Chúng tôi xin giới thiệu ở đây bài văn làm trong kỳ thi Đình
(làm tại sân triều đình) - do nhà vua ra đề bài, chấm bài,
để phân hạng các tiến sĩ. Người đỗ đầu (đủ 10 phân)
là Trạng nguyên. Đề bài thường hỏi về các vấn đề lớn
của đất nước và về việc trị nước. Bài thi đó gọi là
Sách văn đình đối.
Bài văn dưới đây là sách văn đình đối đã mang lại lại
danh hiệu Trạng Nguyên cho Nguyễn Trực (1417 - 1473) trong kỳ thi
Đình năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3. Nguyễn
Trực là vị Trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Tấm bia ghi
về khoa thi này là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, được
dựng năm 1484.
Nguyễn Trực dẫn đầu đoàn sứ bộ sang sứ nhà Minh vào năm
1444 cùng với Phó sứ Trịnh Thiết Tràng. Giữa triều đình
phương Bắc, Nguyễn Trực đã hoàn thành sứ mệnh bằng kiến
thức uyên bác, tài ứng đối nhạy bén, sắc sảo, sự vững
vàng cứng cỏi và trên hết là ý thức tự hào dân tộc rất
chính đáng của mình, khiến vua tôi nhà Minh phải kiêng nể.
Năm 1457 viên sứ thần nhà Minh là Hoàng Gián sang ta. Lê Nhân
Tông đã triệu Nguyễn Trực về triều để tiếp sứ Tàu.
Hoàng Gián vặn vẹo đủ điều, nhưng điều nào cũng được
Nguyễn Trực giảng giải phân minh, khiến cho vị "thiên sứ"
nọ phải thán phục thốt lên "Quốc hữu nhân tài"(nước
(Việt) có người tài).
Tài năng và phẩm chất của Nguyễn Trực được Lê Thánh Tông
đánh giá cao. Mặt khác, vốn rất coi trọng sự nghiệp đào
tạo nhân tài, Lê Thánh Tông đã tìm thấy ở Nguyễn Trực một
nhà giáo xuất sắc, mẫu mực, và cử ông làm Quốc tử giám
tế tửu. Nguyễn Trực tham gia hiệu đính, phê duyệt bổ
"bách khoa toàn thư" của thời ấy: Thiên Nam dư hạ tập. Gia
phả ghi rằng bộ Thiên Nam dư hạ tập theo lệnh của Lê Thánh
Tông, phải mang đến tận nhà để Nguyễn Trực phê duyệt mới
được xuất bản.
Bản dịch bài văn sách thi Đình đem lại danh hiệu Trạng
nguyên cho Nguyễn Trực do Hoàng Hưng dịch. Hoàng Hưng là bút
danh của TS Hoàng Văn Lâu (1940 - 2003). Ông sinh năm 1940 tại
Đông Hưng, Thái Bình, trong một gia đình gia giáo, trọng thi
thư. Năm 1986 ông bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ về bộ
sách Việt Sử cương mục tiết yếu của sử gia Đặng Xuân
Bảng. Ngày 8 tháng 8 năm 2003, ông đi xe máy đèo một người
bạn đi thăm một người bạn đang nằm viện và bị tai nạn
giao thông, mất ngay tại chỗ, cách nhà vài trăm mét. Hưởng
dương 63 tuổi.
Ôi! Người xưa của ngày xưa!</em></div>
<h2>BÀI VĂN SÁCH THI ĐÌNH CỦA TRẠNG NGUYÊN NGUYỄN TRỰC</h2>
<em>Hoàng Hưng dịch</em>
Trong kho sách Hán Nôm có một khối lượng khá lớn văn bản ghi
lại những bài văn hay của các ông nghè, ông cử làm trong các
dịp thi Hội, thi Hương. Nhìn chung, loại văn thơ thi cử, làm
theo một khuôn khổ gò bó, ít sáng tạo lớn. Nhưng ở một số
bài văn sách, nhất là các bài văn sách nói về đường lối
xây dựng đất nước đương thời lại có những giá trị sử
liệu nhất định.
Bài văn sách thi Đình của Trạng nguyên Nguyễn Trực làm trong
dịp thi Đình năm 1442, là một luận văn xuất sắc trong thi cử
thời ấy. Bài văn nói về đường lối dùng người, kiến
nghị các biện pháp để "tiến cử bậc quân tử, lui bỏ kẻ
tiểu nhân", là một tư liệu lịch sử quí có thể giúp ta
tìm hiểu đường lối dùng người ở buổi đầu của nhà Lê,
do vậy chúng tôi dịch và giới thiệu để bạn đọc cùng tham
khảo.
Nguyên bản được ghi lại trong tác phẩm Bối Khê trạng nguyên
đình đối sách văn; ký hiệu: A.1225, thư viện Viện Nghiên
cứu Hán Nôm.
<h3>[ĐỀ BÀI]</h3>
Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời
Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng,
ngoài Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục(1) ra, không thấy còn
ai nữa; Sao nhan tài khó tìm vậy! Đến Đề Nghiêu sáng suốt
hiểu người là thế, mà trong triều vẫn còn lũ Tứ hung(2). Sao
tiểu nhân khó biết vậy! Cái nạn Giáng thủy, cái hoạ Hoài
sơn(3) dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn thị
thủy đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân; Sao trừ bỏ
tiểu nhân muộn vậy! Đời Chu được Kinh thi ca ngợi là "kẻ
sỹ đông đúc". Văn Vuơng dựa vào họ mà dẹp yên đất
nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn thấy nhắc tới
Thập loạn(4). Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng
đúng sao? Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu
Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp đổ(5); sao bọn
tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại nào là không
có chúng!
Đức Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều
phen xuống chiếu cầu hiền mà không có một ai trúng tuyển,
trong khi ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo (6) ngầm nuôi mưu gian.
Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà
việc chọn nhân tài vẫn mịt mở thăm thẳm; bọn Ngân, bọn
Sát(7) lại gian ngoan chúa ác. Sao người quân từ khó tìm, kẻ
tiểu nhân khó biết như vậy?
Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm
sẽ đích thân xem xét.
<h3>[BÀI LÀM]</h3>
Thần trả lời:
Thần nghe nói: Xưa nay, bậc thánh nhân trị nước, dẫu sự
nghiệp có khác nhau, nhưng tầm lòng của họ, trước sau vẫn
là một. Tiến cử người quân tử, lui bỏ kẻ tiểu nhân, ấy
là bản tâm của bậc thánh nhân trị nước. Còn như người
quân tử bị lui bỏ, mà kẻ tiểu nhân được tiến cử thì
đâu phải là nguyện vọng của Thánh nhân.
Xem như đời Đường Ngu, đức sáng lớn lao mà không khinh suất
trong việc dùng người: Đặt quan chỉ dùng người giởi, trao
việc chỉ chọn tài năng, cũng như mục đích tìm người giỏi,
dùng người tài của triều ta, đều là phép dùng người quân
tử, trừ bỏ tiểu nhân vậy?
Hoàng thượng(8) kế thừa nghiệp lớn, trị nước giữ dân,
sớm tối cầu hiền để giúp nên cơ nghiệp. Rồi lại đặt
khoa thi chọn kẻ sỹ, mở rộng đường cho hiền giả tiến
thân, tiến cử bọn thần ở giữa triều đình, hỏi về đạo
trị nước và đạo quân tử, tiểu nhân khác biệt. Thần là
kẻ ngu muội, đâu dám xét bàn trước bề trên, nhưng đã thẹn
vâng chiếu sáng, dám đâu không trung thực phi bầy để đáp
lại mệnh lớn của thiên tử.
Thần cúi đọc lời sách vấn của Thánh thượng hỏi rằng:
Trẫm nghĩ: Trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời
Đường Ngu, nhân tài có nhiều, nhưng các quan được dùng,
ngoài Từ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra không thấy còn ai
nữa; Sao nhân tài khó tìm vậy! Đến Đế Nghiêu sáng suốt
hiểu người là thế, mà trong nước vẫn còn lũ Tứ hung; Sao
tiểu nhân khó biết vậy "Cái nạn Giáng Thủy, cái hoạ Hoài
Sơn, dân chúng thời ấy, tai vạ thực không ít. Cổn trị thủy
đến 9 năm, gây biết bao tai hoạ cho dân; Sao trừ bỏ tiểu
nhân muộn vậy!
Thần cho rằng: Trị nước lấy nhân tài làm gốc, dùng người
lấy chữ tín làm đầu Thời Đường Ngu, nhân tài có nhiều,
nhưng các quan được dùng, chỉ thấy sách ghi là "hỏi ở Tứ
nhạc" "nghe ở Thập nhị mục". Tứ nhạc là người coi
chung chư hầu bốn phương. Thập nhị mục là các đầu mục
của Chín châu, cùng với Vũ là Tư không, Khí là Hậu tắc,
Tiết là Tư đồ, Cao Dao là Sỹ sư. Thùy là Công công, Ích là
Ngu quan, Bá Di là Trật tôn, Qùy là Điển nhạc, Long là Nạp
ngôn, gọi là Cửu quan. Ngoài ra thì không thấy còn ai nữa. Kinh
Thư nói: Đường Ngu đặt trăm quan. Lại có chỗ ghi: Người có
đức được sử dụng, kẻ có tài được trao chức, trăm quan
làm khuôn phép, trăm việc đều kịp thời. Chốn miếu đường
bàn bạc việc chung, nơi điện bệ lời ca vang dội. Người
người đều có đức hạnh của bậc sỹ quân tử; nhà nhà
đều có phong tục đẹp đáng nêu khen. Cho đến nhân tài muôn
mước đều là thần dân của Hoàng đế. Như vậy, phải đâu
là nhân tài khó thấy? Còn như đế Nghiêu sẵn đức văn võ
thánh thần, có tài hiểu người sáng suốt nhưng trong triều
vẫn còn lũ Tứ hung là bởi sao?
Bởi đạo của kẻ tiểu nhân dễ tiến mà khó lui, dễ dùng mà
khó bỏ. Đại gian như trung, đại nịnh như tín, chúng vào hùa
kết đảng thậm chí dẫn dắt tiến cử lẫn nhau.
Nhưng đâu phải Đế Nghiêu sáng suốt không biết điều đó.
Xem như câu: Dùng lời nói khéo để trái mệnh vua, giả cách
kính nhường để gây tội ác(9), và câu: Hỡi ôi, bỏ mệnh
Tiền Vương, gây tai hoạ cho dòng họ(10) thì có thể thấy rõ
điều đó. Như thế, đâu phải kẻ tiểu nhân khó biết, mà
chỉ là chưa trừ bỏ sớm thôi!
Nhưng đời Đường ngu, dùng phép Tam khảo(11) để bình xét
công trạng của các quan. Cho nên, Nghiêu phải dùng Cổn tới 9
năm. Khi xét thấy Cổn không hoàn thành công việc rồi mới
phế bỏ, chứ đâu phải là bỏ không sớm? Sau đó, Thuấn theo
lệnh Nghiêu giết Cổn mà thiên hạ đều phục, như vậy, phải
đâu tiểu nhân khó trừ. Xem thế thì thời Đường Ngu tuy có
tiểu nhân, nhưng chúng không làm hại được công cuộc trị
nước của Nghiêu Thuấn.
Thần cúi đọc lời sách vấn hỏi rằng: Đời Chu được Kinh
Thi ca ngợi là "kẻ sỹ đông đúc". Văn Vương dựa vào họ
mà dẹp yên đất nước. Nhưng đến đời Vũ Vương, chỉ còn
thấy nhắc tới Thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó
kiếm, há chẳng đúng sao! Quản Thúc, Sái Thúc phao tin đồn
nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương thất suýt sụp
đổ; Sao bọn tiểu nhân gian hiểm đến thế, không thời đại
nào là không có chúng.
Thần nghe rằng: Văn Vương hiểu rất rõ ý nghĩa và tác dụng
của đạo "Tam hữu"(12) nên nhân tài đông đảo. Đó là
điều tốt đẹp của nhà Chu. Đến đời Vũ Vương, chỉ có 10
người bề tôi dẹp loạn là Chu Công Đán, Thiệu Công Thích,
Thái Công Vọng, Tất Công, Vinh Công, Thái Điên, Hoằng Yên,
Tản Nghi Sinh Năm Cung Quát và một người là Ấp Khương. Cho
nên Khổng Tử nói "Nhân tài khó kiếm" chẳng đúng thế sao!
Từ thời Đường Ngu đến lúc này là có nhiều người tài
giỏi. Nhưng trong 10 người ấy, có một là đàn bà(13) còn lại
chỉ có 9 người thôi.
Nhưng xét kỹ phẩm chất biết dùng người hiền của Văn
Vương trong bài thơ Vực phác(14) và niềm vui bồidưỡng nhân
tài trong bài thơ Tinh nga(15) cùng những lời ngợi a như "ba
ngàn kẻ sỹ, chỉ một tấm lòng..." thi nhân tài đời Chu
không phải là không nhiều. Nói là nhân tài khó kiếm, chỉ có
là không bằng thời Đường Ngu thôi, đâu phải ngoài 9 người
ra, không còn ai khác. Ôi, nhân tài đông đúc như vậy, nhưng
đương lúc Thành Vương mới lên ngôi, Quản Thúc, Sái Thúc là
người ruột thịt trong Vương thất, ép Vũ Canh chống lại nhà
Chu, nên đã phao tin để mê hoặc lòng người, khiến Thành
Vương nghi ngờ Chu Công, làm cho Chu Công phải lận đận chạy
về Đông Đô.
Bởi lúc ấy, Vũ Vương đọc thơ nhưng vẫn chưa tỉnh ngộ.
Sự nghiệp của Văn Vương, Vũ Vương như ngàn cân treo sợi
tóc. Nếu như trời không nổi gió mưa sấm sét để phô bày
tội ác của Tạm giám(16) để tỏ rõ công đức của Chu Công
thì ai có thể thức tỉnh và phù trì Thành Vương? Tuy nói kẻ
tiểu nhân gian hiểm, không thời đại nào là không có, nhưng
xem câu "kẻ có tội phải chịu tội" thì cũng thấy là tội
ác của bọn tiểu nhân rốt cuộc không thể thắng được
người quân tử.
Thần cúi đọc sách vấn của thánh thượng hỏi rẳng: Đức
Thái tổ Cao hoàng đế ta lấy được thiên hạ, nhiều phen
xuống chiếu cầu hiển mà không có một ai ứng tuyển, trong khi
ấy thì bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi
lên ngôi tới nay, gắng sức trị nước, thế mà việc chọn
nhân tài vẫn mịt mờ thăm thẳm; bọn Ngân, bọn Sát lại gian
ngoan chúa ác... Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó
biết như vậy?
Thần trộm nghĩ: Thái tổ Cao hoàng đế, theo trời mở vận,
khai sáng cơ đồ; sẵn thiên tư thần vũ anh minh, là bậc chúa
dựng nền ban phúc, luôn nhớ nỗi gian nan sáng nghiệp, luôn
nhớ điều giữ nước khó khăn, đã nhiều phen xuống chiếu
cần hiền, mong tìm được nhân tài trị nước, thế mà không
có một ai ứng tuyển là bởi cớ làm sao?
Ôi, một xóm nhỏ có mười gia đình, thế nào cũng có người
trung tín; một mảnh vườn mươi thước, thế nào cũng có loại
cỏ thơm. Huống chi cả nước rộng lớn, có ức triệu người
mà lại không có lấy một người tài giỏi há sao?
Thần nghĩ rằng: Tấm lòng của Thái tổ Cao hoàng đế, tức là
tấm lòng sáng suốt hiểu người của vua Nghiêu, là tấm lòng
khéo biết chọn người của vua Thuấn, cũng là ý đẹp gây
dựng người hiền bằng mọi cách của Thành Thang, là phép hay
không sót người gần, không quên kẻ xa của Vũ Vương. Bởi lo
bậc hiền tài ẩn náu chốn hang cùng, nên hạ chiếu cầu hiền
nhiều bận; bởi lo người tài giỏi lánh trong hàng tăng, đạo,
nên đặt khoa thi để lựa chọn nhân tài. Thế mà chưa có kết
quả là vì sao?
Là bởi tự mình chọn người, là đạo người làm vua, nhưng
tiến cử tài năng cho đất nước, lại là chức trách của
bậc đại thần. Bọn Hãn, bọn Xảo ngầm nuôi mưu gian ghen
ghét hiền tài cất nhắc bè lũ. Bản thân chúng đã chả ra gì,
thì làm sao tiến cử được nhân tài! Xem thế, dẫu Thái tổ
Cao hoàng đế có nguyện vọng cầu hiền, nhưng bị bọn Hãn,
Xảo che lấp hiền tài, nên không tìm được. Người xưa có
câu: Ai tiến cử nhân tài, sẽ được ban thưởng mức cao
nhất. Kẻ nào che lấp tài năng, phải bị trị tội nặng. Vì
thế, bọn Hãn, Xảo đã không thoát khỏi sự trừng phạt của
Thái tổ Cao hoàng đế. Bọn chúng cũng là lũ Tứ hung đời Ngu,
lại Tam giám đời Chu đó! Nhưng dù có bọn tiểu nhân như
chúng, vẫn không thể làm hỏng được công cuộc trị nước
bấy giờ.
Bệ hạ nối chí trị nước, giữ vững cơ đồ. Công bằng
lựa chọn thẩy đều là cựu thần của Thái tổ; tỳ hư dũng
mãnh, thẩy đều là nghĩa sỹ của Cao Hoàng(17). Đương buổi
đầu lên ngôi, đã xuống chiếu mở khoa thi, muốn chọn nhân
tài để dựng nền thịnh trị. Thế mà hiệu quả được
người vẫn xa vời thăm thẳm; Chân thành cầu hiền, vẫn chưa
được ai xứng đáng. Há không phải bọn Ngân, bọn Sát gian
ngoan chúa ác gây nên hay sao?
Thần cho rằng: Bọn Ngân, bọn Sát lừa dối bề trên, hãm hại
hiền tài, lấy bọn theo mình làm giỏi, lấy bọn múa mép làm
tài, mua quan bán tước, hối lộ ngang nhiên, đầy Cầm Hổ ra
chân xa, bãi chức quan của Thiên Tước(18). Những việc như
vậy, đâu phải vì nước tiến cử nhân tài, vì vua lựa chọn
bề tôi? Do vậy mà người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó
biết.
Nhưng có thực là kẻ tiểu nhân khó biết hay không? Kìa bọn
tiểu nhân Ngân, Sát, đã không thoát lưới của bệ hạ, mà
quyết định sáng suốt của bệ hạ như Ngu, như Chu, như Thái
tổ Cao hoàng đế, tấm lòng ưa thiện, ghét ác đều được
thoả đáng mà khắp thiên hạ đều khâm phục vậy.
Ôi, quân tử và tiểu nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Đạo
quân tử mạnh thì đạo tiểu nhân suy; đạo quân tử suy thì
đạo tiểu nhân mạnh. Như âm với dương, như ngày với đêm
không thể cùng song song vận hành; như nước với lửa, như
thơm với thối, không thể cùng chứa trong một rọ. Cho nên
bậc bề trên, mỗi lúc dùng người phải bình tĩnh, phải
chuyển tâm, phải thử thách, phải thận trọng mới được.
Thần cúi đọc lời sách vấn của thánh thượng hỏi rằng:
Các ngươi hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, Trẫm
sẽ đích thân xem xét. Thần tài năng chưa được bác cổ thông
kim, dẫu hàng ngày ngu dốt, vẫn muốn được bề trên soi xét.
Huống nay được dịp trình bầy, dám đâu không dốc hết hiểu
biết của mình kính cẩn trả lời.
Thần nghe nói: Trị nước lấy được người làm gốc, dùng
người lấy sửa mình làm đầu. Truyện viết: Trị nước ở
người, lấy người do mình. Lại có câu: Nghiêu Thuấn sáng
suốt nhưng không biết hết mọi điều; hãy làm việc cần kíp
trước; Nghiêu Thuấn nhân từ, nhưng không yêu khắp mọi
người, hãy gần gũi người tài trước. Bệ hạ muốn học
tập Nghiêu Thuấn thì đạo Nghiêu Thuấn còn đó; muốn học
tập Thái tổ, thì phép Thái tổ còn kia. Bệ hạ muốn học
Nghiêu, Thuấn, hãy quyết định đạo hiểu người, yêu dân
phải làm trước, đạo dùng hiền, trừ gian phải làm kíp. Như
vậy thì quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.
Bệ hạ muốn học Thái tổ hãy tưởng nhớ qui mô sáng nghiệp
truyền dòng, phép tắc cầu hiền dùng người. Như vậy thì
quân tử tiến và tiểu nhân lùi vậy.
Bệ hạ muốn quân tử tiến, tiểu nhân lùi thì không gì bằng
gần gũi bề tôi khí tiết, sử dụng kẻ sỹ chính trực để
họ đưa vua đi đúng đường đặt vua vào chỗ không lầm lỗi.
Cho nên, Mạnh Tử nói: Không thể chỉ trách cứ người mình
dùng, không thể chỉ chê bai việc chính sự. Duy bậc Đại nhân
mới biết sửa lỗi lầm của vua. Vua có nhân, không ai không có
nhân; Vua có nghĩa, không ai không có nghĩa; Vua chân chính, không
ai không chân chính. Trước hết, vua chân chính rồi cả nước
sẽ bình yên (19).
Thần xin bệ hạ hãy đích thân tiến cử hiền thân để bố
trí ở quanh mình, như Thuấn tiến của Cao Dao mà kẻ bất nhân
lìa xa. Thành Thang tiến cử Y Doãn mà trăm quan đều thuần
nhất; Cao Tông được Phó Duyệt mà tâm trí mở mang: Thành
Vương được Chu Công mà cậy nhờ giúp dân. Được như vậy
thì chốn dân dã không sót nhân tài mà muôn cõi yên ổn, bản
thân mình được hưởng mệnh trời mà triệu dân sinh sôi. cùng
là sớm tối nghe lời khuyên can để giúp đức dân, kinh dinh
bốn phương để giữ yên đất nước. Như thế thì lo gì quân
tử không được tiến cử, tiểu nhân không bị đẩy lùi.
Dẫu vậy, hãy nhớ ba điều Tri, Nhân, Dũng là đạt đức của
thiên hạ. Không có Trí thi không thể hiểu người; không có
Nhân thì không thể chọn người; không có Dũng thì không thể
dùng người. Lấy Trí hiểu người thì có thể hiểu biết rõ
ràng và đầy đủ tài năng của họ. Lấy Nhân chọn người
thì không bỏ người tài khi họ cùng khốn và chọn được
người hết lòng trung thành. Lấy Dũng dùng người thì tin dùng
không nghi ngờ và chuyên tâm nghe hết mọi điều. Nếu có cả
ba điều TRí, Nhân, Dũng này thì lẽ dùng, bỏ rõ ràng, lòng
yêu, ghét chính đáng. Đó chính là ý nghĩa của câu "Chỉ có
người nhân mới biết yêu người, biết ghét người" vậy.
Chuyện Hãn, Xảo, Ngân, Sát đã qua rồi. Nay các quan trong triều
đình, kẻ sỹ chốn dân đã thực có thể lựa chọn kỹ, sử
dụng chuyên, tin cậy chắc. Lại ban phép khảo xét công trạng.
Trải đủ ba kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng hay
giáng, khen hay chê. Người nào tốt, kẻ nào xấu, người nào
liêm khiết, tài giỏi, siêng năng, mẫn cán, kẻ nào ngu dốt,
tham lam, lơ là, lười biếng, giữ ghế ăn hại, không đức,
bất tài, gian ngoan chứa ác, đều bộc lộ rõ ràng. Như vậy
thì trăm quan đông đảo, đều giữ phong cách người quân tử
có đáng lo gì bọn tiểu nhân!
Thần thẹn được gội ân thánh dạt dào đã mấy năm nay, ơn
sâu nghĩa dầy, gượng theo kẻ sỹ, kính đối trước triều
đình. Thần đau đáu tấm lòng khuyển mã, xiết ba xúc động,
dám xin mạo muội thưa trước uy thần. Cúi mong bệ hạ tha thứ
cho tội ngông cuồng này.
<em>HOÀNG HƯNG dịch</em>
Theo sách Chu quan thì Sách là những lời của vua phát ra, như
Sách mênh, Điển sách ... Từ đời Hán trở đi, mới lấy bài
văn sách để thi học trò. Có hai thể văn sách.
1. Chế sách: vua hỏi về nguồn gốc trị loạn xưa nay và
điều hay điều dở của chính sự đương thời, học trò theo
hiểu biết của mình mà trả lời, gọi là Đối sách. 2. Thí
sách: Vua hoặc quan thay mặt vua ra đầu bài hỏi về nghĩa lý
của các sách Kinh điển đạo Nho. Người làm vận dụng những
điều học được mà trả lời, gọi là lối văn Xạ sách.
<h3>CHÚ THÍCH</h3>
(*) Nguyễn Trực (1417-1474) tự Công Dĩnh hiệu Hu Liêu, người
xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, đạo sơn Nam, nay là người thôn
Bối Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh oai, Hà Sơn Bình, đỗ Trạng
Nguyên khoa Nhâm Tuất, năm Đại Bảo thứ 3 (1442) đời vua Lê
Thái Tông.
(1) Tứ nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục: xem giải thích ở phần
sau.
(2) Tứ hung: 4 tên quan hung ác thời cổ là Hồn Đôn, Cùng Kỳ,
Đào Ngột và Thao Thiết.
(3) Nạm Giáng thủy, hoạ Hoài sơn: chỉ hai nạn lụt lớn xảy
ra thời nghiêu Thuấn.
(4) Thập loạn: 10 người bề tôi giỏi, dẹp loạn yên dân (xem
thêm phần dưới).
(5) Chu Công, tên là Đán, con Chu Văn Vương làm tướng cho Vũ
Vương đánh Trụ, Vũ Vương chết, Thành Vương còn nhỏ, Chu
Công nhiếp chính. Quản Thúc, Sái Thúc là người tông thất, âm
mưu làm phản, phao tin là Chu Công định cướp ngôi vua. Chu Công
viết bài thơ cho Thành Vương, Thành Vương không tỉnh ngộ, nên
phải lánh ra ở Đông Đô.
(6) Hãn là Trần Nguyên Hãn, Xảo là Phạm Văn Xảo, là hai công
thần khia quốc của Lê Lợi. Sau khi dẹp xong giặc Minh, hai ông
bị kết tội là ngầm kết bè đảng để làm phản, cả hai
đều bị giết.
(7) Ngân là Lê Ngân, Sát là Lê Sát, là hai võ tướng có nhiều
công lao giúp Lê Lợi khởi nghĩa và chiến thắng giặc Minh.
Đến đời Thái Tông, hai ông bị kết tội là chuyên quyền;
ngầm mưu làm phản và đều bị giết.
(8) Hoàng thượng ở đây chỉ Lê Thái Tông, người ra bài sách
vấn này yêu cầu người thi trả lời.
(9) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: "Tĩnh ngôn duy vi, tượng cung
thao thiên".
(10) Lời của Kinh Thư. Nguyên văn: "Hu hất phương mệnh, tị
tộc chi loạn".
(11) Phép Tam khảo: Phương pháp khảo xét công trạng của các
quan thời Nghiêu Thuấn.
(12) Đạo Tam hữu: Sách Luận ngữ có câu: "Ích giả Tam hữu,
Tồn giả tam hữu", tức là gần gũi với ba loại người:
Trung trực, độ lượng và hiểu biết thì có lợi, ngược
lại, gần gũi với ba hạng người nhỏ nhen, nhu nhược và
xiểm nịnh thì có hại.
(13) Tức là bà Ấp Khương, bà hậu của Chu Vũ Vương, con gái
của Thái Công Vọng, mẹ của Chu Thành Vương.
(14) Vực phác: là tên một bài thơ trong phần Đại nhã của
Kinh thi, ca ngợi hiền tài đông đúc.
(15) Tinh nga: là gọi tắt của Tinh tinh giả nga, là tên 1 bài
thơ trong phần Tiểu nhã của Kinh Thi, ca ngợi niềm vui bồi
dưỡng nhân tài.
(16) Tam giám: Vũ Vương diệt Ân, lập người con của Trụ là
Lộc Phụ, sai ba người em là Quản Thúc, Sái Thúc và Hoắc Thúc
giám sát, gọi là Tam giám.
(17) Thái tổ, Cao hoàng ở đây đều chỉ Lê Lợi. Lê Lợi mất
có miếu hiệu là Thái tổ Cao hòng đế.
(18) Cầm Hổ tức Bùi Cầm Hổ, làm quan Ngự sử, vì mâu thuẫn
với Lê Sát, bị đổi ra làm An phủ sứ trấn Lạng Sơn. Thiên
Tước, tức Phan Thiên Tước trước làm quan Ngự sử, sau bị
đổi ra ngoài làm Chuyển vận phó sứ huyện Đa Cẩm, sau lại
bị bãi chức, sung quân.
(19) Đây là một đoạn trong thiên Ly Lâu thượng sách Mạnh
Tử. Nguyên văn: "Nhân bất túc dữ thích dã, chính bất túc
giám dã, duy đại nhân vi năng cách quân tâm chi phi; Quân nhân,
mạc bất chính. Nhất chính quân nhi quốc định hỹ".
<em>Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 1 (6)- 1989, trang 51-55.</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4749), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét