một góp ý sửa sai quan trọng cho bản dịch của tôi, ở
phần này:
<em>Trong một hệ thống xã hội đúng đắn, cá nhân được tự
do theo pháp định để tiến hành bất kỳ hành động nào anh ta
muốn (miễn là anh ta không xâm phạm quyền lợi của những
người khác), trong khi một quan chức chính phủ thì bị luật
giới hạn lại trong bất kỳ hành động chính thức nào của
ông ta. Một cá nhân có thể làm bất kỳ cái gì trừ phi cái
đó bị luật pháp cấm; một quan chức chính phủ không được
làm bất kỳ cái gì trừ phi cái đó được luật pháp cho
phép.</em>
<em>Đây là hình thức đặt lẽ phải lên trên sức mạnh. Đây
là quan niệm của người Mỹ về <strong>"một chính phủ của
luật pháp và không phải của nhân dân"</strong></em>.
Phần type đậm, nguyên gốc tiếng Anh là "a government of laws
and not of men". Ở đây, Ayn Rand muốn nhấn mạnh sự đối
lập giữa một chính phủ pháp trị, duy lý, chứ không
phải một chính phủ của những cá nhân tùy tiện và
cảm tính (mười anh nông, mười anh kiệt hay trăm anh nông,
trăm anh kiệt thì cũng vẫn là tùy tiện và cảm tính).
Do vậy cách dịch "một chính phủ của luật pháp và
không phải của nhân dân" là sai và có thể gây thắc mắc
tại sao chính phủ lại không phải của nhân dân?
Xin sửa lại là: <strong>"một chính phủ luật pháp chứ
không phải chính phủ con người"</strong>.</div>
BẢN CHẤT CỦA CHÍNH PHỦ (The Nature of Government) - phần 2
Tội phạm là thiểu số nhỏ trong bất kỳ xã hội bán văn minh
nào. Nhưng việc bảo vệ và cưỡng chế thực thi hợp đồng
thông qua các tòa án dân sự là nhu cầu tối quan trọng của
một xã hội hòa bình; không có sự bảo vệ đó, không nền
văn minh nào có thể phát triển hay được duy trì.
Không như loài vật, con người không thể tồn tại bằng cách
hành động theo một loạt phản ứng tức thời. Con người
phải đặt ra các mục tiêu và đạt được chúng trong một
dải thời gian; anh ta phải tính toán các hành động và lập
kế hoạch dài hạn cho cuộc đời mình. Trí tuệ của con
người càng mẫn tiệp và kiến thức càng rộng lớn thì kế
hoạch của anh ta càng có tầm xa. Nền văn minh càng cao hoặc
càng phức tạp, thì càng đòi hỏi các hoạt động có tầm
nhìn xa hơn – và bởi vậy đòi hỏi cả các thỏa thuận mang
tính hợp đồng giữa con người với nhau cũng phải dài hạn,
và nhu cầu của con người được bảo vệ an toàn trong những
thỏa thuận như vậy càng cấp thiết hơn.
Thậm chí một xã hội hàng đổi hàng nguyên thủy cũng không
thể vận hành được nếu một người đồng ý đổi một giạ
khoai tây lấy một rổ trứng và rồi, sau khi đã nhận đủ
trứng, từ chối giao khoai tây. Hãy hình dung những hành động
được dẫn dắt bởi sự thất thường này sẽ mang lại hậu
quả như thế nào trong một xã hội công nghiệp nơi người ta
giao những hàng hóa trị giá một tỉ đôla theo hình thức bán
chịu, trả dần, hay ký những hợp đồng xây các công trình
hàng tỉ đôla, hay ký hợp đồng cho thuê thời hạn đến chín
mươi chín năm.
Hành động đơn phương vi phạm hợp đồng gắn liền với
việc sử dụng vũ lực một cách gián tiếp: về bản chất, nó
là khi một người nhận các giá trị vật chất, hàng hóa hay
dịch vụ, từ một người khác, sau đó từ chối thanh toán và
do đó giữ hàng hóa đó bằng vũ lực (thuần túy là sự chiếm
giữ vật chất), chứ không phải bằng quyền – tức là, giữ
hàng hóa mà không có sự nhất trí của người chủ sở hữu.
Tương tự, tội lừa đảo cũng liên quan tới việc gián tiếp
sử dụng vũ lực: nó là việc đoạt lấy giá trị vật chất
mà không được sự đồng ý của người chủ sở hữu, nhờ
hứa hão hoặc nuốt lời hứa. Trấn lột là một biến tướng
nữa của việc sử dụng vũ lực gián tiếp: đó là việc
đoạt lấy các giá trị vật chất mà không phải để trao
đổi lấy giá trị khác, bằng cách đe dọa dùng vũ lực, bằng
bạo lực hoặc gây thương tích.
Một số trong các hành động kể trên rõ ràng là hành vi phạm
tội. Những hành động khác, chẳng hạn việc đơn phương vi
phạm hợp đồng, có thể không mang động cơ tội ác, nhưng do
sự thiếu trách nhiệm hoặc thiếu lý trí gây ra. Chúng cũng có
thể là các vấn đề phức tạp khi cả hai bên tham gia đều
đòi công lý. Nhưng dù thế nào, tất cả các vấn đề như
vậy đều phải được đưa ra trước những luật định khách
quan và phải được giải quyết bởi một trọng tài vô tư
thực thi luật pháp, tức là bởi một quan tòa (và một ban hội
thẩm, trong trường hợp cần thiết).
Hãy quan sát cái nguyên tắc căn bản điều chỉnh công lý trong
tất cả những trường hợp này: nó nói rằng không ai được
phép đoạt lấy bất cứ giá trị gì từ người khác mà không
có sự đồng ý của chủ sở hữu – và, như một hệ quả
tất yếu, rằng các quyền của con người không thể được
giao phó cho một quyết định đơn phương, cho sự lựa chọn
tùy tiện, cho sự phi lý trí, tính thất thường của người
khác.
Về bản chất, đó là mục đích đúng đắn của một chính
phủ, nhằm làm tồn tại xã hội trở thành điều khả thi
đối với mọi người, bằng cách bảo vệ lợi ích và đấu
tranh chống những cái xấu mà con người có thể gây ra cho nhau.
Các chức năng đúng đắn của một chính phủ được giao vào
tay ba lực lượng lớn, tất cả đều liên quan tới vấn đề
sử dụng sức mạnh và bảo vệ nhân quyền: cảnh sát, để
bảo vệ con người khỏi tội ác – các lực lượng vũ trang,
để bảo vệ con người khỏi các thế lực ngoại xâm – tòa
án, để giải quyết tranh chấp giữa con người với nhau theo
các luật khách quan.
Ba lực lượng này kéo theo nhiều vấn đề như là hệ quả
tất yếu và phái sinh của chúng – và việc thực thi chúng
dưới hình thức lập pháp cụ thể thì vô cùng phức tạp. Cái
này thuộc về lĩnh vực của một khoa học đặc biệt: triết
học về luật pháp. Nhiều sai lầm và bất đồng có thể xảy
ra trong việc thực thi, nhưng điều cốt yếu ở đây là nguyên
tắc cần được thực thi: cái nguyên tắc phát biểu rằng mục
đích của luật pháp và của chính phủ là bảo vệ các quyền
cá nhân.
Ngày nay, nguyên tắc này bị quên lãng, phớt lờ và lảng
tránh. Kết quả là tình trạng hiện nay của thế giới, nhân
loại đi giật lùi về tình trạng vô luật pháp của một chế
độ độc tài tuyệt đối, về sự tàn bạo thời nguyên thủy
của việc cai trị bằng sự dã man.
Khi phản đối khuynh hướng này, một cách thiếu cân nhắc,
một số người đang đặt ra câu hỏi liệu chính phủ có phải
vốn bản chất là xấu xa và phải chăng vô chính phủ là hệ
thống xã hội lý tưởng? Vô chính phủ, khi là một khái niệm
chính trị, là một ý tưởng trừu tượng ngây thơ: vì tất
cả các lý do đã thảo luận ở trên, xã hội nào thiếu vắng
một chính phủ có tổ chức sẽ bị giao phó vào tay kẻ xấu
đầu tiên xuất hiện, kẻ sẽ đẩy nó vào sự hỗn loạn
được tạo nên từ xung đột giữa các băng nhóm. Nhưng khả
năng phát sinh sự vô đạo đức của con người chưa phải là
lý do duy nhất để phản đối hệ thống vô chính phủ: ngay
cả một xã hội, nơi mà tất cả các thành viên đều có lý
trí đầy đủ và đạo đức tốt, không phạm lỗi nào, cũng
không thể hoạt động trong tình trạng vô chính phủ: bởi vì
cái nhu cầu về các luật khách quan và một vị trọng tài
giải quyết các bất đồng thân thiện giữa con người với
nhau, chính nhu cầu đó làm cho việc thành lập một chính phủ
trở thành cần thiết.
Biến thể gần đây của lý thuyết vô chính phủ đang làm mê
hoặc một số người trẻ tuổi cổ súy cho tự do. Đó là cái
thứ quái dị gọi là "các chính phủ cạnh tranh". Thừa
nhận những tiền đề căn bản của các nhà thống kê hiện
đại – những người không nhận thấy sự khác biệt giữa
chức năng của chính phủ và chức năng của các ngành sản
xuất, giữa động lực và sản xuất; những người cổ súy cho
quốc hữu trong kinh doanh – các nhân vật đề xướng "chính
phủ cạnh tranh" nhìn vào mặt kia của đồng xu và tuyên bố
rằng vì cạnh tranh có lợi như thế cho kinh doanh, nên cũng có
thể áp dụng chuyện cạnh tranh cho chính phủ. Thay vì chỉ có
duy nhất một chính phủ độc quyền, họ tuyên bố cần có
một số chính phủ khác nhau trong cùng khu vực địa lý, cạnh
tranh để giành được sự trung thành cá nhân của mỗi công
dân, mỗi công dân đều được tự do "đi mua hàng" và hạ
cố lui tới bất kỳ chính phủ nào anh ta chọn.
Hãy nhớ rằng kiềm chế con người bằng sức mạnh là dịch
vụ duy nhất mà chính phủ phải cung cấp. Hãy tự hỏi mình xem
cạnh tranh trong dịch vụ đó sẽ thành ra như thế nào.
Người ta không thể bảo lý thuyết này là mâu thuẫn khái
niệm, bởi vì rõ ràng nó không cho thấy một sự thông hiểu
về hai khái niệm "cạnh tranh" và "chính phủ". Người ta
cũng không thể bảo nó là một sự khái quát hóa linh hoạt,
bởi vì nó không có mối liên hệ nào hoặc tham chiếu nào tới
thực tiễn và không tài nào cụ thể hóa nó vào thực tiễn
được, thậm chí dù chỉ một cách phác thảo hay đại khái mà
thôi. Một ví dụ minh họa là đủ: giả sử ông Smith, khách
hàng của Chính phủ A, ngờ rằng hàng xóm nhà bên của ông là
Jones, khách hàng của Chính phủ B, đã ăn cắp của Smith. Quân
của Cảnh sát A bèn đến nhà ông Jones và chạm mặt quân của
Cảnh sát B, phe này tuyên bố rằng họ không chấp nhận hiệu
lực của khiếu nại của ông Smith và không công nhận quyền
của Chính phủ A. Chuyện gì xảy ra khi đó? Quý vị tự rút ra
kết luận.
Sự phát triển của khái niệm "chính phủ" đã trải qua
một quá trình lịch sử dài và quanh co. Những ý nghĩ mơ hồ
về chức năng của chính phủ dường như đã tồn tại trong
tất cả các xã hội có tổ chức. Những ý nghĩ ấy từng
xuất hiện khi người ta nhận ra sự khác biệt ngầm (thường
không tồn tại) giữa một chính phủ và một băng cướp; nhận
ra vòng hào quang tôn kính và quyền lực đạo đức mà chính
phủ được hưởng với tư cách người bảo vệ "luật pháp
và trật tự"; nhận ra cái thực tế rằng ngay cả những nhà
nước xấu xa nhất cũng thấy cần thiết phải duy trì chút vẻ
bề ngoài của trật tự và công bằng giả hiệu, dù chỉ do
thói quen hay do truyền thống, và phải kiếm được vài lời
biện minh đạo đức cho cho quyền lực của chúng – huyền bí
hoặc mang tính xã hội. Cũng giống như các vị hoàng đế Pháp
phải viện đến "Quyền lực Thần thánh của Nhà Vua", các
nhà độc tài hiện đại của Liên Xô phải dốc tiền vào
tuyên truyền để biện minh cho sự cai trị của họ trước
những đối tượng bị họ bắt ép làm nô lệ.
Trong lịch sử nhân loại, việc hiểu được các chức năng
đúng đắn của chính phủ là một thành tựu chỉ mới đạt
được gần đây: cách nay 200 năm và bắt nguồn từ thời các
vị tổ khai quốc của Cách mạng Mỹ. Các vị này không chỉ
xác định bản chất và những đòi hỏi của một xã hội tự
do, mà họ còn phát minh ra phương thức để biến nó thành
thực tiễn. Một xã hội tự do – như bất kỳ sản phẩm nào
của con người – không thể được tạo ra nhờ các phương
thức ngẫu nhiên, hay bằng việc chỉ ngồi mơ ước, hay bằng
các "mong muốn thiện tâm" của lãnh tụ. Một hệ thống
pháp chế phức tạp, dựa trên các nguyên tắc có hiệu lực
khách quan, là điều kiện bắt buộc phải thỏa mãn để làm
cho xã hội tự do và giữ cho nó tự do – một hệ thống không
phụ thuộc vào các động cơ, phẩm chất đạo đức hay mong
muốn của bất kỳ một quan chức nào, một hệ thống không
để một cơ hội nào, một kẽ hở luật pháp nào cho độc tài
phát triển.
Hệ thống kiểm tra và cân bằng của Mỹ là một thành tựu
như thế. Và mặc dù những mâu thuẫn nhất định trong Hiến
pháp đã tạo kẽ hở cho sự phát triển của chế độ nhà
nước trung ương tập quyền, nhưng thành tựu vô song đạt
được là khái niệm hiến pháp như là phương tiện để giới
hạn và kiềm chế quyền lực của chính phủ.
Ngày nay, khi thành tựu này đang bị người ta âm mưu xóa bỏ,
không phải là thừa khi nhắc lại rằng Hiến pháp là sự kiềm
chế đối với chính phủ, chứ không phải với các cá nhân –
rằng nó không quy định đạo đức của các cá nhân, mà chỉ
quy định đạo đức của chính phủ - rằng nó không phải là
một đặc quyền đối với chính phủ, mà là một hiến chương
cho việc bảo vệ các công dân trước chính phủ.
Bây giờ hãy xem mức độ đảo lộn về đạo đức và chính
trị của chính phủ ngày nay. Thay vì bảo vệ các quyền con
người, chính phủ đang trở thành kẻ xâm phạm quyền con
người nguy hiểm nhất; thay vì canh gác tự do, chính phủ đang
xây chế độ nô lệ; thay vì bảo vệ con người khỏi những
kẻ khởi xướng vũ lực, chính phủ đang khởi xướng vũ lực
và áp bức theo bất kỳ cách nào và trong bất kỳ vấn đề gì
nó muốn; thay vì đóng vai trò như một công cụ khách quan trong
quan hệ giữa con người với con người, chính phủ đang tạo ra
một triều đại ngầm, chết chóc, đầy bất trắc và đáng
sợ, bằng các hình thức luật phi khách quan, mà việc diễn
giải luật phụ thuộc vào những quyết định tùy tiện của
các vị công chức tùy tiện; thay vì bảo vệ con người khỏi
bị thương tổn bởi những cơn thất thường, chính phủ đang
đòi hỏi cho nó quyền được hành xử thất thường không
giới hạn – đến mức độ chúng ta đang nhanh chóng tiến
đến thời kỳ đảo ngược hoàn toàn: thời kỳ mà chính phủ
được tự do làm bất kỳ cái gì nó muốn, trong khi công dân
chỉ có thể hành động nếu được phép; là một giai đoạn
trong thời kỳ đen tối nhất của lịch sử con người, giai
đoạn cai trị bằng sự dã man.
Thường khi có nhận xét cho rằng, bất chấp các tiến bộ về
vật chất, nhân loại đã không đạt được một mức độ
tiến bộ đáng kể nào về đạo đức. Nhận xét này thường
được một vài kết luận bi quan về bản tính con người phụ
họa. Quả thật, chất lượng đạo đức của nhân loại đang
đi xuống một cách đáng hổ thẹn. Nhưng nếu người ta nhìn
vào sự vi phạm đạo đức đầy ma quỷ của chính phủ (chính
cái đức vị tha tập thể đã làm cho sự vi phạm này thành
điều có thể xảy ra), mà trong phần lớn lịch sử, nhân loại
đã phải sống với sự vi phạm ấy, người ta sẽ bắt đầu
tự hỏi làm thế nào mà nhân loại có thể bảo tồn được,
dù chỉ cái vỏ ngoài của nền văn minh, và vết tích nào của
lòng tự trọng đã không bị tiêu diệt đi mất mà giúp họ
đứng thẳng trên đôi chân của mình?
Người ta cũng bắt đầu nhìn thấy rõ hơn bản chất của
những nguyên tắc chính trị – vốn phải được chấp nhận
và cổ súy như một phần trong cuộc chiến cho sự Phục Hưng
của trí tuệ con người.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/5720), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét