian đã đủ để đánh giá bốn
điểm này là những thất bại nghiêm trọng của nền ngoại
giao Việt Nam mang nặng tính ý thức hệ trong thời bình, vì nó
(a) không đủ sức tránh cho quốc gia những đòn hiểm độc
của bên ngoài, (b) không tạo ra được bối cảnh bên ngoài
thuận lợi cho quốc gia sau khi vừa mới bước ra khỏi chiến
tranh tàn khốc kéo dài[28]! Đường lối đối ngoại như thế
vẫn còn nhiều dấu ấn nặng nề trong hiện tại, nhất thiết
phải được thay đổi, dựa trên thay đổi nhìn nhận về thế
giới, và trước hết là phải dựa trên thay đổi đường lối
đối nội và phát triển đất nước. Bởi vì ngoại giao nào
cũng phải xuất phát từ đối nội.
Thực tế nêu trên càng khẳng định cần thấm nhuần bài học
của cha ông ta: Phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh để trải
chiếu hoa mời giặc về sau khi đánh bại chúng, và trong hòa
bình phải xác lập ý chí thực hiện nền ngoại giao dấn thân
đi với cả thiên hạ - vì mình, mình vì người, và từ đó
tạo ra tình thế mọi người vì mình[29].
Rõ ràng là phải mất bao nhiêu hy sinh xương máu và thời gian
trong các cuộc kháng chiến mới hoàn thành được giải phóng
và thống nhất đất nước, rồi lại phải chờ đến lúc
xảy ra biến cố lịch sử rất quan trọng của thế giới là
sự kết thúc chiến tranh lạnh, rồi còn phải nhờ cả hai
điều quan trọng này hội tụ với nhau về thời gian nên mới
tạo ra được cho nước ta hai cơ hội lớn: (a) cơ hội thực
hiện sự thống nhất dân tộc ở tầm cao của trí tuệ và ý
chí dựa trên dân chủ, (b) cơ hội bức phá đứng lên là một
quốc gia độc lập tự chủ đi với cả thế giới . Nhưng rút
cuộc cả hai cơ hội lớn này không được tận dụng! Hơn
nữa, sau đó đất nước bị đẩy vào một chặng đường
không mong đợi, lận đận mất mấy thập kỷ về nhiều mặt
cho đến hôm nay. Ngoài ra trong suốt 35 năm thời bình đầu tiên
còn biết bao nhiêu cơ hội và lợi thế khác của đất nước
không khai thác được:
· vị thế "cầu nối" của Việt Nam trong địa kinh tế,
trong địa chính trị của khu vực và trên thế giới,
· vai trò của Việt Nam trong ASEAN,
· vai trò của Việt Nam 2 năm là ủy viên không thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,
· vân... vân...
Trong 35 năm qua nước ta có không ít nỗ lực và sáng kiến
ngoại giao, nhưng đường lối đối ngoại và thực lực nội
trị như vậy khiến cho kết quả đạt được còn xa mong đợi,
nhiều sáng kiến thiếu sức sống, chưa kể là có không ít
những bước đi trống đánh xuôi kèn thổi ngược (ngoại giao
đi một đằng, nội trị đi một nẻo).
Nếu kết luận được là đã bỏ lỡ mất 2 cơ hội lớn như
vừa trình bày trên (*thực hiện sự thống dân tộc ở tầm
cao, *trở thành một nước độc lập tự chủ đi với cả thế
giới), sẽ có thể kết luận tiếp là nước ta hiện nay vẫn
đang còn hội đủ điều kiện đẩy mạnh việc hoàn thiện sự
nghiệp thống nhất dân tộc ở tầm cao của ý chí và trí tuệ
trên nền tảng dân chủ, và đủ điều kiên dấn thân độc
lập tự chủ hợp tác với cả thế giới để đi vào giai
đoạn phát triển mới, để sớm trở thành một nước phát
triển và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng với nước
ta. Đương nhiên việc chậm trễ mất hai, ba thập kỷ như vậy
gây ra những khó khăn mới nhất định và phải trả giá, nhưng
điều quan trọng là vẫn còn điều kiện tìm cách nắm lại 2
cơ hội lớn này. Cần nói ngay: Tình hình và nhiệm vụ trước
mắt đặt ra cho nước ta đang đòi hỏi phải khẩn trương dốc
toàn lực và trí tuệ chuyển sang giai đoạn phát triển mới
này, những bài học như vậy rút ra từ lịch sử còn nguyên
giá trị.
Nói riêng về Đảng, để mất hai cơ hội lớn như vừa nêu
trên còn là hậu quả của bảo thủ trì trệ, của sự thiếu
vắng phát huy trí tuệ trong Đảng, tình trạng mất dân chủ
trong Đảng. Tính tiền phong chiến đấu của lãnh đạo và của
từng đảng viên sa sút cũng góp phần quan trọng gây ra tình
trạng này. Vì vậy, toàn Đảng phải chịu trách nhiệm trước
đất nước. Phải nhấn mạnh điều này, vì đây là kinh
nghiệm xương máu cho lãnh đạo và cho toàn thể đảng viên
đối với sự nghiệp của Đảng và của đất nước từ nay
về sau. Cần nhấn mạnh: Để cho Đảng có nhiều vấp váp
lớn, đất nước có nhiều vấn đề nghiêm trọng như ngày nay,
không một đảng viên nào được phép đứng ngoài phủi tay,
rồi nói là mình vô can!
■ <span class="underlined-text">Xin nêu thêm một chữ "nếu"
lớn khác thứ ba không kém phần quan trọng</span>:
Nếu đem vấn đề cải tạo tư sản hôm qua, nhất là đợt
cải tạo tư sản ở miền Nam sau 30 Tháng Tư, đặt bên cạnh
những việc đã làm trong 25 năm đổi mới để suy nghĩ... Nếu
đem thực trạng của "giai cấp tư sản" bị cải tạo lúc
đó ở miền Nam ra so sánh với tình hình phân bổ - tích tụ
của cải, và tình hình các hình thái và quy mô các doanh nghiệp
các thành phần kinh tế, các loại hình tích tụ sở hữu, các
hình thái kinh tế đang có trong nền kinh tế nước ta hôm nay...
Nếu làm như vậy, sẽ không tránh được phải tự hỏi: Phải
chăng với cuộc cải tạo tư sản ở phía Nam, sau những năm
đổi mới kinh tế đất nước đã đi trọn một vòng tròn để
trở lại đúng điểm xuất phát, và giờ đây đất nước đang
tìm cách xuất phát / cất cánh từ điểm đã xuất phát ấy
cách đây 35 năm? Phải chăng cải tạo tư sản như thế hiển
nhiên là thừa và sai, với biết bao nhiêu hệ lụy đến hôm nay
chưa khắc phục xong? Tệ hại hơn nữa là cải tạo tư sản ở
miền Nam đã bỏ qua tất cả những sai lầm đã vấp phải khi
tiến hành cải tạo công thương ở miền Bắc…[30]
Song quan trọng hơn thế, cho đến hôm nay đường lối phát
triển kinh tế của Đảng vẫn chưa tự giác và chưa giải
quyết thành công vấn đề sở hữu nhà nước và sở hữu tư
nhân trong kinh tế, mối quan hệ tối ưu giữa hai thành phần
kinh tế này cần tạo ra cho quốc gia (chứ không phải cho cái
nhân danh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa). Hiện nay
Đảng vẫn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với
nội dung không rõ ràng, luật pháp và thể chế cho quốc doanh
còn nhiều sơ hở. Đảng vẫn giải thích đặc trưng của kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta
là dựa trên công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu…
Trên thực tế là: Nhân danh độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội, nhân danh giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa và nhân danh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với nội
dung nêu trên, quyền lực trong Đảng đang tiếp tục duy trì
những phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế
tư nhân, với kết quả là tình trạng độc quyền của khu vực
kinh tế quốc doanh – nhất là của các tập đoàn nhà nước
– vẫn tiếp tục gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, dẫn
tới hiệu quả kinh tế thấp; vốn liếng thuộc sở nhà nước,
đất đai và tài nguyên bị thất thoát lớn; môi trường kinh
tế bị bóp méo, môi trường tự nhiên bị hủy hoại trầm
trọng. Tất cả cái nhân danh này muốn nhằm vào mục đích
cuối cùng là bảo vệ vai trò và quyền lãnh đạo của Đảng,
nhưng kết quả cuối cùng đạt được lại là: Chính bản thân
Đảng đang bị quyền lực kinh tế này lũng đoạn, sẽ còn
tiếp tục bị lũng đoạn! Đây là mối nguy hàng ngày và trực
tiếp đối với Đảng.
Nước ta đang đứng trước thực tế: So sánh tổng cái thu về
với tổng cái vốn bỏ ra (kể cả những cái "mất") cho kinh
tế quốc doanh với cái vai trò chủ đạo Đảng biệt đãi nó,
ta sẽ chỉ thu được một hiệu số âm. Tình trạng này đang
bị căn bệnh nan y làm trầm trọng thêm, đó là sự câu kết
tự nhiên giữa "tập đoàn kinh tế quốc doanh + nền kinh tế
GDP tỉnh + tư tưởng nhiệm kỳ". Bộ ba này được thiết kế
với mục đích làm cấu trúc nền tảng cho duy trì quyền lực
của Đảng. Nhưng bản chất tự nhiên của từng yếu tố này
tự nó lại tạo ra sự liên kết 3 trong 1 và 1 trong 3 , cái này
có trong cái kia; thậm chí tự nó phát triển theo hướng cái
này tạo ra cái kia, cái này muốn tồn tại phải dựa vào cái
kia… Kết cục cấu trúc này tạo ra sự câu kết giữa cả 3
yếu tố với nhau. Chính câu kết bộ 3 này tự nó tạo ra -
thực chất là tự nó tha hoá thành một thứ quyền lực trong
Đảng, ngày càng vượt ra ngoài sự kiểm soát của Đảng. Đó
cũng là cấu trúc điển hình của câu kết giữa quyền lực
chính trị và quyền lực kinh tế, trở nên bất khả kháng,
thậm chí đang ngày càng ngấm ngầm đối kháng đối với Hiến
pháp và Điều lệ Đảng.
Câu kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị
luôn xảy ra trong bất kỳ hình thái xã hội nào ở bất kỳ
quốc gia nào, bắt buộc đặt ra cho nhà nước pháp quyền
nhiệm vụ phải kiểm soát và tìm cách vô hiệu hóa sự câu
kết này. Ở nước ta sự câu kết của bộ 3 nêu trên, đang
vận động theo xu hướng tự nó trở thành một thứ quyền
lực riêng cho chính nó, đang tìm cách lũng đoạn Đảng và toàn
bộ đời sống mọi mặt của đất nước. Thực tế này thể
hiện rõ nhất qua sự hình thành các nhóm lợi ích, không hình
không bóng, hoặc đôi khi rất ngang nhiên dưới những "chính
danh" nào đó[31] đang chi phối đất nước… Thực tế này là
nguồn gốc hình thành những quyết sách và quyết định kinh
tế mà lẽ phải không sao giải thích nổi, quan liêu và tham
nhũng trở thành quốc nạn ngày càng khó kiểm soát. Không thể
không đặt ra câu hỏi vai trò các nhóm lợi ích này tác động
tới đâu trong việc hình thành những quyết định về bauxite
Tây Nguyên, sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô, phá nhà Quốc Hội Ba
Đình, việc Trung Quốc lần lượt thắng thầu liên tiếp nhiều
công trình kinh tế lớn quan trọng tầm quốc gia, vân vân…
Hiện nay dư luận cả nước đang nhức nhối việc từ mấy
năm nay 10 tỉnh cho nước ngoài – chủ yếu là Trung Quốc –
thuê rừng, đến nay đã lên tới khoảng trên 30 vạn hecta –
trong đó có nhiều địa điểm xung yếu của quốc gia (dù mới
chỉ thực hiện được một phần)… Hiện tượng này cho
thấy các nhóm lợi ích đang từng bước làm tê liệt và làm
mục ruỗng chế độ chính trị của đất nước, xâm hại
nghiêm trọng an ninh và lợi ích quốc gia. Vấn đề cho thuê
rừng còn trở nên rất nghiêm trọng ở chỗ việc làm này chưa
được nhìn nhận là một tội lỗi không thể tha thứ của
"sự câu kết bộ 3" này: bán rẻ lợi ích và an ninh quốc
gia mà không ý thức được hoặc cố tình không ý thức được
là bán rẻ[32]. Nói theo ngôn ngữ của Marx và Engels: Sự câu
kết "bộ 3" này đang từng giờ, từng ngày vô hiệu hoá
Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, cản trở thực thi luật
pháp của nhà nước, đang trực tiếp gây ra cho Đảng những
thách thức hiểm nghèo không một lực lượng chống đối nào
có thể làm được! Đó cũng là những thách thức nguy hiểm cho
đất nước.
Xin lưu ý, sở hữu nhà nước nói chung và đặc biệt là các
tập đoàn kinh tế nhà nước đang là vấn đề tồn tại lớn
chưa có lời giải. Hiệu quả kinh tế thấp và khả năng lũng
đọan lớn là hai tác động chính kìm hãm sự phát triển mọi
mặt của đất nước.
Đại hội XI đứng trước thực tế: Nhìn chung mức thành tựu
nước ta đạt được là cao nếu so ta hôm nay với ta hôm qua,
song lại là rất thấp so với cái giá phải trả và so với
nhiều nước chung quanh. Ta có rất nhiều công trình kinh tế
lớn giá xây dựng đắt (có khi đắt gấp đôi, gấp ba), công
nghệ thấp, không bền, không đẹp bằng, hiệu quả và sức
cạnh tranh thấp, tuổi thọ kém... Cuối năm 2008 dự trữ ngoại
tệ của nước ta ước khoảng 23 tỷ USD, cuối 2009 còn khoảng
15 tỷ USD (thấp nhất kể từ 1994 tính theo khối lượng nhập
khẩu/tháng và hiện nay có chiều hướng còn giảm nữa – theo
đánh giá của Fitch), trong vòng 3 tháng (từ 11-2009 đến 1-2010)
đồng tiền Việt Nam phá giá hai đợt tổng cộng là -8,4%, thâm
hụt ngân sách quốc gia hiện vượt quá mức Luật cho phép, lãi
suất tín dụng cao ngất ngưởng chưa từng có trong 25 năm đổi
mới vì mối lo lạm phát cao... Chỉ số ICOR nước ta những năm
gần đây đã vượt con số 6, cao nhất trong khu châu Á – Thái
Bình Dương và ngày càng cao, kinh tế quốc doanh chiếm tới 2/3
vốn liếng toàn xã hội và được dành cho nhiều đặc quyền
lớn nhưng chỉ làm ra non nửa của cải cho xã hội, những vụ
việc tiêu cực ngày càng khó kiểm soát, quyền lực và ảnh
hưởng chi phối của các tập đoàn quốc doanh ngày càng lớn.
Đời sống kinh tế văn hóa của một bộ phận đông đảo dân
cư lao động còn thấp và bấp bênh, nhu cầu về việc làm gay
gắt; đời sống và tiền đồ của thanh niên có nhiều vấn
đề rất đáng lo; bất công trong xã hội còn nhiều, v.v. Ngay
trước mắt, triển vọng tình hình cho thấy sau 45 năm (1975-2020)
xây dựng đất nước trong hòa bình, có lẽ hầu như không thể
hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước vào năm
2020.[33]
Quan điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đang ngăn cản
những cải cách rất cần thiết đối với chính bản thân kinh
tế quốc doanh. Hơn nữa, bản thân vấn đề cải cách khu vực
kinh tế quốc doanh và vấn đề sở hữu nhà nước là việc
khó, đến nay chưa được nghiên cứu nghiêm túc để tìm ra
giải pháp nào là tối ưu nhất cho nước ta với tính cách là
một quốc gia có xuất phát điểm rất thấp và rất cần vận
dụng hợp lý các hình thái tích tụ vốn khác nhau mà nền kinh
tế hiện có. Tình hình phức tạp đến mức các Đại hội
Đảng vừa qua tiếp tục khẳng định kinh tế quốc doanh là
chủ đạo, song chưa làm sao đưa ra được một định nghĩa
nhất quán thế nào "chủ đạo". Hiện nay định hướng xã
hội chủ nghĩa được nhấn mạnh một cách khiên cưỡng ở
chỗ nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của công hữu
các tư liệu sản xuất chủ yếu![34] Chủ trương phát huy tất
cả các thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật vì thế không thực hiện được như đã ghi trong các
nghị quyết của Đảng.
Vân vân…
Nhìn vào mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước hiện nay, cũng thấy việc thực hiện các quan điểm kinh
tế quốc doanh là chủ đạo, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội…
có nhiều hiện tượng mang nội dung nhân danh như vậy. Tình
trạng này đang ngày càng trầm trọng thêm do hiện tượng
"đảng hóa" toàn bộ hệ thống chính trị, nhà nước và xã
hội cũng như việc thiết kế các chính sách và phương thức
thực hiện.
Tóm lại, thời kỳ ban đầu chỉ có những hạn chế của ý
thức hệ gây ra những khó khăn và sai lầm của Đảng. Song
càng về sau, nhất là trong những năm gần đây, những hạn
chế về tư duy, về tầm nhìn, cùng với sự tha hóa ngày càng
gia tăng, đã làm cho những yếu kém và sai lầm này ngày càng
trở nên trầm trọng hơn, nhất là trong khi đó tình hình mọi
mặt của đất nước ngày càng đề ra những đòi hỏi khó
khăn phức tạp hơn trước rất nhiều.
Điều đặc biệt nguy hiểm là quá trình "đảng hóa" đang
được coi là phương thức lãnh đạo toàn diện và tối ưu,
song kết quả đạt được lại là cản trở nghiêm trọng việc
xây dựng nhà nước pháp quyền, làm cho cả Đảng và hệ
thống chính trị ngày càng cồng kềnh, yếu kém, ngày càng bất
cập và quan liêu hơn, cũng có nghĩa là sự quan liêu ăn bám
của toàn bộ hệ thống chính trị đang gia tăng (sẽ bàn sâu
thêm ở phần sau);[35] đất nước ngày càng gặp nhiều khó
khăn, đời sống văn hóa - xã hội xuống cấp. Mong rằng rồi
đây sẽ có những công trình nghiên cứu đánh giá khách quan và
chuẩn xác đoạn đường 35 năm đầu tiên nước ta đã trải
qua sau khi giành được độc lập thống nhất.
Nói thêm về văn hóa: Nếu nhìn nhận văn hóa là nguồn lực
gìn giữ những giá trị truyền thống, tạo ra những giá trị
mới để làm nên tố chất và đạo đức con người và đúc
kết thành bản lĩnh của một dân tộc, nếu nhìn nhận văn hóa
được kết tinh thành ý chí tự lực tự cường của một dân
tộc dám vươn lên sánh vai với thiên hạ.., có lẽ có thể nói
văn hóa nước ta hiện đang ở thời kỳ sa sút nhất kể từ
Cách mạng Tháng Tám đến nay – thậm chí có những mặt sa
đọa đến thảm hại.
Chỉ cần lướt qua các tội ác hình sự, các đổ vỡ và biết
bao nhiêu bê bối, tệ hại khác được đăng tải trên các trang
báo giấy và báo mạng hàng ngày, nạn "đạo văn" và bằng
giả, hội hè liên miên mọi miền đất nước, đọc các thông
tin bị cắt xén, các tin tức có định hướng một cách sai
lệch, các bài chính luận vô hồn... cũng đủ thấy đau buồn
về đời sống văn hóa – xã hội của đất nước. Đời
sống văn hóa – xã hội của giới trẻ nước ta càng nhiều
vấn đề nan giải. Bên cạnh một số thành tựu nhất định
đạt được trong lĩnh vực văn hóa – xã hội 25 năm qua (đáng
nói nhất có lẽ là việc giảm tỷ lệ đói nghèo), nhìn chung
sự sa sút văn hóa là một hiện tượng trầm trọng, trước
hết do hai nguyên nhân chủ yếu gây ra: (a) Sự băng hoại kỷ
cương quốc gia từ thượng tầng kiến trúc, (b) nghèo đói và
mọi tha hóa khác đến từ tình trạng bất bình đẳng và bất
công trong kinh tế.
Nếu coi suy đồi về văn hoá là tấm gương phản chiếu suy vong
của đất nước, có lẽ sẽ còn đau lòng hơn nhiều!
Tình trạng sa sút về văn hóa nguy hiểm tới mức dối trá trong
không ít trường hợp gần như vừa là phương tiện vừa là
cứu cánh trong hành xử của con người cũng như của những bộ
phận dân cư nhất định trong xã hội. Có lẽ nên coi đây là
yếu kém trầm trọng nhất trong đời sống văn hóa – xã hội
nước ta, là yếu kém gốc đẻ ra mọi tha hóa trong xã hội,
bởi vì nó đảo lộn hoặc vô hiệu hóa nhiều giá trị, luật
pháp, thước đo và chuẩn mực. Sự sa sút về văn hoá đang gây
ra nhiều tác động có tính tàn phá, để lại hệ quả lâu
dài, thậm chí nó có thể đánh cắp hoặc hủy hoại niềm tin.
Có thể thấy rõ sự tàn phá này trong lĩnh vực giáo dục, trong
thực thi pháp luật, trong phẩm chất và tính chất tin cậy
được của con người cũng như bộ máy của hệ thống chính
trị đất nước, vân vân...
Nhiều hiện tượng tiêu cực phổ biến gần như trở thành
một loại văn hóa sống của không ít người trong hàng ngũ
chức sắc đã tới mức gây nhức nhối trầm trọng trong xã
hội, có thể khái quát như sau:
<ul><li>Cơ hội tranh thủ vơ vét</li>
<li>Tài nguyên tranh thủ khai thác</li>
<li>Đất đai tranh thủ chia chác</li>
<li>Thi nhau phô trương địa vị, bằng cấp (chất lượng thấp,
giả và rởm)</li>
<li>Việc khó đùn cho tương lai hoặc cho người khác</li>
<li>Giả vờ đạo đức và giả vờ yêu nước... </li></ul>
Vì sa sút văn hóa nói chung, nên chất lượng con người, chất
lượng cuộc sống, chất lượng xã hội – suy rộng ra nữa là
chất lượng của dân tộc – đang đặt ra nhiều vấn đề
mới nghiêm trọng, trí tuệ và nhuệ khí của dân tộc đang bị
kìm hãm, mê tín dị đoan phát triển.
Trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta, tiêu cực và các
mặt xuống cấp đang tạo ra một sức ỳ nguy hiểm, tổng hợp
nhiều tính xã hội sâu sắc: thờ ơ, thất vọng, trần tục...
Sức ỳ này hủy hoại vốn xã hội, nuôi dưỡng tâm lý thờ ơ
hay chịu khuất phục trước mọi sai trái, tạo thuận lợi cho
lối sống tạm bợ, chụp giựt (vô luật pháp) hay ngu dân…
Trong cuộc sống, ngày càng nhiều tội ác hình sự rùng rợn
chưa từng có, các tội ác kinh tế gây nhiều thiệt hại lớn,
các hiện tượng không nghiêm minh trong luật pháp ngày càng
trầm trọng… Song điều vô cùng đáng lo là sự phản ứng
trong xã hội vô cùng yếu ớt, hoặc thậm chí nhiều khi trở
nên vô cảm. Đó là cách phản ứng của xã hội? Hay là tình
trạng mất dân chủ, tình trạng bất minh, bưng bít thông tin và
những sai trái khác của hệ thống chính trị nhân danh là
"giữ lề phải", giữ vững "định hướng" đã làm tê
liệt mọi phản ứng lành mạnh lẽ ra cần phải có của xã
hội để hậu thuẫn cho kỷ cương quốc gia và thực thi pháp
luật? Đảng cầm quyền rất cần lo lắng thực trạng này,
bởi vì nó phản ánh lòng dân không yên. Bên cạnh hiện tượng
tham nhũng tiêu cực trong hệ thống chính trị, sức ỳ này trên
thực tế là tăng thêm mất ổn định xã hội, tác động
nghiêm trọng vào sức đề kháng của dân tộc, cản trở ý chí
dân tộc phải vươn lên trên con đường hiện đại hóa đất
nước.
Xin đừng quên, sự đổ vỡ của các triều đại hiển hách
trong lịch sử nước ta thường bắt đầu từ tha hoá, sa đoạ
về văn hoá và đạo đức. Điển hình gần đây nhất là sự
đổ vỡ thời Lê mạt, dẫn đến Trịnh – Nguyễn phân tranh
và nhiều hệ quả lâu dài về sau.[36] Giữ ổn định xã hội
nhân danh "giữ lề phải" như đang làm, muốn hay không là
đang trực tiếp hay gián tiếp nuôi dưỡng tha hoá về văn hoá
và đạo đức, kìm hãm ý chí xả thân vì những giá trị cao
đẹp, đồng thời làm tê liệt khả năng đề kháng của dân
tộc chống lại xâm lăng văn hoá đang diễn ra không ít quyết
liệt!
Như một lẽ tự nhiên của phát triển, cuộc sống mọi mặt
của đất nước ở thời kỳ ban đầu này không thể tránh
được những hiện tượng thực chất là thuộc về thời kỳ
phát triển hoang dã của giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư
bản, nhất là hiện tượng bất công xã hội và phân hóa giàu
nghèo diễn ra gay gắt. Song lẽ ra cần nhìn nhận nghiêm túc
thực tế này để tìm ra đối sách xử lý, thì lại đơn
thuần đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Thậm chí thực tế
này bị xuyên tạc, che đậy, lạm dụng, thỏa hiệp, ru ngủ…
Thêm vào đó là tình trạng bưng bít thông tin và sự thiếu
công khai minh bạch là thủ phạm chính của tình trạng dân trí
thấp, khiến cho sự xuống cấp về văn hóa trầm trọng thêm.
Mặt khác lại duy ý chí nhận định nước ta đang phát triển,
đang xây dựng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
hoặc cho phép thực hiện nhiều hoạt động văn hóa thực chất
là giả tạo, hình thức, không mang tính thúc đẩy tiến bộ xã
hội.
Thậm chí không hiếm những hoạt động văn hóa trên thực tế
là khuyến khích, nuôi dưỡng cái lạc hậu, cái ngoại lai, cái
ngu dân: văn hoá phong bì, văn hoá "quan hệ", văn hoá hàng mã
(của giả, cái giả), văn hoá lễ hội, văn hoá hội thi hội
thảo, văn hoá "cái loa", văn hoá "chăn dắt"… Có thể
nói, không tiền bạc, của cải, công sức nào đổ ra cho những
chủ trương hay hoạt động văn hoá lạc hậu, hình thức, giả
dối… như thế có thể làm nên cái tốt, cái đẹp và sự
vững chãi của đất nước, mà chỉ nuôi dưỡng cái xấu, cái
ác và chuẩn bị thêm cho thảm hoạ mới mà thôi. Trong khi đó
hầu như hiếm có một nỗ lực văn hoá nào đem lại hiệu quả
mong muốn, ngõ hầu cổ suý hay làm chỗ dựa tinh thần cho
những giá trị một quốc gia như nước ta nhất thiết phải hun
đúc – ví dụ như ý chí và đạo đức không gì quý hơn độc
lập tự do của từng người dân và của cả quốc gia, pháp
luật là tối thượng, sống và làm việc theo pháp luật, sự
thật và lẽ phải là trên hết, tôn vinh trí tuệ, ý chí bảo
vệ nền kinh tế quốc gia, ý thức và đạo đức sống vì
tương lai của đất nước và các thế hệ con cháu, vân vân…
Song làm sao có được những nỗ lực này nếu thiếu dân chủ
và bưng bít thông tin? Và trên hết cả là thượng bất chính
hạ tắc loạn, trong tình hình như thế làm sao có được sự
thôi thúc tạo ra những nỗ lực này? Nguy hiểm hơn nữa, trong
khi hầu hết các nước lớn nhỏ trên toàn cầu đang hừng hực
những nỗ lực trên mặt trận văn hoá, tuyên chiến quyết
liệt với những yếu kém của chính nước mình, thúc đẩy tinh
thần dân tộc, để có sức đối phó với tình hình thế giới
đang biến đổi sâu sắc, để nước mình đua tranh thắng lợi
và không chịu thua kém ai (thậm chí nhiều khi rất "sô-vanh"
– chỉ cần ngó sang Trung Quốc là thấy ngay điều này; ngay ở
Mỹ hiện nay có không ít những sách báo của giới trí thức
nổi tiếng theo tinh thần Phải lấy lại nước Mỹ đang bị
đánh mất!…[37]).., thế nhưng mặt trận văn hoá nước ta do
Đảng lãnh đạo đang cổ suý cho cái gì? - Cho giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa? - Cho gì nữa?
Trên góc độ dân tộc, phải chăng có thể nói chưa bao giờ
chúng ta đang tự đánh mất mình như ngày nay, ươn hèn như ngày
nay: Trước cái sai trái hàng ngày trong đời sống, dân không
dám đối mặt. Trước cái nghèo hèn lạc hậu, lương tri đất
nước không biết tủi hổ. Trước sự o ép và uy lực của bên
ngoài, thể diện và danh dự đất nước không giữ được tự
tôn tự trọng… Mâu thuẫn giữa đường lối văn hóa bất
cập hiện hành và thực tế cuộc sống đang diễn ra tự nó
đang góp phần mình vào quá trình tàn phá văn hóa trong hiện
tại.
Hơn nữa, trên thực tế vẫn đang thiếu vắng hẳn một mặt
trận hay là một cuộc sống văn hóa có sức sống năng động,
mang tính giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống, cổ xúy
cho dân chủ tự do, khơi dậy hào khí của dân tộc, hướng dân
tộc đi vào giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó văn hóa
theo lề phải dù được đổ tiền của và công sức như nước
cũng không tạo ra sức sống cho đất nước, nếu chưa muốn
nói là nuôi dưỡng độc hại mới. Tình hình đã chín muồi
phải khẩn thiết đặt ra vấn đề chấn hưng văn hóa, rất
đáng được cả nước quan tâm. Rất không nên để cho những
thành tựu nhất định đạt được trong lĩnh vực văn hóa –
xã hội che lấp thực tế nguy hiểm được nói tới trên đây.
Đứng trước yêu cầu chuyển đất nước sang một giai đoạn
phát triển mới, có thể nói đòi hỏi về chấn hưng văn hóa
bức xúc không kém các đòi hỏi về làm lành mạnh kinh tế và
hệ thống chính trị quốc gia. Chấn hưng văn hóa để có lẽ
sống chân chính và để có nhuệ khí càng là đòi hỏi bức
xúc của thế hệ trẻ nước ta!
Không phải là trăm dâu đổ đầu tằm, nhưng vấn đề hệ
trọng đến mức không thể nói khác được: Đảng phải đổi
mới triệt để, mới hy vọng đề ra được đường lối văn
hóa mới. Không thể có một nền văn hoá tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc làm linh hồn cho chủ nghĩa yêu nước chân
chính trong một thể chế chính trị lạc hậu! Đại hội XI nên
có ý kiến.
Cũng xin nói thêm, những thất bại trọng trong nền giáo dục
hiện tại đang để lại nhiều hậu quả lâu dài có thể xem
như một hoạ lớn cho sự rèn luyện của nhiều thế hệ tới,
thậm chí còn trở thành một di sản văn hoá tai hại không
biết đến bao giờ mới khắc phục được. Vấn đề giáo dục
tự nó luôn luôn là một vấn đề hóc búa đối với mọi
quốc gia. Song ở nước ta, lỗi của giáo dục không chỉ đơn
thuần do sự bất cập của ngành này, mà trước hết do hệ
thống chính trị của đất nước trên thực tế là đề kháng
đối với những giá trị mà một nền giáo dục chân chính
nhất thiết phải theo đuổi. Nói đơn giản: Dạy và học tốt
làm sao được nếu bằng giả và nhiều thứ hàng giả khác còn
đắc dụng, thậm chí chiếm ưu thế?
Chỉ có văn hoá và giáo dục dục mới có thể làm nên diện
mạo một nước Việt Nam mới, sau đó mới đến công nghiệp
hoá –hiện đại hoá! Có văn hoá, có giáo dục, mới có thể
công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại.
(Còn tiếp)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5041), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét