Nguyễn Chính – Tản mạn đôi dòng về cái sự “văn nô…”

<div class="special_quote"><strong>Tin liên quan:</strong>

<ul>
<li><a
href="http://vn.360plus.yahoo.com/thuhong_1960/article?mid=1429&prev=1430&next=1428">Thu
Hồng - Chuyện chính trị</a></li>
</ul></div>Có lần tôi được nghe ông K, một người rất mê
đọc sách nói thế này: "<em>Từ hơn ngàn năm trước, Khổng
Tử đã dạy học trò của mình rằng, đã là trí giả thì
không thể bị u mê, càng không thể vì mấy đấu gạo mà viết
cho kẻ bất nhân…</em>" Tôi bảo, "<em>Chỉ vì được mấy
đấu gạo mà viết cho bọn thất đức, thì là bồi bút rồi
còn gì.</em>" Ông K bảo, "<em>Đúng vậy! Nhưng lũ bồi bút
lại được sinh ra từ cái sự văn nô.</em>" Tôi hỏi lại,
"<em>Văn nô là sao?</em>" Ông K bảo, "<em>Là sao, thì chú
phải tìm hiểu. Chỉ biết cái sự ấy nó làm hỏng cả một
nền văn học. Nó biến không ít kẻ cầm bút thành thứ mạt
hạng. Nó…</em>" Tôi vội xua tay, "<em>Thôi, thôi xin bác, xin
bác, em sẽ tìm hiểu, sẽ tìm hiểu…</em>" Ông K liền nhìn
tôi như kẻ xa lạ, nhìn từ đầu xuống chân, lại từ chân
lên đầu, rồi chỉ vào tôi mà rằng: "<em>Nhìn chú kìa, mới
nghe thế mà đã, trên thì mặt xanh như đít nhái, dưới thì
vãi cả ra thế kia rồi, thì cầm bút thế đéo nào
được.</em>"

Hơn 20 năm đã qua, ông K bây giờ đã thành người thiên cổ.
Còn tôi cũng dần ngộ ra rằng, thì ra cái sự "nô" ấy nó
kinh khủng lắm. Cả một dân tộc, một đất nước đã từng
là nô lệ. Bị nhốt chung trong cái cũi khổng lồ ấy nào là
những nông nô, công nô, binh nô, trí nô và vân vân nô… Bằng
núi xương, sông máu, lật đổ được cái kiếp nô lệ ấy
rồi, thì không ai lại ngu muội chui đầu vào cái cũi ấy nữa,
trừ phi là bị phỉnh, bị lừa.

Còn cái sự văn "nô"? Thấy tôi cứ lúng túng dây nhợ như
gà mắc tóc mãi, một đồng nghiệp đã "đóng" vào tai tôi
những lời như búa bổ: "<em>Nô, tức là cúc cung tận tụy,
phụng sự cho bề trên, cho ông chủ. Như kiếp chó ấy. Bề
trên bảo sủa to thì sủa to, bảo sủa nhỏ thì sủa nhỏ, bảo
cắn thì cắn, thế thôi.</em>" Nghe đồng nghiệp nói vậy thì
biết vậy, nghĩ mình phận ếch ngồi đáy giếng, đọc chưa
được bao nhiêu, viết cũng chẳng được bao nhiêu, lại toàn
thứ vô bổ, chỉ đáng vứt sọt rác, nên nghe lời ông K, tôi
phải tự lần mò tìm hiểu…

Khi cụ Đồ Chiểu vung bút với những câu âm vang như sấm
"<em>Dù đui mà giữ đạo nhà…</em>", rồi "<em>Chở bao
nhiêu đạo thuyền không khẳm, đâm mấy thằng gian bút chẳng
tà</em>" và khi cụ Tản Đà đầy khí phách "<em>Xuống ngọn
bút mưa sa, bão táp, vạch câu thơ quỷ thảm, thần kinh. Lũ
mọt dân trừng trị bằng câu văn, người hiền sỹ tinh biểu
bằng ngòi bút…</em>" v.v…, thì cái sự "nô" ấy đã
phải bạt xa rồi. Chưa hết, khi ở phương trời Âu đang ồn
ào lý luận Mác-xít đưa quần chúng bần hàn lên tận mây xanh,
bằng việc tấn phong họ là "những người chân chính sáng
tạo ra lịch sử", thì cụ Tản Đà đã không ngần ngại chỉ
thẳng ra cái sự thật bi thảm và "giáng" một búa nảy lửa
vào cái đầu còn tăm tối và cả tin của đồng bào mình,
rằng "<em>Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, Cho nên quân nó
dễ làm quan</em>". Thiển nghĩ, với thiên chức góp phần
hướng thiện con người, tôn vinh cái đẹp, thì người cầm
bút phải tôn trọng sự thật, bảo vệ sự thật, vạch mặt
giả dối, mị dân, bịp bợm. Mọi sự tô hồng, bôi đen, bóp
méo sự thật nhằm phục vụ lợi ích của thiểu số kẻ cầm
quyền, đều là kẻ thù của văn chương. Sự chân thực là
phẩm giá của ngòi bút nên rất cao quý và thiêng liêng. Tại
Liên Xô, thành trì của chủ nghĩa cộng sản dưới thời Stalin
với bộ máy KGB khổng lồ, một học giả người Nga vẫn lớn
tiếng khẳng định,"<em>Sự thật cao hơn tất cả, cao hơn
nước Nga và cao hơn cả Lê-nin.</em>" Được biết, lý luận
văn học Xô-viết còn đẻ ra cái gọi là "hiện thực xã hội
chủ nghĩa", từng được các học giả Đông, Tây mổ xẻ xem
nó là cái giống gì? Đã "hiện thực" lại còn hiện thực
nọ, hiện thực kia nữa. Cái ấm sứt vòi, nhìn từ mọi phía
cũng không thể nào là cái bình pha lê được. Đúng là rặt
một thứ "ný nuận nồn", như cách nói ngọng của một bà
bán mắm tôm nơi chợ quê. Cũng vậy, ở ta lâu nay còn có câu
"nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa", một khái niệm không thể tìm thấy trong bất cứ
học thuyết Đông, Tây, kim cổ nào. Ngay cả cụ tổ của chủ
nghĩa cộng sản là Các Mác có tái thế chắc chắn cũng phải
chào thua, không thể nào định nghĩa nổi. Nên nhà thơ Trần
Mạnh Hảo mới có câu thơ thật mỉa mai "<em>khái niệm đưa
ra không biết lối thu về</em>", là vì vậy.

Liên quan đến cái sự văn "nô", có một vấn đề từng
được nêu ra từ mấy chục năm qua, nhưng bị cho là "nhạy
cảm" nên chỉ được "nhá xèng" lên tý rồi tịt luôn như
pháo tịt ngòi. Đó là quan hệ giữa văn học và chính trị.
Còn nhớ khoảng cuối 1990, một người bạn gặp tôi, hỏi:
"<em>Này! Có một nhà thơ vừa đưa ra nhận xét là, văn học
nghệ thuật cao hơn chính trị và xa hơn chính trị. Ông thấy
sao?</em>" Tôi liền khẳng định ngay: "<em>Đúng! Đúng là như
thế.</em>" Không ngờ anh ta lồng lên, "<em>Đúng, đúng cái
con khỉ. Ông lúc nào cũng nằm mơ. Xa hơn, cao hơn cái nỗi gì.
Chính trị là bố đẻ, là ông cố nội của văn học, thì
có…</em>" Rồi anh dẫn ra nào Tần Thủy Hoàng, Hitler, Mao
v.v… Tôi liền hỏi lại: "<em>Vậy mấy bạo chúa ấy sống
được 100 tuổi không? Chết ngóm sau mấy chục năm cường
quyền chứ gì? Còn các tác phẩm văn học, nghệ thuật đích
thực, thứ thiệt, thì sống muôn đời.</em>" Và, để anh ta
tâm phục, khẩu phục tôi đã lý giải nôm na thế này: Chính
trị là phạm trù lịch sử, có nay không có mai. Lịch sử phát
triển xã hội loài người hết chế độ này, thì đến chế
độ khác. Triều đại nào thối nát, phản dân hại nước ắt
sẽ sụp đổ và bị triều đại khác thay thế. Còn văn học
nghệ thuật thuộc phạm trù vĩnh viễn. Các tác phẩm đích
thực sẽ "bước" từ thời đại này qua thời đại khác,
trở thành tài sản vô giá của nhân loại và bất tử. Các tác
phẩm cổ điển, trung đại, cận đại v.v… là những minh
chứng hùng hồn. Văn học nghệ thuật chân chính phản ánh chân
thực ước mơ và khát vọng của nhân dân mình. Văn học, nghệ
thuật chân chính (không phải thứ văn nô, bồi bút) luôn chỉ
ra cho chính trị biết phải làm gì, làm thế nào để an dân,
để được lòng dân. Bởi chính trị muốn tồn tại, thì phải
được lòng dân. Nên văn học nghệ thuật cao hơn chính trị là
ở cái lẽ ấy, vân vân và vân vân…

Cái sự văn "nô" còn liên quan đến bản lĩnh, khi phách
người cầm bút. Phùng Quán, một nhà thơ "Nhân văn-Giai
phẩm" rất đáng kính từng có tuyên ngôn "<em>Dù ai ngon
ngọt nuông chiều cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao
dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu…</em>" Ông Trường
Chinh (Sóng Hồng), nếu tôi nhớ không nhầm cũng từng có câu:
"<em>Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ. Mỗi vần thơ bom
đạn phá cường quyền</em>". Theo tôi, những câu thơ này của
Phùng Quán và Trường Chinh có giá trị thời đại rất cao, vì
nói lên được bản lĩnh và tâm huyết người cầm bút. Không
biết, Hội Nhà văn Việt Nam có cho dịch ra nhiều thứ tiếng
để gửi đến các văn nghệ sỹ đang phải sống trong những
chế độ độc tài, phản dân chủ tại Hội nghị Giới thiệu
Văn học Việt Nam ra Nước ngoài vừa qua, hay in ra hàng ngàn
bản cho bóng bay gửi lên kính cáo với trời đất, sông núi
nước mình trong Ngày "Đại lễ Thơ Việt Nam" hoành tráng
rằm tháng Giêng Canh Dần vừa rồi? Nhân đây xin nhắc lại
một chuyện nhỏ. Trong một hội thảo ở Nha Trang về phát
triển nông nghiệp của một tỉnh miền Trung hồi cuối thập
niên 1980, giờ giải lao, cánh nhà báo tụ tập ở hành lang, to
nhỏ bàn chuyện trên giời, dưới đất, chuyện dân dã, chuyện
triều đình… Anh Bốn T, tuy là một cán bộ chủ chốt của
tỉnh PY, nhưng tỏ ra rất bình dân với cánh phóng viên, cũng
đến góp chuyện. Chuyện trò một hồi, bỗng anh trầm ngâm
giây lát rồi phán một câu xanh rờn: "<em>Đúng là cánh nhà
văn, báo chí, văn nghệ sỹ chúng mày, thời nào cũng chống
chính quyền…</em>" Lập tức một đồng nghiệp trong chúng
tôi trả lời ngay: "<em>Anh Bốn nhầm rồi! Không phải chống
chính quyền mà là chống cường quyền. Thời nào những người
cầm bút cũng chống lại cường quyền…</em>" Tất cả chúng
tôi cùng cười vang tán thưởng.

Lẽ thường người cầm bút (nhà thơ, nhà văn v.v…) không thể
làm điều ác, điều thất đức và càng không thể dùng ngòi
bút để bảo vệ cái ác. Những nhà văn, nhà thơ nào coi chủ
nghĩa cộng sản là lý tưởng của đời mình, chắc càng không
thể quên lời giáo huấn của cụ Các Mác, rằng "Chỉ có
loài súc vật mới quay lưng lại với số phận người
khác…" Đến nay, ai cũng biết, "cải cách ruộng đất"
từng được coi là "cuộc cách mạng long trời lở đất",
là một đại họa đối với nông dân và nông thôn nước ta
hồi giữa thập niên 1950. Vì thế, tôi không thể tin câu thơ
đầy máu lạnh sau đây lại phát ra từ con tim của Xuân Diệu
– một nhà thơ tình:

"<em>Thắp đuốc cho sáng khắp đường<br />
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay<br />
Lôi cổ chúng nó ra đây<br />
Bắt quỳ gục xuống đọa đày chết thôi</em>"

Các nhà lý luận đã chia nền văn học nước ta ra theo từng
giai đoạn, hoặc theo dòng này, dòng kia. Với riêng tôi, "Dòng
hiện thực" (trước 1945) với những tên tuổi lớn như Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao v.v… là
sáng giá nhất. Tác phẩm của các ông, chứng tích bằng văn
học của một thời khốn nạn sẽ còn mãi với thời gian và
những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của các ông, cho đến
nay hình như vẫn còn đó:

"<em>Đã rằng Bá Kiến hết rồi<br />
Mà sao anh Chí ba đời còn đây?</em>"

Rõ ràng, trong đêm đen của Tắt đèn, trong hũ nút của Bước
đường cùng, trong nhốn nháo, tha hóa, giả dối, đĩ điếm,
lừa phỉnh, bịp bợp, mị dân, đạo đức giả… của Số
đỏ, thời kỳ văn học này vẫn sản sinh được cho hậu thế
những tên tuổi gắn liền với <em><strong>NHÂN CÁCH LỚN CỦA
NGƯỜI CẦM BÚT</strong></em>.

Từng có người nói rất đúng rằng, nhà văn, nhà thơ là do
"Tổ chức Trời" phân công. Thực ra là trời bắt
"tội", trời hành xác họ. Còn họ thì tự nguyện cho cái
sự bắt tội và hành xác đó. Thế thì khuynh hướng sáng tác,
quyền sáng tác phải thuộc về chủ thể sáng tạo là họ.
Vậy tại sao cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước, Nguyễn
Minh Châu phải viết "Lời ai điếu" cho một thời kỳ văn
học? Có lẽ theo ông đó là thời "tụng ca, minh họa". Nếu
đúng vậy, thì thành tựu của thời kỳ này giá trị thế nào,
hoành tráng đến đâu, có lợi cho ai, gây hại cho cái gì, đã
được thời gian sàng lọc, trả lời rồi. Mọi người đều
biết cả. Thiển nghĩ, dù Nguyễn Minh Châu có không viết lời
"ai điếu" thì những sản phẩm tụng ca, minh họa rẻ tiền
một thời kiểu như… kiểu như… cũng sẽ lần lượt chết
ngóm. Có những tên tuổi từng là trụ cột của nền văn học,
nghệ thuật một thời như ông nhà văn Nguyễn Khải, đến
cuối đời mới giật mình Đi tìm cái tôi đã mất, như ông
nhạc sỹ Tô Hải mới cay đắng nhận ra mình là "một thằng
hèn" (cho dù là trường hợp "thằng hèn" của ông Tô Hải
đang và sẽ được lớp hậu sinh kính trọng), thì cũng là quá
muộn. Lấy ngay ví dụ về tác phẩm Tầm nhìn xa minh họa,
tụng ca cho phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của Nguyễn
Khải. Không biết ông nhà văn này có "tầm nhìn" xa cỡ nào,
được mấy tấc, mấy thước, mà ngay hồi ấy trong dân gian
đã có vè chửi cái mô hình hợp tác xã nông nghiệp "thằng
còng làm, thằng ngay ăn" này rồi. Thôi thì "gặp thời thế,
thế thời phải thế", vì niêu cơm, vì mấy đấu gạo mà
phải tụng ca, minh họa, còn cho là tạm thông cảm được.
Nhưng đến cái sự văn "nô" hướng thượng, xun xoe, tới
mức có cả một câu cửa miệng của người đời "thằng
đéo lào mà lịnh thế?", thì không biết còn có nền văn học
thời hiện đại nào của nhân loại trên hành tinh này, nảy
nòi ra được những văn sỹ như thế? Vâng! Trăm năm bia đá
cũng phải mòn. Nhưng những câu thơ "lịnh" mà tôi dẫn ra
dưới đây của ông Tố Hữu, thì không biết đến kiếp nào
"bia miệng" thế gian mới hết nói lời xấu hổ? Quả thật,
bất cứ người Việt Nam nào có lòng tự trọng với nguồn
cội con Rồng cháu Tiên của mình, đều cảm thấy bị xúc
phạm, khi phải lướt mắt thôi (đọc lên là nhục lắm, xấu
hổ lắm).

Lúc Stalin chưa chết và rất có thể ông ta vừa ký chưa ráo
mực những sắc lệnh khủng khiếp, khiến hàng chục ngàn
người vô tội bị khủng bố, bị sát hại, hoặc bị đưa đi
lưu đày ở Xibêri (trong đó có cả những văn nghệ sỹ nổi
tiếng, sau này được nhận giải Nobel). Chính Tổng thống Nga
Putin cũng phải thừa nhận, rằng "<em>Những người bị thảm
sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ
nhất và là những người can đảm nhất của nước Nga và Liên
Xô thời đó</em>". Vậy mà, không biết xuất phát từ tình
cảm gì Tố Hữu, một nhà thơ của cách mạng lại có mấy câu
thơ hướng thượng, nghe vong bản đến buồn nôn là: "<em>Yêu
biết mấy nghe con tập nói, tiếng đầu đời con gọi
Stalin</em>". Còn khi Stalin chết, không biết có họ hàng hang
hốc gì với ông ta không mà Tố Hữu, một người Việt Nam
(chắc chắn là chưa hề được gặp Stalin) đã có thơ khóc
với theo quan tài cách cả ngàn cây số đường chim bay, bằng
những lời đại bất hiếu với người ruột thịt trực hệ
của mình, thế này: "<em>Thương cha, thương mẹ, thương
chồng. Thương mình thương một, thương ông thương
mười</em>". Ôi! Lời thơ khóc mới thê lương, thảm thiết
làm sao, nếu át được tiếng phèng la, tiếng nhạc chói tai,
nhức óc của đội kèn đồng đưa đám, để Stalin nghe thấy,
chắc "ngài" cũng thấy nhột, phải lập tức bật nắp quan
tài ngồi dậy, mà rằng "thằng đéo lào ở đâu mà lịnh
thế!"

Khoảng thời gian 1985 – 1990, bắt đầu xuất hiện và sau đó
người ta nói nhiều đến hai từ "cởi trói". Nào là, cởi
trói cho nền kinh tế, cởi trói cho nông dân, cởi trói cho…
v.v… Và, văn nghệ đã mừng húm vì cũng được "ban" cho hai
từ "cở itrói" này. Câu hỏi đặt ra là, ai đã "trói"
văn nghệ? "Trói" bằng cái gì ? Trả lời ư! Ai cũng trả
lời được, nhưng không ai trả lời. Lại cũng không ai
muốn/dám trả lời cái mà mình có thể trả lời. Bi kịch thế
đấy. Nhưng cũng có người phán tỉnh queo, rằng "Có ai trói
các anh đâu! Tự các anh trói mình, rồi còn "trói" lẫn nhau
đấy chứ?" Thế là thành bi, hài kịch. Than ôi! Có lẽ, chung
quy cũng tại bởi cái tư duy văn "nô" của cái sự văn
"nô".

Tôi đã mang tất cả những "tản mạn" nói trên trao đổi
với một bạn viết. Sau giây phút trầm ngâm, ông bảo "Ừ!
Kể cũng phải. Tiên trách kỷ hậu trách nhân, cái mình nghĩ
trong đầu thì cường quyền, thời thế đéo nào "trói"
được… Chẳng qua là mình cứ tự huyễn hoặc mình, tự lừa
mình, rồi lại mang cái sự lừa ấy để lừa nhân dân mình.
Thế là giả dối, là lưu manh đấy!" Nghe ông nói, tôi giật
mình nhớ đến bài thơ "Bi kịch hót" của anh Bùi Minh Quốc.

<em>Tưởng bay ngàn dặm thơ<br />
Hóa vòng vo nhảy nhót<br />
Giữa cái lồng rất to<br />
Tự đan bằng tiếng hót.</em>

Bài thơ chỉ có mấy dòng mà cứa vào ta bao nỗi xót sa, cười
ra nước mắt, thương cho con chim không tự biết rằng, nó đang
"hót" theo, nhảy nhót theo, nhại theo lời ca và cái vũ điệu
lăng nhăng, bát nháo, vô cảm của một thằng hề.

© 2010 Nguyễn Chính

© 2010 talawas

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4400), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét