"thư khẩn" của nhà văn Bùi Minh Quốc. Thì ra đây là bài
tham luận của anh trước thềm Đại hội Nhà Văn lần thứ
VIII. Tôi đọc một mạch, thấy ý kiến của anh thật tâm
huyết. Anh muốn gióng lên một tiếng chuông từ trái tim nhà
văn luôn phụng sự Tổ quốc. Ý kiến của anh có thế còn
phải bàn bạc thảo luận thêm. Tôn trọng chính kiến nhà văn,
NTT.ORG xin giới thiệu nguyên văn cả thư và bài tham luận của
anh cùng các bạn.</div>
<em>Kính gửi anh Hữu Thỉnh chủ tịch, anh Nguyễn Trí Huân, anh
Lê Văn Thảo phó chủ tịch Hội</em>
<em>Kính gửi các anh chị trong ban chấp hành Hội</em>
Ngày 18.07.2010 tôi nhận được giấy mời do anh Hữu Thỉnh ký,
yêu cầu gửi tham luận tới Hội trước ngày 25.07.2010.Bấy lâu
cứ đinh ninh về dự đại hội sẽ trao tham luận cho chủ tịch
đoàn rồi chờ đến lượt thì lên diễn đàn, nên khi nhận
được giấy mời mới vội bắt tay viết, bây giờ ( gần 0g
ngày 25.07.2010 ) mới xong.Vì vậy tôi gửi theo đường thư
điện tử về địa chỉ báo điện tử của Hội do anh Thỉnh
làm tổng biên tập.Tôi nhờ anh Thỉnh cho đăng ngay lên báo, coi
như tôi đọc tham luận trước thềm đại hội, phòng trường
hợp chủ tịch đoàn sơ ý bỏ lọt tham luận của tôi ở cuối
xấp giấy nằm chờ.Tôi cũng gửi tham luận này đến blog và
web của các đồng nghiệp hội viên Nguyễn Huệ Chi, Trần
Nhương, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Nguyễn Quang Lập, Phạm
Viết Đào nhờ công bố giùm luôn thể, trân trong cám ơn.
<h2>BÙI MINH QUỐC - TỔ QUỐC VÀ TỰ DO</h2>
(Tham luận tại đại hội lần thứ 8 Hội nhà văn Việt Nam )
Trong bóng tối bí mật đầy vật vã của một cơn đau đẻ
lịch sử lớn, vào những đêm hè năm 1945, tại làng Dục Tú
huyện Đông Anh, Hà Nội – làng quê của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng – có hai chiến sĩ cách mạng thức trắng trước trang
giấy cặm cụi viết.Hai chiến sĩ ấy, một người 32 tuổi,
một người mới 21 tuổi, được Đảng giao nhiệm vụ viết
một bản báo cáo về văn hóa để trình bày trong đại hội
toàn dân sắp họp tại Tuyên Quang (thuộc khu Giải phóng).Bản
báo cáo ấy, khi hoàn thành vào ít ngày sau, mang tên: "MỘT
NỀN VĂN HÓA MỚI".Hai chiến sĩ cách mạng đồng tác giả là
Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi, thành viên nòng cốt của
tổ chức Văn hóa cứu quốc Việt Nam, tiền thân của Hội nhà
văn Việt Nam (cùng các hội khác thuộc lãnh vực văn hóa nghệ
thuật).
Hôm nay chúng ta họp đại hội lần thứ 8, xin hãy cùng nhau
đọc lại đoạn sau đây trong văn kiện lịch sử đó:
"Ban bố triệt để quyền tự do tư tưởng và tự do
ngôn luận chính là cởi mở cho văn hoá dân tộc trở nên sầm
uất và đem một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hoá
đã bao lâu phải sống trong những phòng ngục chật hẹp, thiếu
ánh sáng, thiếu hơi nóng của mặt trời. Sách vở và báo chí
được xuất bản tự do, nền văn nghệ của ta mới có thể
dồi dào, phong phú." ("MỘT NỀN VĂN HÓA MỚI" - Nguyễn
Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi – Hội Văn hoá Cứu quốc Việt
Nam, trong Mặt trận Việt Minh, xuất bản -Hà Nội – 1945 – in
lần thứ hai – trang 45).
Các quyền thiêng liêng ấy - tự do tư tưởng và tự do ngôn
luận – đã lập tức được hiến định trong Hiến pháp của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946. Và đã hiện ra sầm
uất trong đời thường.Xin hãy nhìn lại hoạt động báo chí
và xuất bản trên khắp đất nước ta từ 19 tháng 8 năm 1945
đến suốt năm 1946 cũng đủ thấy sự sầm uất đầy sinh khí
đó (một sự sầm uất mà ngày nay, cay đắng thay, chúng ta đang
thiết tha mong mỏi được sớm có lại). Và không chỉ trong sinh
hoạt báo chí xuất bản là công việc của những người trí
thức ở thành phố, mà ngay cả trong đời sống bình thường
của người nông dân ở các làng quê.
Xin hãy cùng nhau đọc lại mấy câu thơ Hồng Nguyên :
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau
Có tiếng gà gáy xóm
Có "khai hội, yêu cầu, chất vấn !"
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa
Đó là hình ảnh bình thường bình dị của làng quê Việt Nam
trong tâm tưởng anh bộ đội Cụ Hồ trên đường hành quân
nhớ về hậu phương.Giữa những bờ tre mái rạ thân mật quen
thuộc, hiện ra một cảnh đời vô cùng mới mẻ nghìn đời
mới thấy: "Có khai hội, yêu cầu, chất vấn!". Chỉ với
mấy từ "chính trị chay" đúc thành một câu thơ hồn nhiên
mộc mạc, Hồng Nguyên đã tạc vào lịch sử một sự thật
hùng hồn của đời sống nông thôn Việt Nam mới, của con
người Việt Nam mới.Một tố chất chính trị mới, văn hóa
mới đã xuất hiện trong những con người bao đời lam lũ
dưới bùn lầy nước đọng, giữa những công việc cày bừa
cấy gặt quen thuộc nghìn đời đã biết làm một công việc
mới: tổ chức khai hội, và trong khai hội, biết yêu cầu,
chất vấn. Có lẽ đến nay, sau 65 năm, chúng ta cũng chưa thấm
thía hết ý nghĩa sâu xa của cuộc đổi đời, tự đổi đời
vĩ đại này mà chiến sĩ cách mạng, nhà thơ cách mạng Nguyễn
Đình Thi đã ghi lại trong 2 câu thơ:
Nước Việt Nam từ máu lửa
Giũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Cả dân tộc Việt Nam, từng con người Việt Nam, với sức
quật cường hun đúc từ thuở Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống
ách đô hộ Đại Hán Trung Quốc, với những bậc "hào kiệt
đời nào cũng có" (Nguyễn Trãi), từ trong đêm dài "trăm
năm nô lệ giặc Tây" ( lời nhạc Trịnh Công Sơn) vùng lên
làm Cách mạng Tháng Tám giành lại Độc lập cho nước Việt
Nam, thiết lập chế độ mới, chế độ DÂN CHỦ CỘNG HÒA
ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC.Ánh sáng chói lòa tỏa ra từ con
người Việt Nam mới, trong tư thế mới : con người tự
do.Phải, con người Việt Nam mới chính là con người tự do.Từ
đây đất nước Việt Nam độc lập do con người tự do Việt
Nam làm chủ, mọi công việc của đất nước Việt Nam do con
người tự do Việt Nam quyết định.Con người Việt Nam sống
một nếp sống mới, có khai hội, yêu cầu, chất vấn; khai
hội một cách thực chất, yêu cầu đến nơi đến chốn, chất
vấn đến nơi đến chốn trước khi cùng nhau quyết
định.Quyết định quan trọng nhất là giữ cho bằng được
nền độc lập của Tổ Quốc, giữ cho bằng được quyền tự
do của mỗi con người.Bằng việc thiết lập chế độ dân
chủ cộng hòa, con người Việt Nam ngộ ra sức mạnh của
quyền dân và quyền dân làm nên sức mạnh của Tổ Quốc Việt
Nam.Tổ Quốc, một giá trị nghìn đời, và Tự do, một giá
trị phương tây được tự giác tiếp nhận bắt đầu quyện
chặt làm một trong phẩm giá làm người của con người Việt
Nam, hiên ngang đĩnh đạc biểu thị trước toàn thế giới qua
tuyên ngôn Độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên
đọc tại quảng trường Ba Đình Hà Nội ngày 02 tháng 09 năm
1945, cất lên thành khúc hoà ca hùng tráng của toàn dân Việt
nam qua hồn thơ hồn nhạc Văn Cao :
LẬP QUYỀN DÂN, TIẾN LÊN, VIỆT NAM !
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói : "Nước được Độc lập mà dân
không được hưởng Tự do Hạnh phúc thì Độc lập cũng chẳng
có nghĩa lý gì".Thế nghĩa là nước độc lập mà dân không
có quyền thì vẫn là mất nước.Thiết nghĩ không có lời nào
rành mạch hơn, khúc chiết cụ thể hơn câu nói và câu hát
trên đây để khẳng định nguyên lý tồn tại và phát triển
của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam.Thấy hiện ra
một sự gặp gỡ tương tri tương đắc giữa thiên tài chính
trị Hồ Chí Minh với thiên tài nghệ thuật Văn Cao.Chỉ với
mấy tiếng giản dị dễ hiểu đúc thành lời ca, Văn Cao đã
cùng với Hồ Chí Minh xác lập và ban bố một đường lối
chiến lược đúng đắn nhất cho Việt Nam tiến lên sánh cùng
các cường quốc năm châu.Hiện thực về mối quan hệ tương
tri tương đắc giữa người chiến sĩ cách mạng và người
chiến sĩ văn hóa vừa nêu trên đã được chiến sĩ cách mạng
Nguyễn Hữu Đang dự báo từ đêm trước Cách mạng Tháng Tám
trong tác phẩm "Một nền văn hóa mới", trang 22 :
"Chúng ta hãy sáng suốt nhận lấy nhiệm vụ tích cực chiến
đấu, nhận lấy nhiệm vụ của người dân vong quốc cộng
thêm nhiệm vụ của một chiến sĩ văn hoá mới. Nói khác ra,
để thực hiện nền văn hoá mới, trước hết chúng ta phải
củng cố nền độc lập hoàn toàn và làm thực hiện chính
thể dân chủ cộng hoà triệt để."(Theo lời kể của nhà
thơ Nguyễn Đình Thi do nhà nghiên cứu Nhật Hoa Khanh ghi lại và
công bố trên tạp chí Sân khấu năm 2009,thì đoạn này và
đoạn đã dẫn trước là do Nguễn Hữu Đang viết, theo cách hai
người cùng thống nhất đề cương rồi chia nhau mỗi người
viết một phần).
Trong phạm vi tư liệu hạn hẹp mà tôi tiếp xúc, thì có lẽ
tác phẩm "Một nền văn hóa mới" là một trong số hiếm hoi
những văn bản đầu tiên đưa ra cụm từ mới để gọi tên
một nhân vật mới, một lực lượng mới : người "chiến sĩ
văn hóa mới".Ở đây ta thấy một đóng góp rất quan trọng
của Nguyễn Hữu Đang khi ông nêu rõ trong đoạn văn trên :
người chiến sĩ cách mạng với người chiến sĩ văn hóa là
một, hay nói khác đi, trong người chiến sĩ văn hóa có phẩm
chất cách mạng, trong người chiến sĩ cách mạng có phẩm
chất văn hoá, cách mạng quyện chặt với văn hóa ; cái văn
hoá truyền thống lấy đại nghĩa thắng hung tàn kết hợp với
cái văn hoá mới của con người tự do làm cách mạng để lập
quyền dân, để đem lại tự do hạnh phúc cho mỗi con người,
cho tất cả mọi người, chứ không phải để cách mạng thành
công thì leo lên ghế vua quan cách mạng.Tổ Quốc và Tự do, hai
giá trị cao quý nhất quyện chặt trong con người Việt Nam đã
tạo nên một sức mạnh kỳ lạ (đến gần như bí ẩn) đưa
dân tộc vượt thoát mọi tình thế hiểm nghèo tưởng chừng
không thể nào vượt nổi, qua muôn trùng gian lao và khốc liệt
trong cuộc đối đầu dai dẳng nhất với những thế lực
ngoại xâm mạnh hơn mình gấp bội về vũ khí và kỹ năng quân
sự, để đi tới ngày hoà bình thống nhất giang sơn.Người
chiến sĩ – nghệ sĩ, với cảm hứng Tổ Quốc và cảm hứng
tự do hòa quyện trong độ rung cảm mãnh liệt nhất, đã tạo
nên bao tác phẩm giá trị về Tổ Quốc, dâng Tổ Quốc.Tôi tin
rằng những tác phẩm ấy sẽ sống mãi cùng Tổ Quốc Việt
Nam, non sông Việt Nam, cũng như Tổ Quốc và Tự do mãi mãi là
nguồn sức mạnh vô song đưa đất nước Việt Nam không ngừng
tiến lên.
Từ ngày thống nhất đất nước, người chiến sĩ – nghệ sĩ
trong Hội ta sống thế nào, viết thế nào ? Tổ Quốc và Tự
do, hai giá trị cao quý nhất của con người Việt Nam , hai
nguồn cảm hứng lớn của văn chương Việt Nam diễn biến ra
sao trong tâm hồn họ, trong rung cảm nghệ thuật của họ ?
Chiến sĩ – thi sĩ Thanh Thảo viết :
Có những lúc ra về lòng rỗng không
Vì phải gặp trong cơ quan một thằng cặn bã
Tôi chào đất nước tôi.Buồn quá
Đó là mấy câu thơ trong bài "Tôi chào đất nước tôi",
Thanh Thảo sáng tác năm 1986, khi anh đang làm phó chủ tịch Hội
Văn Nghệ Nghĩa Bình.
Chiến sĩ – thi sĩ Nguyễn trọng Tạo viết :
Khi đang đắm yêu nào tin được bao giờ
Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ
Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ
Bạn bè thân thọc súng ở bên sườn
Sau cái bắt tay xòe một lưỡi dao găm
Kẻ tình nguyện giữ nhà muốn chiếm nhà ta ở
Tấm ảnh Mao treo lẫn màu cờ đỏ
Tay ta treo đâu nghĩ có một lần!…
Đó là những câu thơ trong bài "Tản mạn thời tôi sống"
Nguyễn Trọng Tạo sáng tác năm 1981, khi những vết thương
chiến tranh do giặc bành trướng gây ra ( tháng 2 năm 1979) tại
các tỉnh biên giới phía bắc còn đang đau đớn dữ dội trên
khắp thân mình Tổ Quốc và trong lòng anh, mà đau đớn hơn
hết là sự đổ vỡ niềm tin vào cái tình "đồng chí, anh
em" dựa trên mối liên minh ý thức hệ giữa hai đảng cầm
quyền trên hai đất nước xung đột về lợi ích quốc gia.
Và Nguyễn Trọng Tạo bị kiểm điểm vì thơ, vì dám trung
thực bộc bạch nỗi đau trong lòng về cái thời mình đang
sống. Đêm 11 tháng 11 năm 1981, anh đặt sẵn 2 khẩu súng ngắn
bên gối để tự tử.Trước khi bóp cò, anh viết 10 bài thơ
tuyệt mệnh, có những câu này :
Lòng bộn bề và trời đầy mây
Khao khát Tự do thì Tự do bị trói
Khao khát yêu thương thì ba chìm bảy nổi
Sự thật thiêng liêng bị đánh tráo dối lừa
Năm 2008, hai mươi hai năm sau bài "Tôi chào đât nước tôi",
Thanh Thảo viết "Lại chào đất nước", có những câu này :
Cứ tự mình dán băng keo vào miệng
Con gọi Mẹ chỉ còn nghe ú ớ
Yêu Tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ
Năm 1988, chiến sĩ – thi sĩ Nguyễn Duy tả cảnh "Tổ Quốc,
nhìn từ xa" thấy đầy những điếm; "Điếm cấp thấp bán
trôn nuôi miệng/Điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn", những
"Chính khách mở mồm thằng nọ con kia", những "Mẹ liệt
sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện".Và hỏi : "Ai ? Ai ?" .
Những tiếng hỏi "Ai ? Ai ?" đay đi đay lại suốt bài thơ
dài, cứ vang mãi, vang mãi khắp đất nước ngổn ngang bao
"nghịch lý" (chữ của tiến sĩ Hà Sĩ Phu, tác giả thiên
triết luận nổi tiếng "Dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ
đường của trí tuệ" viết năm 1988 mà nhà văn Ma Văn Kháng
mượn đưa vào tiểu thuyết "Đám cưới không có giấy giá
thú").
"Ai ? Ai ?" – Nguyễn Duy hỏi.
Không thấy ai trả lời.
Và Nguyễn Duy tự trả lời : "Không ai".
Nhưng tôi nghĩ đằng sau hai tiếng "Không ai", Nguyễn Duy đã
nhìn thấy ai và những ai đang giấu mặt ở đâu.Làm gì có
chuyện "không ai" ? Phải có một ai đó, một tổ chức nào
đó, một quyền lực, một thế lực nào đó chịu trách nhiệm
chứ ? Ai, thế lực nào đã đẩy Thanh Thảo vào cảnh tự mình
dán băng keo vào miệng ? Ai, thế lực nào đã tước đoạt tự
do của Nguyễn Trọng Tạo, đẩy anh đến chỗ phải tìm
đường quên sinh ? Biết cả đấy, thấy cả đấy.Nguyễn Duy
biết, Nguyễn Trọng Tạo biết, Thanh Thảo biết, nhưng không
nói, khó nói, chưa nói.Nguyễn Trọng Tạo thừa biết cái thế
lực chỉ đạo tổ chức kiểm điểm (đấu tố) anh đều vốn
là đồng chí đồng đội của anh, cấp trên của anh nhưng họ
đã bị ham muốn chức quyền lợi lộc làm cho tha hóa.Thanh
Thảo thừa biết cái thế lực đó là tập hợp những tên cặn
bã năm xưa không những không bị thanh lọc khỏi cơ quan, mà,
với sự láu cá tài tình đáng nể, nó đã "chạy" lên trên
chễm chệ ngồi ghế cấp trên ra lệnh cho anh phải tự mình
dán băng keo vào miệng, đến nỗi người yêu nước như anh
chỉ còn kêu ú ớ.Và Nguyễn Trọng Tạo đã không tự tử, anh
quyết sống.Sống thế nào ? Sống để chiến đấu cho Tự do,
chắc chắn là thế, có phải không, chiến sĩ – thi sĩ Nguyễn
Trọng Tạo ? Và Thanh Thảo đã đưa ra câu trả lời, trong bài
"Hà Sĩ Phu và cuộc cách mạng bị đánh tráo" viết từ năm
1993 nhưng gần đây mới công bố trên trang mạng boxitevn.net do
nhà văn giáo sư Nguyễn Huệ Chi điều hành.
Thành quả cách mạng đã bị đánh tráo làm vật liệu dựng
nên ngai ghế vua quan cách mạng trong một cỗ máy quyền lực
không có giám sát từ bên ngoài và cơ chế hãm bên trong, lấy
sự tồn tại của chính nó làm mục đích tự thân, cứ ù lì
quay một cách vô cảm bất chấp mọi ý kiến phản biện phê
phán, mọi đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới mà
Đảng đề ra từ đại hội 6.
Cái "Sự thật thiêng liêng bị đánh tráo dối lừa" mà
chiến sĩ – thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo sớm nhận ra và ghi lại
vào phút sắp tự tử đêm 11 tháng 11 năm 1981 đó là gì ?
Nguyễn Trọng Tạo tự trả lời ngắn gọn :
"Khao khát Tự do thì Tự do bị trói"
Câu thơ Nguyễn Trọng Tạo nói thay cho hàng triệu hàng triệu
gia đình Việt Nam suốt 30 năm chiến tranh đã hy sinh tất cả
tài sản tính mạng không chút so đo tính toán vì Tổ Quốc và
Tự do, đến khi Tổ Quốc hòa bình thống nhất thì "Tự do
bị trói".Sự thể phũ phàng cay đắng này đã được chính
tổng bí thư Nguyễn Văn Linh xác nhận bằng hai tiếng "cởi
trói".Với ý thức trách nhiệm nghiêm cẩn của người giữ
cương vị tối cao trong hệ thống quyền lực, ông nói : "Tôi
nghĩ Đảng phải cởi trói".Nhưng Đảng là ai ? Đảng gồm
mấy triệu đảng viên, phần đông đều là những chiến sĩ
tiền phong gương mẫu suốt đời chiến đấu hy sinh, suốt
đời tận tụy vì nhân dân quên mình, những đảng viên như
thế không bao giờ lại trói văn nghệ sĩ, trói nhân dân, hơn
nữa chính họ cũng là nạn nhân bị trói bởi cỗ máy quyền
lực (mà vẫn tự cho mình thuộc thành phần lãnh đạo).Cho nên,
tổng bí thư thì nói vậy, còn cái cỗ máy quyền lực thì vẫn
cứ tiếp tục vận hành ngược với thiện chí của ông.Bởi
động cơ đốt trong của cỗ máy này là tham vọng quyền lực
luôn dùng thủ đoạn hô to khẩu hiệu "tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng" để giữ chắc ngai ghế vua quan cách mạng,
năng lượng không bao giờ vơi cạn của nó là lòng tham không
đáy, là một thứ cá nhân chủ nghĩa lì lợm nhất ngoan cố
nhất được chính cỗ máy quyền lực dung dưỡng.Thật là bi
kịch, một đại bi kịch ! Toàn Đảng toàn dân đổ bao nhiêu
xương máu dựng nên một cỗ máy quyền lực rồi để cho nó
nghiền dần nghiền mòn tiêu tán hầu hết những phẩm chất
tốt nhất của mình.Những người dẫn dắt nhân dân 65 năm
trước "rũ bùn đứng dậy" giờ đây tự thấy mình còn
vương nhiều bùn tanh.
Nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi thổ lộ lúc cuối đời :
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình
Nhà văn cách mạng Nguyễn Khải, trong bài "Chiến sĩ – Nghệ
sĩ" (báo Văn Nghệ số 17,18 ngày 29.4/5.5.2007) buồn bã nhìn
lại đời mình và bậc đàn anh Nguyễn Đình Thi, từ người
chiến sĩ – Nghệ sĩ sống cao đẹp bao nhiêu thì chuyển sang
đời công chức, quan chức tầm thường tẻ nhạt bấy
nhiêu.Không lâu trước khi mất, Nguyễn Khải còn gắng viết
một tùy bút chính trị khá dài "Đi tìm cái tôi đã
mất".Tôi nghĩ chắc hai anh tự buộc mình trải lòng lên trang
giấy những chiêm nghiệm thầm kín ấy là để cho cõi lòng
nhẹ nhõm phần nào trước lúc đi xa, mà cũng là muốn gửi
lại như một lời nhắc nhở các thế hệ kế tiếp.Giờ phút
này, tôi cảm thấy hồn thiêng hai anh đang hiện hữu nơi đây,
trong hội trường này, đang muốn xem những lời nhắc nhở chân
tình của mình được tiếp nhận đến đâu.Hẳn hai anh đã
thấy bi kịch Nguyễn Đình Thi, bi kịch Nguyễn Khải vẫn đang
lặp lại ở ban chấp hành Hội khóa 7 qua niềm thơ Thanh Thảo
"Cứ tự dán băng keo vào miệng/Con yêu Mẹ chỉ còn nghe ú
ớ/Yêu Tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ". Các đồng nghiệp hội
viên của tôi có mặt ở đây hôm nay, người trẻ nhất cũng
lớn tuổi hơn nhà văn Nguyễn Đình Thi lúc viết "Một nền
văn hóa mới", nhà văn Nguyễn Khải lúc viết "Mùa lạc",
các bạn nghĩ gì về những lời nhắc nhở của hai bậc tiền
bối, con đường văn chương và giữ gìn phẩm giá nhà văn của
các bạn sẽ ra sao ? Những người đi tới biển của Thanh Thảo
là con người đi tới tự do, những người lính ngồi xe tăng
tiến tới thành phố của Hữu Thỉnh là tới đâu, tới tự do
hay tới nơi nhà cao cửa rộng để làm công chức, làm quan
chức ? Tôi mong các anh chị lãnh đạo hội các khóa trước và
khóa này bày tỏ đôi ý kiến với các bạn trẻ về những
lời nhắc nhở của anh Thi anh Khải.Hội chúng ta đang đứng
trước một tình hình phải có sự lựa chọn cho rành mạch,
không thể tiếp tục "ú ớ" nữa.
Không thể ú ớ trước hiểm họa bành trướng đang đe dọa
sự mất còn của Tổ Quốc
Không thể ú ớ trước tình cảnh các đồng nghiệp lâm nạn
vì ngòi bút
Không thể ú ớ trước yêu cầu bức bách về đổi mới tổ
chức Hội, tiếp tục theo con đường Hội xin tiền nhà nước
hay dứt khoát chuyển sang con đường Hội tự nuôi tự quản.
Hội nhà văn chúng ta bấy lâu được xây dựng và hoạt động
theo mô hình "tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp"
được nuôi bằng tiền nhà nước (tất nhiên lấy từ tiền
thuế dân đóng).Thực hiện chủ trương đổi mới tư tưởng
đi đôi với đổi mới tổ chức do đại hội Đảng lần thứ
6 đề ra, đa số hội viên Hội nhà văn tại đại hội lần
thứ 4 (họp tháng 10 năm 1989) đã quyết định Hội chỉ là
"tổ chức xã hội nghề nghiệp" thôi, không phải là tổ
chức chính trị nữa.Nhưng đến đại hội lần thứ 5 (họp
tháng 3 năm 1995) thì lại trở về mô hình "tổ chức chính
trị xã hội nghề nghiệp".Thế là đổi mới vừa nhích lên
chút xíu đã phải lùi về như cũ.Nguyên nhân của sự thụt
lùi này rất đơn
giản : TIỀN. Phải là "tổ chức chính trị" thì nhà nước
mới cấp tiền (gồm cả trụ sở, phương tiện), và ngày càng
nhiều tiền.
Thông tin trên Vietnamnet cho biết : chỉ tính riêng tiền đầu tư
chiều sâu sáng tác, Hội nhà văn được cấp trong nhiệm kỳ 5
năm qua (2005 – 2010) là 15 tỷ đồng, nếu kể cả các hoạt
động thường niên của Hội thì con số này chắc chắn lớn
hơn nhiều.
Về trụ sở, trong phạm vi tôi biết thì tại Hà Nội có :
- 9 Nguyễn Đình Chiểu
- 65 Nguyễn Du
- 17 Trần Quốc Toản (vừa đập cũ xây mới thành 8 tầng)
- Bảo tàng văn học tại Quảng Bá Tây Hồ (mới khánh thành,
nhà và khuôn viên đất rất lớn)
tại TP HCM :
- 43 Đồng Khởi (vị trí này giá đất nghe nói đắt ngang với
giá ở thủ đô Tô-ki-ô của Nhật Bản)
Tôi xin nhờ các đồng nghiệp am hiểu tính sơ giùm, chỉ riêng
tài sản cố định nêu trên, Hội ta đang quản lý một khối
lượng tài sản quy ra tiền là bao nhiêu, có lẽ phải tới
nhiều trăm tỉ ? Và thử tính hiệu quả của những đồng
tiền ấy.Hãy lấy tờ báo Văn Nghệ để xem xét.Cứ so sánh
giữa 2 thời, trước kia do nhà văn Nguyên Ngọc làm tổng biên
tập với sau đó do nhà thơ Hữu Thỉnh rồi nhà văn Nguyễn
Trí Huân làm tổng biên tập.Trước : kinh phí ít, trụ sở
nhỏ, chất lượng cao, số lượng phát hành tăng nhanh nhờ
chất lượng.Sau : trụ sở vẫn thế, gần đây xây mới thành
nhà 8 tầng, còn chất lượng thì rõ ràng không bằng trước,
lượng phát hành cũng chỉ bằng hoặc có thể không bằng
trước (lý do cần đập ngôi nhà cũ – hình như là một di
tích lịch sử – để xây lớn nhiều tầng chắc không phải
vì nhu cầu phát triển tự thân của tờ báo?).Nếu tính cả
khấu hao tài sản cố định vào giá thành sản phẩm thì tờ
báo hẳn là lỗ rất nặng.Lại đem kinh phí hoạt động của
Hội mua báo Văn Nghệ phát không cho hội viên.Cách làm này gây
hại cho tờ báo (không cần nâng cao chất lượng cũng cứ có
một lượng phát hành ổn định), gây lãng phí, bởi nhiều
hội viên không thích đọc báo Văn Nghệ cũng cứ phải nhận
rồi vứt xó.Ấy là chưa kể – mà điều này mới là hệ
trọng hàng đầu : trăm nghìn sự phức tạp, gây đau lòng và
xấu hổ cũng bắt nguồn từ cái đồng tiền bao cấp đó,
tiền rót xuống càng nhiều càng phức tạp.
Những ngày này, Hội nhà văn Việt Nam đang trên đường tiến
tới đại hội lần thứ 8 của mình.Về việc đổi mới tổ
chức Hội, có 3 luồng ý kiến khác nhau, phát biểu trong các
hội nghị và trên các phương tiện truyền thông :
1/- Để nguyên như cũ : Hội là tổ chức chính trị xã hội
nghề nghiệp (dự thảo sửa đổi điều lệ của Ban chấp hành
Hội).
2/- Sửa lại như đại hội 4 đã sửa : Hội là tổ chức xã
hội nghề nghiệp.
3/- Chuyển từ Hội do nhà nước nuôi thành Hội tự nuôi (và
đương nhiên : tự quản ).
Điểm khác nhau mấu chốt giữa 3 luồng ý kiến trên (thực
chất chỉ là 2) nằm ở chỗ : nhà nước nuôi hay tự
nuôi ? Mới hay cũ cũng ở cái chỗ này.Có thực lòng yêu dân
yêu nước yêu tự do hay không cũng ở cái chỗ này.Nếu thực
sự quyết tâm đổi mới thì hiển nhiên phải chọn con đường
tự nuôi.Phải tự nuôi thì mới thoát khỏi cái cảnh nhà văn
cán bộ, nhà văn công chức, nhà văn quan chức.Điều này đã
được nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nêu lên từ lâu nhưng
chưa được quan tâm suy nghĩ và thảo luận.Nay đã đến lúc
không thể né tránh mãi nữa.Một kiểu né tránh thể hiện ở
luận điểm : tự nuôi thì đói.
Hãy cùng nhau đào sâu vấn đề : một hội tự nuôi có đói
được không ? Câu trả lời của tôi là : không, không thể
đói được, mà đói cũng quyết tự nuôi.Đã có biết bao nhà
văn tạo nên những tác phẩm giá trị trong hoàn cảnh tự nuôi
đó thôi.Tự lực văn đoàn là một tổ chức chỉ gồm 8 thành
viên đều là những nhà văn tài năng tự nuôi mình và góp
phần nuôi hội mà làm nên một sự nghiệp văn học đồ sộ
nhường nào.Hai tiếng "Tự lực" chứa đựng cả một triết
lý sâu xa về lẽ sống, một thái độ sống, một phong cách
sống rất đáng trọng của người trí thức.Chúng ta cần học
kinh nghiệm rất hay của Tự lực văn đoàn để xây dựng hội
của mình.Tôi tin rằng nhiều nhà văn chúng ta, nhất là những
ai ít bị vướng víu tâm lý bao cấp, tha thiết với con đường
"tự lực", sẽ có vô vàn sáng kiến để định ra một đề
án xây dựng hội tự nuôi tự quản có tính khả thi và tính
hiệu quả cao.Hội phải là nơi các nhà văn tự nuôi tự
nguyện tập hợp nhau lại do nhu cầu tri âm tri kỷ, giúp nhau
trau dồi nghề nghiệp, cưu mang nhau khi gặp khó khăn, bênh vực
bảo vệ nhau khi lâm nạn vì ngòi bút.
Nhà văn Đình Kính nêu yêu cầu : "XÂY DỰNG MỘT ĐIỀU LỆ
KHOA HỌC, SANG TRỌNG LÀ KHÂU TỐI QUAN TRỌNG CỦA ĐẠI HỘI
8".Phải lắm! Muốn thế thì điều khoản then chốt của
điều lệ hội dứt khoát phải là 2 chữ "tự nuôi".Tự
nuôi mới có sức sống tự thân, đó là khoa học.Tự nuôi mới
là biết tự trọng và được người đời kính trọng, đó là
sang trọng.Nhà nước và công chúng, do sự thôi thúc bởi nhu
cầu tự thân của một nhà nước có văn hóa, một công chúng
có văn hóa, khi thấy có nhà văn nào (trong hoặc ngoài hội )
đáng kính trọng về tác phẩm và nhân cách thì tự nguyện
đến tận nhà của nhà văn ấy tỏ niềm kính trọng.Những nhà
văn chân chính khi lâm nạn vì ngòi bút hoặc các thứ nạn
khác, nhất định sẽ được nhân dân đem gạo mắm đi thăm
nuôi, không có gạo mắm thì một gói mì một mấu sắn trong
cảnh ngộ ấy cũng quý báu gấp ngàn lần các khoản đãi lấy
từ tiền thuế của dân; và đồng thời gói mì, mẩu sắn
đạm bạc ấy cũng lập tức trở thành nguồn sữa tinh thần
vô tận nuôi lớn tâm hồn và khí phách người nghệ sĩ.
Vậy là việc lựa chọn mô hình xây dựng hội xin tiền nhà
nước như bấy lâu hay chuyển sang hội tự nuôi đã trở thành
vấn đề danh dự của hội và của từng nhà văn.
Tôi tin rằng một Hội nhà văn tự nuôi tự quản sẽ được
nhà nước quý trọng, kính phục và nhân dân yêu thương gấp
bội một Hội nhà văn xin nhà nước nuôi.
Nhà văn Cách mạng Nguyễn Minh Châu tâm sự (trong thư gửi nhà
thơ Nguyễn Trung Thu) lúc cuối đời :
"Nhà văn nước nào cũng vậy, ngoài tiếng nói trong
tác phẩm, phải có tiếng nói xã hội, tiếng nói trước công
bằng và bất công, trước chiến tranh và hoà bình".
"Theo tôi, làm một thằng nhà văn Việt Nam vào lúc
này mà tìm cách lẩn tránh vấn đề dân chủ là thiếu tư
cách, kể cả việc anh núp sau lập luận rằng văn học là cái
gì sâu xa để đời (…)Ở cái chỗ này tôi thấy có cái gì
đang thử thách, lại thử thách từng người rất tinh vi, ai ra
sao nó lại lộ ra như thế…"
Vâng, anh Châu ơi, lúc này là lúc đang thử thách
từng người chúng tôi. Tôi cảm thấy hôn thiêng anh Châu cũng
đang hiện hữu ở đây cùng anh Thi anh Khải, các anh đang nhìn
xem mỗi chúng ta sẽ ra sao trước thử thách này.
Đà lạt 25.07.2010.
BMQ
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5808), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét