Lạc Văn - Duyên tình Việt - Trung

Có những điều ở đời không phải do ta lựa chọn,
mối duyên tình láng giềng Việt – Trung trên hai ngàn năm nay
cũng vậy. Suốt hơn hai nghìn năm đó, quan hệ tốt xấu, lợi
hại cũng tùy lúc. Nhưng có hai yếu tố xuất hiện gần như
thường trực trong cả chiều dài lịch sử quan hệ hai nước
là sự nghi ngờ của ta với Trung Quốc, và Trung Quốc là mối
đe dọa tiềm tàng đối với an ninh hay thậm chí là sự tồn
vong của Đất nước. Mối nghi ngại đó đã trở thành tiềm
thức cộng động. Cũng không cần có những nghiên cứu chuyên
sâu ta cũng hiểu được lý do. Hơn nghìn năm Bắc thuộc, và sau
khi nước ta giành được độc lập, đã bao lần bị Trung Quốc
tấn công, từ các triều đại Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,
đến CHND Trung Hoa. Nhưng cũng phải công bằng mà đánh giá, quan
hệ Việt – Trung đã đem lại những giá trị quý giá, đó là
sự giao thoa văn hóa, làm phong phú văn hóa Việt. Và ta cũng
phải nhìn nhận sự giúp đỡ, ủng hộ quý giá về chính trị,
quân sự, kinh tế của CHND Trung Hoa trong những ngày khó khăn
của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi mà ta bị bao vây, chưa
nhận được sự công nhận và giúp đỡ nào từ bên ngoài,
cũng như sự giúp đỡ to lớn trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Tuy những sự giúp đỡ đó cũng vì cả lợi ích riêng
của Trung Quốc. Giúp Việt Nam, Trung Quốc tránh bị bao vây và
đối mặt trực tiếp với những kẻ thù đế quốc là Pháp,
và sau là Mỹ. Giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, Trung
Quốc còn cạnh tranh ngọn cờ đầu với Liên Xô trong phong trào
cách mạng và giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, cũng
như luôn tạo ra không khí chuẩn bị chiến tranh để người
dân Trung Quốc bớt chú ý đến những khủng hoảng kinh tế, xã
hội trầm trọng diễn ra lúc bấy giờ. Bất cứ việc gì
người ta làm cũng có động cơ, và đó cũng là điều hiển
nhiên, không phải vì vậy mà ta đánh giá thấp sự giúp đỡ
của họ.

Xác định về tiềm năng của quan hệ Việt – Trung trong tương
lai, ta có thể đánh giá sơ qua tiềm lực của Trung Quốc, mục
tiêu và chiến lược của họ, chiến lược trong quan hệ với
các cường quốc khác, với các nước trong khu vực, chiến
lược đối với Việt Nam,và chiến lược của ta, cũng như vị
thế địa – chính trị của Việt Nam.

Thứ tự mục tiêu của Đảng và nhà nước Trung Quốc có thể
sắp xếp như sau:

- Quan trọng nhất tất yếu sẽ là giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng và tính chính đáng của nó;

- Ổn định xã hội, đảm bảo phát triển với mục tiêu trở
thành siêu cường. Cũng chính những yếu tố này đảm bảo
tính chính đáng của vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng;

- Giải quyết những vấn đề liên quan đến sự toàn vẹn lãnh
thổ, ưu tiên hàng đầu sẽ là vấn đề Đài Loan, Tây Tạng.
Nếu là siêu cường, cũng như một người khỏe mạnh, không
thể để tồn tại trong mình những trọng bệnh;

- Để có được ổn định xã hội, nhà nước cần phải giải
quyết các vấn đề như khoảng cách phân biệt giàu nghèo quá
lớn, tình trạng tham nhũng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi cấp,
vấn đề môi trường, vấn đề dân tộc thiểu số, tín
ngưỡng;

- Để đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế, Trung Quốc
cần đến vốn, năng lượng và chất xám;

- Tùy theo vị thế của mình, tình hình phát triển trên thế
giới trong mỗi thời điểm, giải quyết các tranh chấp lãnh
thổ, quan trọng nhất trong đó sẽ là tranh chấp trên Biển
Đông. Biển Đông vừa liên quan đến vấn đề tranh chấp lãnh
thổ, vừa là nguồn cung cấp năng lượng với trữ lượng lớn
dầu mỏ và khí đốt, lại là tuyến đường chiến lược trong
vận tải nói chung và vận tải dầu mỏ nói riêng. 80% lượng
dầu mỏ đến Trung Quốc đi qua Biển Đông. Biển Đông cũng có
vị trí chiến lược để vươn ra ngoài của Trung Quốc;

Đánh giá tiềm lực của Trung Quốc, ta có thể thấy
Trung Quốc là cường quốc chính trị, thành viên thường trực
của HĐBA LHQ, một trong năm nước có quyền phủ quyết. Trung
Quốc là cường quốc kinh tế, hiện tại có nền kinh tế lớn
tương đương Nhật Bản, nước đứng thứ hai trên thế giới.
Với sự phát triển nhanh của mình, Trung Quốc có tham vọng
muốn trở thành siêu cường, cạnh tranh với Mỹ trong tương lai
không xa. Điều đó hoàn toàn có thể trở thành sự thực. Trung
Quốc cũng là cường quốc quân sự, với chi phí quân sự
khoảng 70 tỷ USD trong năm 2009, con số chính thức do Trung Quốc
công bố <em>("China Plans to Boost 2009 Military Spending by 14.9%
(Update2)")</em>, con số chi thực có thể vượt 100 tỷ USD, tăng
khoảng 15% /năm, chi phí quân sự chỉ sau Mỹ.

Tiềm năng của Trung Quốc rất lớn, với dân số 1,3 tỷ
người, diện tích rộng lớn, văn hóa phong phú và lâu đời.
Ngoài những nguy cơ gây bất ổn xã hội có thể làm Trung Quốc
suy yếu, mất ổn định chính trị cũng có thể gây nên thảm
họa. Mầm mống tiềm tàng có thể gây nên khủng hoảng chính
trị trong tương lai dài hạn của Trung Quốc chính là thể chế
chính trị. Câu hỏi là liệu khi đời sống vật chất đầy
đủ, dân trí tăng cao, nhu cầu tinh thần của người dân có
đòi hỏi những cải cách, thay đổi nền tảng chính trị hay
không, và khi thay đổi thể chế chính trị liệu có gây nên
nội chiến hay không. Trong lịch sử Trung Quốc, thay đổi quyền
lực, chính quyền, thể chế thường kéo theo nội chiến đẫm
máu. Cho dù dân trí nâng cao, không loại trừ được khả năng
nội chiến, bởi Trung Quốc không bao giờ thiếu sự chia rẽ,
không thiếu những giới quyền lực, quân phiệt, tài phiệt có
tham vọng quyền lực.

Nền tảng kinh tế của Trung Quốc hiện tại
khá vững. Qua cuộc khủng hoảng vừa rồi ta có thể thấy Trung
Quốc vẫn giữ được tốc độ phát triển rất cao trên 8%,
bởi nền kinh tế không chỉ dựa vào xuất khẩu mà tiêu dùng
nội địa đã đóng vai trò quan trọng. Kinh tế Trung Quốc có
thể rơi vào khủng hoảng trong tương lai nếu như bong bóng trái
phiếu chính phủ Mỹ vỡ. Trung Quốc còn nắm trong tay hơn nghìn
tỷ USD trái phiếu đó. Nợ của chính phủ Mỹ là rất lớn,
số nợ sẽ còn tăng cao bởi thâm hụt ngân sách của Mỹ trong
những năm tới còn trên đà tăng. Khả năng chi trả có thể
sẽ thành vấn đề, đòi hỏi phải in thêm tiền. Lạm phát
tăng, chi phí tăng, giá thành đồng vốn tăng, nợ tăng, chỉ
số tin cậy giảm. Nó như cái vòng luẩn quẩn. Nhưng kịch bản
đó nếu xảy ra sẽ kéo theo khủng hoảng toàn cầu, người bị
thiệt sẽ không chỉ có Trung Quốc. Ngoài ra, kinh tế Trung Quốc
có thể gặp khủng hoảng trong trường hợp bong bóng thị
trường nhà đất, chứng khoán tại Trung Quốc vỡ, kéo theo
khủng hoảng hệ thống tài chính.

Hiện tại một trong những sức mạnh cạnh tranh,
và là động lực phát triển của nền kinh tế Trung Quốc vẫn
dựa trên yếu tố nhân công rẻ, sự chăm chỉ của người
dân, sự linh hoạt của doanh nghiệp. Nền kinh tế dựa trên
sản xuất với công nghệ, giá trị chất xám tương đối thấp
hay vẫn được gọi là copy chất xám, sử dụng nhân công
nhiều. Nếu Trung Quốc muốn đảm bảo tốc độ phát triển cao
trong một giai đoạn dài trong tương lai, và muốn trở thành
nước phát triển thì đòi hỏi phải đầu tư rất lớn để
chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi nền tảng quản lí –
tư duy, công nghệ - khoa học kỹ thuật, kinh tế và giáo dục
mà các nước phương Tây đã phải đầu tư trong vòng hơn hai
trăm năm kể từ cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ 18,
Nhật Bản cũng đã trải qua gần một thế kỷ rưỡi, tính từ
Minh Trị duy tân, thập niên 60 của thế kỷ 19. Thời gian để
Hàn Quốc, Đài Loan hay Singapore trở thành những nước phát
triển có ngắn hơn, bắt đầu từ những năm 50-60 của thế
kỷ 20, nhưng những nước đó rất nhỏ so với trường hợp
Trung Quốc, rất khó để copy mô hình như vậy vào một nước
lớn như Trung Quốc. Con số hơn nghìn tỷ USD dự trữ ngoại
tệ của Trung Quốc sẽ là quá nhỏ với khối lượng công
việc như vậy. Nguồn vốn chính sẽ phải là nội lực trong
dân, đó là sự tích lũy vật chất và tư duy trong cả quá
trình, với Trung Quốc là 31 năm, tính từ năm 1979, khi bắt
đầu cải cách. Con đường nào cho sự phát triển kinh tế lâu
dài của Trung Quốc, đó là câu hỏi khó, và làm sao cùng lúc
đảm bảo được công việc cho 1,3 tỷ dân, đảm bảo được
ổn định chính trị - xã hội.

Trong chiến lược vươn ra ngoài, dễ nhận thấy là hướng
Biển Đông và Đông Nam Châu Á sẽ là hướng chính của Trung
Quốc. Ở phía bắc, tây bắc Trung Quốc có Nga. Tuy không còn là
siêu cường, Nga vẫn là cường quốc trên thế giới, thành
viên thường trực của HĐBA LHQ, cường quốc quân sự, siêu
cường nguyên tử, là một trong hai nước trên thế giới
được đảm bảo không có nước nào chủ động gây chiến
tranh tổng lực, bởi gây chiến tranh tổng lực với Nga hoặc
Mỹ là đồng nghĩa với tự hủy diệt. Tuy mối quan hệ Trung
– Nga được cải thiện, hai nước trở thành đối tác chiến
lược, sự tin cậy giữa hai nước khó có thể có. Hiện giờ
hai nước hợp tác vì cần có nhau. Nga cần tiền, Trung Quốc
cần năng lượng và công nghệ quân sự hiện đại, hai bên
đều muốn nhìn một thế giới đa cực, đối chọi với thế
giới đơn cực của Mỹ, ngoài ra không có sự gắn kết chiến
lược lâu dài nào, với bản chất của hai nước lớn nằm
cạnh nhau, cả hai vẫn phải đề phòng nhau.

Phía đông Trung Quốc là Thái Bình Dương, bị Mỹ chi phối cùng
với những điểm chốt chiến lược từ Nhật Bản, Hàn Quốc
cho đến Đài Loan, Philipines hay xa hơn là Úc. Bản thân Nhật
Bản với nền kinh tế, công nghệ cao, là đối thủ đáng gờm
của Trung Quốc, nhất là quan hệ hai nước không thể vượt qua
được những tồn đọng của lịch sử đau buồn do chiến tranh
thế giới lần thứ hai gây nên. Cả Nhật Bản và Hàn Quốc
đều có tranh chấp hải đảo và lãnh hải với Trung Quốc.

Phía tây nam Trung Quốc có Ấn Độ, sẽ là cường quốc mạnh
trong tương lai gần, với hơn một tỷ dân và phát triển kinh
tế tương đối nhanh. Giữa Trung Quốc và Ấn Độ còn có
những bất đồng và tranh chấp lãnh thổ khó giải quyết. Trung
Quốc luôn ủng hộ Pakistan, đối thủ chính của Ấn Độ để
khống chế Ấn Độ. Chắc chắn Ấn Độ không phải đối thủ
dễ bắt nạt. Ngoài Ấn Độ, ở phía tây nam Trung Quốc còn có
quân Mỹ đang đóng ở Irak là Afganistan.

Do địa lý Trung Quốc bị bao vây bởi các đối thủ hoặc
tiềm năng có thể là đối thủ mạnh. Con đường chính của
Trung Quốc để phát triển ảnh hưởng còn lại là phía nam.
Từ xưa đến nay, phía nam luôn là hướng tiến của Hán tộc.
Việt Nam là cửa ngõ quan trọng để phát triển ảnh hưởng
về phương nam của Trung Quốc, cũng là đối thủ quan trọng
nhất trong tranh chấp trên Biển Đông. Chắc chắn trong chiến
lược của mình, Trung Quốc không thể để Việt Nam rơi vào
vòng ảnh hưởng của Mỹ, vì nếu Việt Nam ngả theo Mỹ, Mỹ
có thể tiến sát đến biên giới Trung Quốc, tiếp cận với
vùng kinh tế phát triển của Trung Quốc, và bịt cửa ngõ phía
nam.

Trung – Mỹ hiện giờ là đối tác quan trọng hàng đầu của
nhau, nhưng Mỹ lại không muốn có một đối thủ cạnh tranh
trong tương lai. Tuy vậy, khả năng của Mỹ cũng có hạn, không
thể ra mặt kìm chế Trung Quốc. Mỹ còn cần Trung Quốc vì
Trung Quốc là chủ nợ lớn và đối tác kinh tế hàng đầu,
Mỹ cần Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề quốc tế
như vấn đề hạn nhân của Triều Tiên hay Iran. Còn với Trung
Quốc, Mỹ vừa là đối tác kinh tế chiến lược lớn nhất,
Mỹ lại là kẻ thù chính trong ý thức hệ, đối thủ trong
tương lai.

Chắc chắn trong chính sách của mình. Trung Quốc đặt Việt Nam
thuộc vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, hàng xóm quen thuộc,
là nước nhỏ, nhưng không dễ bắt nạt, người dân có tinh
thần chống Trung Quốc cao. Nếu Việt Nam không phải đồng minh
của Trung Quốc thì ít nhất Trung Quốc cũng không thể để
Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ, chống Trung Quốc.

Với tiềm lực quân sự của Trung Quốc, phát triển trọng tâm
là hải quân và không quân, „chiến lược biển xanh" là mối
đe dọa nguy hiểm đối với các nước nhỏ xung quanh. Trung
Quốc đầu tư phát triển tàu sân bay, những hạm đội tàu
ngầm chiến lược, tàu ngầm với vũ khí truyền thống, những
hạm đội tàu nổi, không quân với các máy bay thế hệ 4+ với
mục tiêu tiến ra xa bờ, phản ứng nhanh, đảm bảo ưu thế
trên đại dương để bảo vệ quyền lợi của mình. Ngoài
chiến lược đầu tư phát triển lâu dài, mục tiêu cụ thể
hiện nay của hải – không quân là gây áp lực, khi cần thiết
sẽ dùng vũ lực để giải quyết vấn đề Đài Loan, gây áp
lực hoặc giải quyết vấn đề trong tranh chấp chủ quyền
tại Biển Đông và Đông Hải Trung Quốc. Một khi vấn đề
Đài Loan được giải quyết, áp lực quân sự của Trung Quốc
đối với Biển Đông sẽ càng tăng mạnh.

Xét về mặt quân sự, dùng vũ lực cưỡng
chiếm quần đảo Trường Sa không phải khó đối với Trung
Quốc, nhưng làm sao bảo vệ được tuyến vận tải – hậu
cần xa bờ dài hàng ngàn km dọc theo bờ biển Việt Nam thì là
một vấn đề. Nguy hiểm hơn, nếu chiến tranh xảy ra, làm sao
Trung Quốc có thể bảo vệ cho tuyến đường vận tải dân sự
của mình khi qua Biển Đông. Vả lại, nếu Trung Quốc dùng vũ
lực chiếm Trường Sa, các nước có tranh chấp với Trung Quốc
sẽ phải đề phòng, chạy đua vũ trang, như Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Philipines, Malaysia. Các nước có
quyền lợi liên quan đến tuyến vận tải qua Biển Đông, đặc
biệt như Mỹ cũng không muốn Trung Quốc độc chiếm Biển
Đông. Chiếm Trường Sa, Trung Quốc đẩy Việt Nam phải lựa
chọn thân Mỹ, chống Trung Quốc, các nước ASEAN cũng không
thể yên tâm, tin cậy Trung Quốc. Hiện giờ Trung Quốc đang xây
dựng một hình ảnh thân thiện, tin cậy và phát triển trên
trường quốc tế. Ngoài ra thương mại hai chiều Việt – Trung
có thể đạt 25 tỷ USD trong năm 2010, lợi ích kinh tế không
phải nhỏ đối với Trung Quốc. Đánh Việt Nam chiếm Trường
Sa, Trung Quốc sẽ phải đối phó với dư luận quốc tế, vì
là nước lớn bắt nạt nước bé, và cũng bởi có không ít
các nước không ưa sự lớn mạnh của Trung Quốc, ví như Nhật
Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, Mỹ. Bản thân chiến tranh cũng
có thể gây nên bất ổn tại Trung Quốc, ít nhất là tại phía
nam, vùng kinh tế phát triển và năng động nhất của Trung
Quốc. Yếu tố ổn định rất cần cho sự phát triển kinh tế.

Do vậy, chính sách của Trung Quốc trong giải quyết vấn đề
Biển Đông là đàm phán song phương. Dùng sức mạnh chính trị,
quân sự, kinh tế ép đối thủ để kiếm được nhiều lợi
ích nhất. Với khẩu hiệu gác bất đồng cùng nhau khai thác,
Trung Quốc từ chỗ không có gì trở thành người nắm thế
chủ động, hưởng lợi nhất từ Biển Đông. Trung Quốc cũng
tách rời vấn đề tranh chấp Biển Đông với tự do hàng hải
quốc tế qua Biển Đông để Mỹ không có cớ nhẩy vào. Hiện
tại Mỹ tuyên bố trung lập trong các tranh chấp trên Biển
Đông.

Nguy cơ lớn nhất để xảy ra chiến tranh Trung – Việt trên
Biển Đông là trong những trường hợp sau:

- Trường hợp quá thuận lợi để Trung Quốc chiếm Trường Sa;

<div class="boxright200"><div class="simplequote"><div
class="quotebody">Trường hợp Trung Quốc gặp khủng hoảng chính
trị, an ninh, kinh tế có nguy cơ tổn hại đến tính chính đáng
của Đảng, chính quyền. Khi đó nhà cầm quyền có thể tìm
đến những giải pháp cực đoan để đánh lạc hướng sự quan
tâm, bức xúc của nhân dân vào vấn đề khác, giảm thiểu sự
chú ý đến vấn nạn thực tế. Cách dễ nhất sẽ là cổ vũ
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tìm ra một kẻ thù chung cho dân
tộc.</div><br class="quoteclear"><div class="quoteauthor">» Lạc
Văn</div></div></div>
- Trường hợp Trung Quốc gặp khủng hoảng chính trị, an ninh,
kinh tế có nguy cơ tổn hại đến tính chính đáng của Đảng,
chính quyền. Khi đó nhà cầm quyền có thể tìm đến những
giải pháp cực đoan để đánh lạc hướng sự quan tâm, bức
xúc của nhân dân vào vấn đề khác, giảm thiểu sự chú ý
đến vấn nạn thực tế. Cách dễ nhất sẽ là cổ vũ chủ
nghĩa dân tộc cực đoan, tìm ra một kẻ thù chung cho dân tộc.
Hiện tại chính sách của chính quyền Trung Quốc cũng đang dung
túng cho chủ nghĩa dân tộc đại Hán. Chủ nghĩa dân tộc phát
triển mạnh sẽ làm cho người dân vì cái chung hy sinh cái tôi,
xã hội sẽ mang tính đơn sắc hơn, sự khác biệt khó được
khoan dung. Dung túng cho chủ nghĩa dân tộc có thể gây nên
những hệ quả của nó. Giống như trường hợp nước Đức,
cường quốc, nước có lịch sử lâu đời, văn hóa rực rỡ,
bị nhục nhã sau thế chiến lần thứ nhất, Trung Quốc cũng
đã bị làm nhục suốt từ nửa sau của thế kỷ 19 cho đến
giữa thế kỷ 20, môi trường vậy có thể nảy sinh ra chế
độ quái gở tương tự như phát xít Đức;

- Trường hợp Trung Quốc muốn khẳng định vị trí siêu
cường của mình, Trung Quốc có thể phô trương sức mạnh, sử
dụng sức mạnh quân sự;
- Trường hợp Trung Quốc muốn thử sự phản ứng của Mỹ, khi
hai cường quốc cạnh tranh hoặc đối đầu, Trung Quốc có thể
gây xung đột với các nước yếu hơn trong khu vực, như đã
làm vào năm 1979, ngoài mục đích dạy Việt Nam bài học, cứu
đồng minh thân tín Khơ-me đỏ, còn là để thử phản ứng
của Liên Xô, phép thử hiệp định tương hỗ quân sự Xô –
Việt.

Về phía ta, quan hệ Trung – Việt phải là trọng tâm để
hoạch định chiến lược. Tiềm năng trong giao lưu kinh tế, văn
hóa – thể thao, khoa học – kỹ thuật, du lịch v.v. là rất
lớn. Tuy các doanh nghiệp của ta chưa có được các ưu thế
cạnh tranh so với Trung Quốc, giá trị nhập siêu cao, nhưng thị
trường Trung Quốc là thị trường lớn, trong tương lai sẽ
trở thành thị trường tiêu thụ. Bên cạnh tiềm năng hợp tác
giữa hai nước, Trung Quốc hiện giờ là mối đe dọa đến an
ninh, toàn vẹn lãnh thổ lớn nhất của Việt Nam. Cùng với tâm
lý nghi ngại trước Trung Quốc của cả chính quyền cũng như
người dân, Việt Nam khó có thể lựa chọn trở thành đồng
minh của Trung Quốc. Việt Nam cũng không nên chọn đối đầu
với Trung Quốc. Những khó khăn chính trị, kinh tế, mất mát
vì chiến tranh, trong suốt thời kỳ từ cuối những năm 1970 cho
đến 1991 là kinh nghiệm cho ta suy xét, nhất là hiện tại và
trong tương lai Trung Quốc mạnh hơn Trung Quốc của quá khứ. Hai
nước có thể hợp tác dựa trên lợi ích của cả hai bên,
cùng có lợi.
Mấu chốt trong quan hệ hai nước là tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông. Diễn biến Biển Đông rất phức tạp. Trung Quốc
và Đài Loan đang chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, và một số
đảo Trường Sa, tuyên bố chủ quyền trên cả hai quần đảo.
Ngoài ra còn các nước như Philipines, Malaysia, Brunei tuyên bố
chủ quyền với một phần của quần đảo Trường Sa.

Vì thực lực hiện giờ chưa đủ mạnh, chính sách của Việt
Nam là kêu gọi giữ nguyên hiện trạng, các bên không làm phức
tạp thêm tình hình. Các nước có tranh chấp Biển Đông trong
ASEAN đã ký với Trung Quốc bản Tuyên bố về cách ứng xử
của các bên trên biển Đông (DOC) năm 2002, không sử dụng
hoặc đe dọa dùng vũ lực trong giải quyết tranh chấp. Việt
Nam và các nước trong ASEAN muốn đa phương hóa đàm phán với
Trung Quốc, tránh bị ép, lép vế.

Vấn đề ở chỗ ASEAN là một tổ chức không đoàn kết, cơ
chế hoạt động lỏng lẻo, mức độ phát triển quá trênh
lệch giữa các thành viên, và mỗi nước có lợi ích riêng
của mình, thậm chí đối ngược với thành viên khác. Trong
ASEAN có những nước là đồng minh hoặc có quan hệ đặc biệt
thân thiết với Trung Quốc, ví như Myanma, Singapore, Thái Lan. Ngay
như Malaysia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, nhưng quan
hệ hai nước thân thiện, một phần bởi người Hoa kiều nắm
giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động kinh tế -
tài chính của Malaysia. Ngoài ra các thành viên trong ASEAN cũng
không tin cậy lẫn nhau. Vì những lý do đó, ASEAN sẽ không thể
có tiếng nói chung trong vấn đề Biển Đông.

Ngoài lá bài ASEAN, Việt Nam cố gắng quốc tế hóa vấn đề
Biển Đông. Dân sự hóa các hòn đảo lớn có điều kiện sinh
sống đối với người dân thường, với mục đích biến
những bãi đá thành đảo có người dân sinh sống để đòi
chủ quyền trên thềm lục địa, và trong trường hợp chiến
tranh, kẻ tấn công sẽ bị mang tiếng tấn công các mục tiêu
dân sự. Đa phương hóa trong ngoại giao cũng như ngoại giao quân
sự, để tiếng nói có trọng lượng hơn trên trường quốc
tế. Con bài quan trọng nhất vẫn là Mỹ, như đã nêu, Việt Nam
buộc phải nghiêng về Mỹ nếu Trung Quốc dùng vũ lực với
Việt Nam.

Sau khi kết thúc phân định biên giới trên bộ và trên biển
trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc, Việt Nam có
những động thái rõ ràng hơn trong chiến lược bảo vệ chủ
quyền trên Biển Đông. Gần đây, nhà nước tổ chức hội
thảo quốc tế về vấn để Biển Đông, thành lập huyện
đảo Hoàng Sa, tiếp nhận các tài liệu quý khẳng định chủ
quyền tại hai quần đảo của cha ông ta, tổ chức cuộc thi
tìm hiểu về biển đảo, các thông tin về hai quần đảo và
Biển Đông thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Báo chí trong nước được chính quyền
bật đèn xanh để đưa tin về những hợp đồng lớn mua vũ
khí hiện đại cho hải quân và không quân như mua tàu ngầm
chạy diesen lớp Kilo, tàu khu trục nhỏ trang bị tên lửa đối
hạm, mang theo trực thăng, có khả năng săn ngầm, đối không
Gepard, tàu hộ tống trang bị tên lửa đối hạm Tarantul, hệ
thông tên lửa phòng thủ biển đất đối hạm K300P Bastion có
tầm bắn khoảng 300km, hay như máy bay tiêm kích đa năng thế
hệ 4++ SU30MK2 có khả năng không chiến cũng như diệt mục tiêu
mặt đất, mặt nước, trinh sát và với tầm bay lên tới
3000km, đảm bảo tác chiến trên Biển Đông v.v. Những thông tin
như vậy trước đây được coi là tin nhạy cảm, không được
đăng. Qua đó, Nhà nước muốn đưa ra một thông điệp đến
người dân và quốc tế là Việt Nam sẽ cứng rắn trong việc
bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Chiến lược của Việt Nam là phòng thủ, răn đe. Hải quân và
không quân gánh vác trọng trách đó, chuẩn bị sẵn sàng đối
phó với trường hợp chiến tranh cũng như đối phó với chiến
lược tằm ăn rỗi của Trung Quốc. Răn đe đối thủ, nếu
đối thủ manh động, sử dụng vũ lực, thì sẽ gặp phải
tổn thất nhất định. Trong trường hợp Trung Quốc, tác chiến
xa bờ, với sự hỗ trợ của không quân có hạn, tuy Trung Quốc
có máy bay tiếp nhiên liệu trên không, nhưng vẫn có những
hạn chế nhất định, ngay cả khi Trung Quốc có tàu sân bay,
để sử dụng hết khả năng của tàu, đảm bảo an toàn cho
bản thân tàu sân bay tác chiến trong khu vực nhỏ như Biển
Đông không phải đơn giản, Việt Nam vẫn có thể sử dụng ưu
thế địa lý để giảm thiểu ưu thế về vũ khí của Trung
Quốc. Nhưng Việt Nam phải luôn kìm chế, ứng xử khéo léo
không để đối thủ có cớ gây chiến. Việt Nam có thể cứng
rắn trong lập trường, tận dụng vũ khí ngoại giao.

Việt Nam luôn lên tiếng yêu giải quyết vấn đề theo luật
pháp quốc tế, công ước LHQ về luật biển 1982, bởi Việt Nam
tin tưởng rằng những bằng chứng lịch sử mà ta nắm trong tay
có tính thuyết phục hơn Trung Quốc. Ngoài một số thư tịch
cổ của Trung Quốc từ thời Hán, Nguyên, Minh, Thanh, nhắc đến
hai quần đảo, mô tả như địa danh mà tàu Trung Quốc đã đi
qua cùng những hiện vật cổ như tiền xu hay mảnh gốm tìm
thấy trên đảo, Trung Quốc chưa đưa ra tài liệu khẳng định
chủ quyền hay thực thi chủ quyền tại hai quần đảo qua các
triều đại mang tính thuyết phục. Cơ sở lập luận của Trung
Quốc dựa trên sử liệu cổ, chủ yếu như <em>(„Cuộc tranh
chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa",
tác giả: Lưu Văn Lợi, NXB Công An Nhân Dân)</em>:

- "Nam Châu dị vật chí" của Vạn Chấn đời Tam Quốc nói về
những điều lạ của các xứ phương Nam;

- "Phù Nam truyện" của Khang Thái đời Tam Quốc nói về việc
ông đi sứ Chân Lạp;

- "Dị Vật chí" của Dương Phù đời Đông Hán (25 – 220) nói
về những điều lạ;

- "Vũ Kinh Tổng yếu" do Tăng Công Lương, Đinh Độ đời Tống
soạn;

- "Lĩnh ngoại đại đáp" của Chu Khứ Phi đời Tống (1178),
chủ yếu chép về các nước vùng Đông Nam Á;

- "Chư Phiên chí" của Triệu Nhữ Quát, đời Tống (1225), mô
tả về nước ngoài;

- "Đảo Di chí lược" của Vương Đại Uyên đời Nguyên (1349)
mô tả địa thế, khí hậu, sản vật, phong tục của hàng trăm
nước ngoài Trung Quốc. Vạn lý Thạch Đường được chép
thành mục riêng như các nước khác.;

- "Đông Tây Dương Khảo" (1618) của Trương Nhiếp và Vũ Bị
chí (1628) của Mao Nguyên Nghĩ nói về con đường từ Trung Quốc
đi Ấn Độ Dương;

- "Hải Quốc văn kiến lục" của Trần Luân Quýnh đời Thanh ghi
chép những điều tai nghe mắt thấy về nước ngoài từ Đông
Á, Đông Nam Á đến Tây Âu. Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch
Đường được nói tới trong đoạn nói về Việt Nam trên
tuyến đường từ Hạ Môn đi Quảng Nam (Việt Nam);

- "Hải Lục" của Dương Bính Nam đời Thanh (1820) chép về 99
nước và khu vực trên thế giới thời đó, kể cả một số
nước Châu Âu, Châu Mỹ. Vạn lý Trường Sa, Thiên lý Thạch
Đường được nói đến trong đoạn chép về Java. Bản đồ
bán cầu đính theo ghi Trường Sa, Thạch Đường ở khu vực
Đông Nam Á;

- "Hải quốc Đồ chí" của Ngụy Nguyên đời Thanh (1848) ghi
chép về nước ngoài và những việc liên quan đến nghề hàng
hải;

- "Doanh Hoàn chí lược" của Bành Ôn Chương đời Thanh (1848)
chép về địa lý thế giới. Trường Sa, Thạch Đường không
vẽ vào bản đồ Trung Quốc (Hoàng Thanh nhất thống dư địa
đồ) mà vẽ vào vùng Đông Nam Á (Nam Dương các đảo đồ).

Phía Trung Quốc còn vin vào công hàm của chinh phủ Việt Nam DCCH
ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 bởi thủ tướng Chính Phủ Việt Nam
DCCH Phạm Văn Đồng gửi tổng lý Quốc Vụ Viện CHND Trung Hoa
Chu Văn Lai, <em>ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng
9 năm 1958 của chính phủ nước CHND Trung Hoa, quyết định về
hải phận của Trung Quốc</em>
<em>(http://en.wikipedia.org/wiki/File:1958_diplomatic_note_from_phamvandong_to_zhouenlai.jpg)</em>.
Về pháp lý, đó chỉ là lời tuyên bố một phía, không phải
văn bản ký kết cụ thể giữa hai bên như nhượng quyền hay
nhượng đất, vả lại vào thời điểm đó, theo hiệp định
Geneva cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa nằm trong sự
quản lí chính thức của Việt Nam CH chứ không phải Việt Nam
DCCH. Tuyên bố chỉ có giá trị đối với đối tượng thuộc
quyền quản lý chính thức của Việt Nam DCCH trong thời điểm
đó, vậy thì cả hai quần đảo đều không phải đối tượng
vậy. Còn xét về tình, Việt Nam DCCH và CHND Trung Hoa vào thời
điểm đó vừa là đồng chí vừa là anh em thân thiết, cùng
chống lại kẻ thù chung là Mỹ, không ai nghĩ anh em lại đi ăn
cướp của nhau.

Trung Quốc cũng nên nhớ rằng, trí nhớ của dân tộc Việt Nam
rất dài, như lịch sử đã chứng minh, cho dù hơn nghìn năm
Bắc thuộc, người Việt vẫn nhớ đến cội nguồn và giành
lại được độc lập, chủ quyền. Nước nào cũng có lúc
thịnh, lúc suy, Trung Quốc cũng không tránh khỏi quy luật như
vậy.

<em>Lạc Văn 2/2010</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4618), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét