liệt, nhà văn Susan Sontag của Mỹ được mời sang thăm Hà Nội
trong thời gian hai tuần. Về lại Mỹ, bà viết và cho xuất
bản cuốn "Trip to Hanoi" (Farrar, Straus and Giroux, New York, 1968)
gây nhiều tiếng vang. Đến bây giờ vẫn thường được nhắc
nhở.
Sinh năm 1933 và mất năm 2004, Sontag được xem là một trong
những gương mặt xuất sắc và nổi bật nhất của trí thức
Mỹ trong nửa sau thế kỷ 20. Đó là một trí thức cực kỳ
thông minh. Jonathan Miller gọi bà là "người phụ nữ thông minh
nhất nước Mỹ", một nhận định được nhiều người
đồng ý. Không những thông minh, bà còn là một cây bút đa
năng và đa tài, tung hoành trong nhiều thể loại khác nhau, từ
truyện ngắn đến truyện dài, từ phê bình đến lý luận; bao
quát nhiều lãnh vực khác nhau, từ văn học đến triết học,
nhiếp ảnh, điện ảnh và xã hội; có khả năng gây ấn
tượng mạnh ở người đọc không những ở những ý tưởng
sâu sắc mà còn ở giọng văn độc đáo và quyến rũ.
Đó cũng là một trí thức dấn thân, sẵn sàng tham gia các
cuộc tranh luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống,
và sẵn sàng xuống đường biểu tình để bênh vực cho những
điều mình tin tưởng, nhờ vậy, bà trở thành một thứ
"sao" (celebrity), một trong vài trí thức hiếm hoi trở thành
"sao" trong thời hiện đại, qua đó, làm mờ nhạt ranh giới
giữa văn hoá đặc tuyển và văn hoá đại chúng, giữa nghệ
thuật và truyền thông.
Cuối cùng, đó là một trí thức độc lập, lúc nào cũng gây
hấn với mọi thứ quyền lực, từ quyền lực chính trị đến
quyền lực văn hoá; lúc nào cũng thách thức với mọi thành
kiến, từ thành kiến của xã hội đến thành kiến của chính
mình; không ngại thay đổi cách nhìn nếu bà tin là sự thay
đổi ấy đúng đắn. Một trong những sự thay đổi ấy là về
thái độ chính trị: Nếu trong thời chiến tranh Việt Nam, Sontag
được xem là một trí thức khuynh tả, ủng hộ Việt Nam và
Trung Hoa, thì sau này, khi phát hiện ra bộ mặt thật của chủ
nghĩa cộng sản, bà không ngần ngại lên án nó, xem đó chỉ
là một thứ "chủ nghĩa phát xít mang mặt người" (fascism
with a human face), như lời bà tuyên bố trong cuộc biểu tình
tại Manhattan vào năm 1982 để ủng hộ phong trào Đoàn Kết ở
Ba Lan.
Hiểu rõ nhiệt tình và ảnh hưởng của Sontag, đầu năm 1968,
Hà Nội mời bà sang thăm Bắc Việt. Bà là một trong những trí
thức đầu tiên của Mỹ sang thăm Bắc Việt thời ấy. Cuốn
"Trip to Hanoi", xuất bản năm 1968, đúc kết những quan sát
lẫn những suy nghĩ của bà trong thời gian ở Hà Nội. Dĩ
nhiên, chúng ta không thể kỳ vọng quá nhiều ở những quan sát
và suy nghĩ trong vòng hai tuần lễ như thế. Đó là một thời
gian quá ngắn. Tuy vậy, vốn sắc sảo, Sontag cũng nhận ra một
số điểm rất thú vị, trong đó, có một điểm liên quan đến
văn hoá Việt Nam. Trong bài này, tôi chỉ xin tập trung vào
điểm ấy mà thôi.
Sontag kể, lúc ở Hà Nội, bà gặp được khá nhiều trí thức,
kể cả những trí thức hàng đầu và đang nắm giữ nhiều
chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Bắc, như Tạ Quang
Bửu, Bộ trưởng Giáo dục, và Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng
Y tế. Dù rất có cảm tình và ủng hộ họ, bà cũng nhận ra
một điều: hầu như không thể đối thoại với họ được.
Không phải vì lý do ngôn ngữ: từng học ở Paris, Sontag nói
tiếng Pháp rất giỏi; hầu hết các trí thức Việt Nam thời
ấy cũng đều nói tiếng Pháp giỏi. Cũng không phải vì chính
trị: thời ấy, Sontag là một người khuynh tả và ủng hộ
Việt Nam chống lại Mỹ, quê hương của bà.
Lý do chủ yếu là vì văn hoá.
Khi hỏi về tình hình Việt Nam, từ giáo dục đến y tế, bao
giờ Sontag cũng xuất phát từ sự so sánh có tính liên văn hoá
(cross-cultural comparison), chẳng hạn, những thành tựu của Việt
Nam có gì khác biệt với các nước khác trong khu vực hoặc
trên thế giới, hoặc, đơn giản hơn: nền y tế Việt Nam phát
triển theo hướng Tây phương hoá hay kết hợp giữa Tây y và
Đông y. Rất hiếm khi bà được trả lời. Thậm chí những
người được hỏi còn thấy khó chịu. Tất cả đều lờ đi
và trả lời theo một nếp quen thuộc giống nhau như từ một
khuôn: họ cho bà một bài giảng tóm lược những sự thay đổi
của Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến lúc ấy. Đại khái:
thời Pháp thuộc, có bao nhiêu trường học và bao nhiêu bệnh
viện, còn bây giờ thì…. V.v… Bao giờ cũng thế. Cũng so sánh
hiện tại với quá khứ. Và chỉ là quá khứ của Việt Nam.
Bà viết:
"<em>Chúng tôi để ý thấy khi chúng tôi thảo luận hay hỏi
về đất nước ngày nay, mọi câu trả lời đều xoay quanh một
thời điểm quan trọng nào đó: thường, hoặc là tháng Tám 1945
(ngày cách mạng Việt Nam chiến thắng và là ngày Hồ Chí Minh
tuyên bố thành lập nhà nước độc lập) hoặc là năm 1954
(ngày đánh đuổi thực dân Pháp) hoặc năm 1965 (Mỹ bắt đầu
leo thang chiến tranh, theo cách nói của họ). Mọi thứ đều
hoặc là trước hoặc là sau một cái gì khác.</em>"
Sontag tóm tắt sự khác biệt giữa bà và các trí thức Hà Nội
thời ấy: "<em>Khung nhận thức của họ mang tính lịch đại
(chronological). Còn khung nhận thức của tôi lại vừa lịch
đại vừa địa lý (geographical).</em>" (trang 23-25)
"Địa lý", thật ra, chỉ là cách gọi khác của khái niệm
đồng đại (synchronical).
<h2>Thế nào là lịch đại và thế nào là đồng đại?</h2>
Cả hai thuật ngữ đều xuất phát, trước hết, từ lãnh vực
ngôn ngữ học. Lịch đại là cái nhìn theo chiều dọc, mang
tính lịch sử, theo đó, mọi thứ đều đặt trong quan hệ với
những gì trước và sau đó. Đồng đại, ngược lại, là cái
nhìn theo chiều ngang, theo đó, mọi thứ đều đặt trong tương
quan với những thứ khác ở những nơi khác, cùng thời. Cuộc
cách mạng trong lãnh vực ngôn ngữ học nảy sinh chủ yếu từ
việc thay đổi cách nhìn: thay vì nhìn theo chiều lịch đại
như ngày xưa, người ta chỉ tập trung ở khía cạnh đồng
đại.
Bài học từ lãnh vực ngôn ngữ học được ứng dụng khắp
nơi: Người ta không thể đánh giá bất cứ một sự kiện hay
một hiện tượng nào nếu bỏ qua chiều kích đồng đại.
Đặc biệt trong thời toàn cầu hoá hiện nay.
Kinh tế và đời sống của người dân Việt Nam hiện nay khá
hơn hẳn. Nhưng hơn hẳn so với cái gì? Ở Việt Nam, người ta
chỉ có một cách trả lời duy nhất: so với thời bao cấp, hay
so với thời còn chiến tranh, hoặc, xa hơn nữa, so với thời
Pháp thuộc. Đành là đúng. Nhưng cái đúng ấy còn rất què
quặt nếu người ta không thấy một tươnq quan so sánh khác:
Nhưng so với các nước khác trên thế giới, hoặc ít nhất,
trong khu vực, thì sao? Kinh tế và đời sống Việt Nam hiện nay
như thế nào nếu so sánh với Thái Lan, Singapore hay Hàn Quốc,
chẳng hạn?
Về phương diện dân chủ hay nhân quyền cũng thế. Người ta
chỉ chăm chăm so sánh với thời Pháp thuộc. Nhưng còn so với
thế giới thì sao?
Bỏ đi chiều kích đồng đại, cái gì cũng chỉ so sánh với
trước năm 1986 hay trước năm 1975, 1954, 1945, người ta tự
đặt ở cái thế từ lừa dối mình.
Và lừa dối người khác.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5803), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét