vấn đề lãnh thổ và môi trường là tín hiệu cho một giai
đoạn mới trong mối quan hệ cũ giữa Hà Nội và Bắc Kinh, bà
Sophie Quinn – Judge viết riêng cho openDemocracy – nhận xét.</em>
Năm 2009, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa
đột nhiên trở thành vấn đề công chúng [quan tâm]. Qua việc
đệ trình tuyên bố chủ quyền 80% vùng Biển Đông lên Công
ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển trong tháng 5, Trung Quốc
chính thức hóa tham vọng lãnh thổ mà trước đây không phê
chuẩn theo luật quốc tế. Việc đòi hỏi này đặt Việt Nam
vào một vị trí khó xử: hoặc Việt Nam phải chấp nhận sự
thống trị của Trung Quốc về cái mà Việt Nam gọi là "Biển
Đông", giáp với bờ biển trải dài của họ, hoặc Việt Nam
phải tham gia vào một cuộc xung đột với người láng giềng
hùng mạnh của mình, điều mà chính phủ Hà Nội muốn tránh.
Nhưng cộng đồng người Việt trên khắp thế giới có thể có
sự lựa chọn tháo lui tốn kém.
Từ khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia vào năm 1989 và tiếp
theo là cuộc bầu cử do Liên Hiệp Quốc giám sát ở đó, Việt
Nam và Trung Quốc đã thiết lập tình hữu nghị tốt đẹp. Bế
tắc cay đắng giữa hai nước, trong đó điểm đáng nói nhất
là cuộc tấn công phá hoại ngắn ngủi của Trung Quốc hồi
tháng 2 năm 1979, đã bị lãng quên. Không chính thức, các nhà
ngoại giao Việt Nam nhận xét rằng họ phải cẩn thận để
tránh làm bực mình anh láng giềng phương bắc của mình, khi
trở nên quá thân thiết với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những cuộc nói
chuyện như vậy đã không được hiểu như là một mong muốn
tránh xa Trung Quốc, mà là một phần của chính sách đối
ngoại "thêm bạn, bớt thù". Một loạt các quan hệ quốc
tế rộng rãi đã từ lâu là mục tiêu trong cải cách của
Việt Nam, gấp rút để tự hội nhập vào nền kinh tế toàn
cầu.
Nhưng sau hai thập kỷ thích nghi, sự trỗi dậy của Trung Quốc
buộc Việt Nam phải đối mặt với các lựa chọn khó khăn.
Tình hình đặc biệt phức tạp đối với sự cầm quyền của
Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP), kể từ khi cuộc khủng hoảng
giai đoạn cuối của Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Âu vào năm
1989, đã xác định chặt chẽ các chính sách của đảng Trung
Quốc: cải cách kinh tế nhanh chóng kết hợp với sự độc
quyền của đảng cộng sản lên đời sống chính trị và các
tổ chức nhà nước.
Hiện tại, khi Trung Quốc gây áp lực buộc Việt Nam chấp nhận
sự kiểm soát của Trung Quốc trên Biển Đông, Đảng [Cộng
sản] Việt Nam bị ép buộc phải thừa nhận rằng hai nước có
xung đột lợi ích trong một số lĩnh vực. Một trong những
lĩnh vực này là việc sử dụng các nguồn tài nguyên địa
phương, chẳng hạn như vùng nước ở sông Cửu Long. Lượng
nước chảy vào vùng đồng bằng Việt Nam đã giảm rõ rệt
trong mười năm qua, khi Trung Quốc xây dựng một loạt các đập
thủy điện ở thượng nguồn. Mối đe dọa đối với sông
Cửu Long có thể trở thành vấn đề sinh tử cho nhiều người
ở miền Nam Việt Nam. Nhưng tại thời điểm này, cuộc xung
đột lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan tới
việc sử dụng nguồn cá, dầu hỏa và khí đốt tìm thấy
dưới đáy Biển Đông.
<h2>Một tia lửa ngầm</h2>
Báo động phổ biến về vai trò của Trung Quốc tại Việt Nam
đã nổi lên trên bề mặt vào năm 2009, liên quan tới dự án
khai thác mỏ ở đất liền gây tranh cãi. Đảng đã công bố
một thỏa thuận cho phép Trung Quốc khai thác và chế biến
bauxite ở khu vực Cao nguyên Trung phần. Dự án mà ban đầu
được công bố là để thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát
triển, chẳng bao lâu trở thành mối hiểm họa lâu dài: Trung
Quốc cho biết rằng họ sẽ đưa công nhân của họ vào để
thực hiện dự án, gây nên nỗi ám ảnh về việc định cư
thường trực của Trung Quốc ở khu vực chiến lược nhạy
cảm này, lấy mất việc làm của người lao động Việt Nam.
Hơn nữa, không có dấu hiệu của một báo cáo về tác động
môi trường – một yếu tố rất quan trọng mà mọi người
đều biết rằng việc khai thác bauxite sẽ để lại một cảnh
quan lồi lõm và các chất thải gây ô nhiễm cho đất nông
nghiệp và nguồn nước. Cuối mùa xuân, 139 trí thức Việt Nam
đã ký vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ hủy bỏ
thỏa thuận sản xuất bauxite. Nhiều người Việt hải ngoại
cũng đã ký tên vào thỉnh nguyện thư, cũng như một số viên
chức quân sự cao cấp. Một trong những nhân vật lãnh đạo
chống dự án khai thác bauxite là Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
một trong những nhà lãnh đạo cuối cùng trong thời kỳ cách
mạng còn sống, ông vẫn còn đủ uy tín đạo đức để thành
nhà phê bình có ảnh hưởng khi ông nhìn thấy đảng đi lạc
khỏi đường lối (xem thêm: "Những dao động từ phía
bắc", của David G Marr, mục Inside Story, ngày 31 tháng 8 năm
2009).
Theo tin tức lưu hành ở Hà Nội vào mùa hè năm 2009, đó là
một số tướng lĩnh (tin đồn nói rằng ba mươi) đã bị cho
nghỉ hưu sớm, chính là sự trả thù về việc phản đối dự
án bauxite. Kế hoạch khai thác mỏ sau đó đã được thảo
luận trong quốc hội, và trong vòng ba ngày các đại biểu bất
đồng nhất đã được thuyết phục để rút lại ý kiến
đối lập của họ. Tháng 3 năm 2010, dự án trong giai đoạn
đầu xây dựng, và các quan chức chính phủ địa phương bảo
đảm với báo chí Việt Nam (một vài nhà báo vẫn còn dám
đặt câu hỏi) rằng tác động môi trường sẽ được giám
sát chặt chẽ. Vai trò của Trung Quốc đối với dự án ít khi
được đề cập tới trong các bài báo này. Tin tức đồn rằng
ít nhất có một nhân vật lãnh đạo đảng nhận được tiền
chi trả của Trung Quốc để hỗ trợ cho dự án. Trong mọi tình
huống, việc xử lý vấn đề bauxite của đảng cho thấy rằng
nó đã được hỗ trợ rộng lớn từ những người có quyền
lực nhất ở Việt Nam.
<h2>Đòi hỏi gây tranh cãi</h2>
Chỉ riêng vấn đề này không đủ làm đảo lộn mối quan hệ
Việt-Trung lâu dài, nhưng đó là triệu chứng của những vấn
đề lớn hơn. Điều làm thay đổi sự cân bằng trong các mối
quan hệ giữa hai nước đó là ảnh hưởng mạnh về kinh tế
và quân sự ngày càng gia tăng của Trung Quốc. Trung Quốc đơn
phương tuyên bố lãnh hải "đường hình chữ U" kéo xuống
từ phía bắc Borneo, thể hiện sự tự tin rằng bây giờ Trung
Quốc có thể bảo vệ những gì mà Trung Quốc xem là phạm vi
ảnh hưởng của họ. Gần đây Trung Quốc đã bắt đầu xem
Biển Đông là một trong những lợi ích cốt lõi của họ, ngang
hàng với Đài Loan và Tây Tạng.
Trường hợp này, việc đòi quyền sở hữu của Bắc Kinh dựa
vào hai nhóm đảo: Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều mà
cho phép họ viện dẫn vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý
được Liên Hiệp Quốc chấp thuận. Nhiều đảo này nằm rải
rác không hơn gì các doi cát, và chủ quyền đối với các dải
đảo này còn bị nhiều quốc gia khác tranh chấp, nhưng nếu
Trung Quốc có thể thiết lập quyền sở hữu, điều đó sẽ
cho phép họ kiểm soát các tuyến đường vận chuyển và khu
vực được cho là có nhiều dầu hỏa và khí đốt tự nhiên.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát tin rằng, hiện tại Trung Quốc
đã đi quá đà trong việc đưa ra phần của họ trong tranh chấp
lãnh thổ này.
Việt Nam đã cố gắng bảo vệ tranh chấp của mình đối với
các nhóm đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa kể từ khi thống nhất
đất nước vào năm 1976, nhưng không thành công lắm. Ngược
lại, Hà Nội đã thừa nhận một số vùng lãnh hải của họ
với Trung Quốc trong Hiệp định Biên giới trên Vịnh Bắc Bộ,
và thậm chí đồng ý cho hải quân tuần tra chung trong năm 2006.
Nhưng cho dù với những nhượng bộ này và các mối quan hệ
thân mật công khai, kể từ tháng 5 năm 2009 Trung Quốc cho đâm
và bắt giữ các tàu đánh cá đi lạc vào khu vực mà Trung
Quốc đòi chủ quyền, khu vực mà người Việt Nam xem là vùng
đánh cá truyền thống của mình. Ngư dân đã bị giam giữ làm
con tin hoặc bị tịch thu số cá bắt được, đã làm cho công
chúng tại Việt Nam giận dữ.
Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh vào đơn vị đồn trú miền
Nam Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa ra khỏi quần đảo vào năm
1974, khi chiến tranh Việt Nam đang giảm cường độ. Vào thời
điểm đó chẳng ai phản đối gì, khi Hoa Kỳ còn bận tâm vì
mối đe dọa của Liên Xô ở Thái Bình Dương. Việt Nam đòi
chủ quyền lịch sử trên các quần đảo này, trở lại thời
điểm ít nhất là những năm đầu dưới sự trị vì của nhà
Nguyễn (từ 1802), hoàng đế Gia Long (trị vì từ năm 1802-1820)
và Minh Mạng (trị vì từ năm 1820-1841) đã gửi các đội thám
hiểm đến để vẽ biểu đồ vùng nước xung quanh các đảo,
cho thấy quyền sở hữu của Việt Nam trên các bản đồ
được vẽ bởi các nhà truyền giáo Pháp đầu tiên. Việc đòi
chủ quyền này cũng phản ánh một thực tế là ngư dân từ
miền Trung Việt Nam từ lâu đã khai thác các nguồn tài nguyên
biển ở đây và tiến hành các hoạt động cứu hộ ở vùng
biển nguy hiểm. Người Pháp có chủ quyền trên các vùng lãnh
thổ này cho đến Đệ nhị Thế chiến, và miền Nam Việt Nam
đã thừa kế quyền này.
Ngay cả việc mua sáu chiếc tàu ngầm loại kilo, chạy bằng
diesel của Nga, cũng không có cơ hội cho Việt Nam có thể giành
chiến thắng trong một cuộc đối đầu hải quân với Trung
Quốc. Và Việt Nam biết rằng việc mở rộng quân sự sẽ
không giúp xây dựng niềm tin giữa các quốc gia khác trong khu
vực. Thay vào đó nên để dành vai trò chủ tịch Hiệp hội
các nước Đông Nam Á (ASEAN) trong năm 2010 để xây dựng một
sự đồng thuận đa phương nhằm hỗ trợ lời kêu gọi các
cuộc đàm phán về việc chia sẻ tài nguyên ở Biển Đông (The
Philippines, Malaysia và Indonesia cũng đòi chủ quyền trên các
vùng biển, điều này có xung đột với tham vọng lãnh thổ
của Trung Quốc). (Xem "Việt Nam kiếm nhiều đồng minh để
ngăn ảnh hưởng của Trung Quốc", Edward Wong, New York Times,
ngày 4 tháng 2 năm 2010).
Tuyên bố về quy tắc ứng xử đã được Asean và Trung Quốc
ký năm 2002, về các vấn đề như bảo vệ môi trường và tìm
kiếm, cứu nạn, có thể là một mô hình cho các thương lượng
trong tương lai. Nhưng sự thỏa thuận này không có hiệu lực
pháp lý và các cuộc thảo luận là để mở rộng phạm vi đã
bị giới hạn trong những năm gần đây. Điều gì có thể tạo
ra một bước đột phá trong các lần đàm phán với Trung Quốc
sẽ là sự chấp thuận của Mỹ và Nhật Bản tham gia vào một
giải pháp đa phương.
<h2>Một câu hỏi cấp quốc gia</h2>
Có một tiên đoán bên trong Việt Nam rằng một số lãnh đạo
đảng muốn nhìn thấy Việt Nam trở thành "một tỉnh của
Trung Quốc" hơn là chấp nhận rủi ro quyền lực của Đảng
Cộng sản Việt Nam bị suy yếu bằng cách thiết lập quan hệ
gần gũi hơn với Washington. Tuy nhiên, các mối đe dọa đến
toàn vẹn lãnh thổ ở Hà Nội hiện tại nghiêm trọng hơn là
vào giữa thập niên đầu của thế kỷ 21.
Bốn mối đe dọa lớn đối với quốc gia được chỉ ra trong
một chương trình đã được chuẩn bị cho Đại hội đảng
lần tới vào năm 2011 là: 1) Kinh tế lạc hậu, 2) Các thế lực
thù địch và diễn biến hòa bình, 3) Tranh chấp lãnh thổ và 4)
Các vấn đề toàn cầu liên quan đến an ninh lương thực, an
ninh năng lượng và sự nóng lên toàn cầu. Danh sách này thể
hiện sự tinh tế ngày càng tăng của ngoại giao Hà Nội, mặc
dù thực tế là nỗi lo sợ "diễn biến hòa bình" – mật
mã nói về sự phá hoại các giá trị cộng sản do liên hệ
với phương Tây – vẫn nằm ở vị trí nguy hiểm cao trong danh
sách (xem thêm "Việt Nam: tiếng nói cần thiết", ngày 29
tháng 4 năm 2007).
Hiện đã rõ ràng hơn đối với lãnh đạo Việt Nam rằng
nhượng bộ nhiều hơn để Trung Quốc làm xói mòn niềm tin
của tầng lớp quan trọng trong dân chúng, gồm cả trí thức và
các bộ phận trong quân đội. Và mặc dù (hoặc có lẽ là do)
kiểm soát chặt chẽ báo chí và internet, niềm tin của công
chúng đối với các thông tin của chính phủ không còn mạnh
như trước đây. Tất cả mọi thứ, từ các con số cho thấy
lạm phát được kiểm soát cho tới các báo cáo lạc quan về
tiến độ bảo vệ môi trường, được đón nhận với thái
độ hoài nghi của những người đọc báo. Nếu công chúng tin
rằng đảng cộng sản tự cho là để bảo vệ độc lập dân
tộc, mà không còn [đủ sức] bảo vệ lợi ích chính đáng
của quốc gia, thì tính hợp pháp của đảng sẽ ngày càng bị
nghi ngờ.
Người dịch: Ngọc Thu
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2010
__________________
<h2>Ba Sàm chú thích:</h2>
* Sophie Quinn-Judge, tác giả cuốn Hồ Chí Minh – Những năm
tháng chưa được biết đến
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4858), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét