width="350" height="233" alt="fulbright-vn-20092.jpg" /><div
class="textholder">Fulbright Việt Nam - một trong các chương trình
của Harvard Kennedy (ảnh: website Fulbright Việt Nam)</div></div>
<em>Học viện Khổng Tử và trường chính sách công Harvard
Kennedy là một phần quan trọng trong cuộc đua quyền lực mềm
giữa Trung Quốc và Mỹ.</em>
Gần đây, sự phát triển nhanh chóng về số lượng của học
viện Khổng Tử trên khắp thế giới như biểu trưng cho sự
vươn lên của Trung Quốc. Đó cũng là một phương tiện quan
trọng để nước này gia tăng sức mạnh mềm nhằm tìm kiếm
vị thế siêu cường của mình. Bên kia Thái Bình Dương, Mỹ bao
năm qua vẫn không ngừng gầy dựng và phát triển ảnh hưởng
của trường chính sách công Harvard Kennedy trên toàn thế giới.
Một bên là trường chính sách công Harvard Kennedy với "khoa
học chính sách" được hỗ trợ bằng "nền tảng dân
chủ". Một bên là học viện Khổng Tử của một Trung Quốc
trỗi dậy "phát triển hài hòa" từ sức mạnh tiềm tàng bao
năm. Cả hai trở thành một phần quan trọng trong cuộc đua
quyền lực mềm Mỹ – Trung.
<h2>Khổng giáo thời Trung Quốc trỗi dậy</h2>
Sau những nỗ lực không ngừng để phát triển, ngày nay, Trung
Quốc đang ra sức thể hiện sự hùng cường về kinh tế, gia
tăng hiện đại hóa lực lượng vũ trang, đẩy mạnh ảnh
hưởng với các quốc gia trên thế giới. Thế nhưng, để có
thể tiến lên trở thành một siêu cường mạnh mẽ hơn nữa,
chắc chắn Trung Quốc cần đến những phương tiện gia tăng
quyền lực mềm. Sự ra đời của học viện Khổng Tử không
nằm ngoài mục đích đó.
Ngày trước, Khổng Tử từng mong muốn tư tưởng của ông trở
thành nền tảng tư tưởng chính trị, nhưng không thành. Rồi
Khổng giáo gặp phải họa "đốt sách diệt Nho" thời Tần
Thủy Hoàng. Đến thời Hán Vũ Đế, Khổng giáo mới chính
thức trở thành hệ tư tưởng cốt yếu để dễ bề thuần
phục bá tánh. Nhưng, Khổng giáo lại một phen chìm nổi trong
giai đoạn Cách mạng Văn hóa, mộ của Khổng Tử đã bị các
tiểu hồng vệ binh san phẳng. Cho nên, khi Khổng giáo trở thành
một biểu trưng cho Trung Quốc thời trỗi dậy thì xem như
Khổng giáo sau bao cơn bĩ cực đã đến hồi thái lai.
Mô hình học viện Khổng Tử tuy không mới, bởi nó tương tự
như các cơ sở Hội đồng Anh hay học viện Alliance của Pháp.
Nhưng học viện Khổng Tử vẫn rất cần thiết cho Trung Quốc
khi giới thiệu và quảng bá Hán ngữ, bản sắc văn hóa Trung
Quốc như một nền văn hóa lâu đời. Hơn nữa, học viện
Khổng Tử còn có thể chuyển tải "thiện ý" về một Trung
Quốc "phát triển hài hòa" như học thuyết của ông Hồ
Cẩm Đào.
Tháng 6.2004, Trung Quốc thử nghiệm mô hình học viện Khổng
Tử tại Tashkent, thủ đô Uzbekistan. Đến ngày 21.11.2004, Trung
Quốc chính thức khai trương học viện Khổng Tử đầu tiên
tại Seoul, Hàn Quốc. Đến cuối năm 2008, trên toàn thế giới
có 250 học viện Khổng Tử, dù mục tiêu ban đầu chỉ là 100,
theo Tân Hoa xã.
Cũng theo Tân Hoa xã, tính tới tháng 11.2009, Trung Quốc có cả
thảy 282 học viện Khổng Tử và khoảng 272 lớp dạy Hán ngữ
ở 88 quốc gia và vùng lãnh thổ tại 5 châu lục. Theo kế
hoạch đến năm 2010, Trung Quốc sẽ mở tổng cộng 500 học
viện Khổng Tử, và đến năm 2020 con số đó sẽ là 1.000. Trong
khi đó, Hội đồng Anh mất 70 năm để có 233 chi nhánh tại 107
quốc gia, Alliance mất gần 130 năm mới có 1.033 chi nhánh tại
133 quốc gia… Có thế mới thấy số lượng học viện Khổng
Tử đã tăng nhanh như thế nào. Tại nhiều quốc gia, học viện
Khổng Tử xuất hiện đông đảo. Các nước như Úc, Canada,
Đức, Nhật, Nga, Hàn Quốc, Thái Lan, Anh đều có từ 5 đến 10
học viện Khổng Tử. Đặc biệt có đến gần 50 học viện
Khổng Tử tại Mỹ.
Tuy với số lượng chi nhánh lớn như thế nhưng số lượng
người theo học tiếng Hoa tại các học viện Khổng Tử vẫn
còn khá khiêm tốn. Bà Hứa Lâm – Tổng thư ký Tổng bộ Học
viện Khổng Tử, phát biểu với hãng tin Reuters rằng so với
tiếng Anh, Pháp hay Tây Ban Nha thì tiếng Hoa vẫn còn nhiều thua
thiệt. Tại Mỹ, tuy có gần 50 học viện Khổng Tử, nhưng số
lượng sinh viên học tiếng Hoa vẫn còn thua xa tiếng La-tinh.
Cũng theo bà Hứa Lâm, số người học thực tế còn khá ít so
với số người mong muốn học tiếng Hoa. Nguyên nhân của tình
trạng trên được bà lý giải là vì các học viện Khổng Tử
đang bị thiếu hụt trầm trọng giáo viên lẫn phương tiện
giảng dạy.
Ngoài ra, hình ảnh một Trung Quốc "hài hòa" mà học viện
Khổng Tử gánh vác sứ mệnh xây dựng vẫn chưa cho thấy
được hiệu quả, ngược lại, cảm nhận của thế giới về
sự trỗi dậy của Trung Quốc có phần xấu đi. Theo kết quả
của một số khảo sát, nghiên cứu, đánh giá tại các nước
Âu châu, cũng như tại Úc, đa phần người dân tại các khu
vực này xem sự trỗi dậy của Trung Quốc là một nguy cơ đe
dọa. Trung Quốc càng phát triển, những kết quả khảo sát
lại càng tiêu cực.
Như vậy, sự gia tăng về số lượng học viện Khổng Tử
dường như chưa đồng bộ với chất lượng mà Trung Quốc mong
muốn, do đó kỳ vọng vào một quyền lực mềm dựa vào học
viện Khổng Tử xem ra vẫn còn xa.
<h2>"Vũ khí" của người Mỹ</h2>
Ngày trước, chính sách New Deal của Tổng thống Franklin
D.Roosevelt đã giúp Mỹ vượt qua cuộc Đại suy thoái, để
trỗi dậy trở thành siêu cường. Kể từ New Deal, người Mỹ
bắt đầu hình thành một chuyên ngành mang tên "khoa học chính
sách". Chuyên ngành này sử dụng các lý thuyết kinh tế học,
nghiên cứu xã hội học để hoạch định chính sách phát
triển.
Hai chủ điểm của "khoa học chính sách" là kinh tế thị
trường và thể chế điều hành. Cả hai đều là những giá
trị mà người Mỹ cho kết quả có được từ dân chủ. Tất
cả các đời tổng thống Mỹ đều đề cập việc "phổ
biến dân chủ" như cách để người Mỹ gia tăng ảnh hưởng,
tăng cường quyền lực mềm. Tổng thống đương nhiệm Barack
Obama, trong cuốn Hy vọng táo bạo, cũng nói rằng Mỹ muốn giữ
vững vị trí của mình thì phải không ngừng phổ biến dân
chủ. Cho nên, khi môn khoa học chính sách phát triển, ảnh
hưởng mạnh mẽ, thì vô hình trung, những lý luận về dân
chủ của Mỹ cũng được quảng bá rộng rãi.
Năm 1936, tiền thân của trường Harvard Kennedy ra đời mang tên
The Graduate School of Public Administration (GSPA). Đến năm 1966, ngôi
trường ấy đổi tên thành Trường đào tạo chính sách công
Kennedy nhằm vinh danh cố Tổng thống J.F.Kennedy, người cổ súy
rất nhiều cho thuyết Domino và nêu cao ý thức hệ dân chủ tư
bản. Từ đó đến nay, trường chính sách công Harvard Kennedy
không ngừng phát triển và tạo những ảnh hưởng khắp thế
giới.
Khi Chiến tranh lạnh ngày càng căng thẳng, Mỹ không ngừng cung
cấp học bổng cho người nước ngoài. Các học bổng thường
tập trung vào các trí thức, các nhà quản lý, những người
làm việc cho các cơ quan nhà nước, phóng viên… từ các nước
trên thế giới. Đó là những người có ảnh hưởng đáng kể
trong xã hội. Các học bổng khá linh hoạt: từ ngắn hạn đến
dài hạn, tổ chức cả trong và ngoài nước Mỹ. Hiện nay,
trường Harvard Kennedy có 15 trung tâm và hàng chục chương trình
để tổ chức giao lưu, giảng dạy về các giá trị dân chủ,
quan điểm thực thi chính sách… Song hành cùng việc phát triển
các chương trình đào tạo giao lưu, trường Kennedy còn đẩy
mạnh quảng bá các học thuyết, nghiên cứu của các học giả
trường này. Và nay, các học thuyết, nghiên cứu ấy đang tràn
ngập các quốc gia như: Quyền lực mềm của Joseph Nye, Các vấn
đề phát triển kinh tế Đông Á của Dwight Perkin, học thuyết
Sự va chạm giữa các nền văn minh của Samuel Huntington…
Rất nhiều chính trị gia thế giới đã tham gia các khóa đào
tạo của trường Harvard Kennedy. Nổi bật có ông Lý Quang Diệu,
Lý Hiển Long của Singapore, Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon, Tổng
thống Mexico Felipe Calderon Hinojosa, cựu Tổng thống Ecuador Jamil
Mahuad… cùng nhiều chính trị gia khác. Đó là chưa kể đến
hàng chục nghìn người được nghe các hội thảo về dân chủ
do trường Kennedy tổ chức khắp nơi trên thế giới. Nhờ đó,
Mỹ đã tạo ra một sức mạnh mềm đầy mạnh mẽ.
Nhưng có một điều mà có lẽ chẳng bao giờ Mỹ nói đến,
đó là không ít các kinh tế gia hàng đầu của nước Mỹ đã
cho rằng những quan điểm chính trị nhiều lúc hầu như bỏ qua
các chuẩn tắc của kinh tế học, xã hội học. Kinh tế học,
xã hội học chỉ là bề nổi của một chính sách bất kỳ.
Bởi bên trong mỗi chính sách còn ẩn chứa cả những góc nhìn,
quan điểm về xã hội, về sự phát triển. Phần bên trong ấy
chính là thiên kiến chính trị. Điển hình như nhà kinh tế
học lừng danh Paul Samuelson đã từ chối tham gia ban cố vấn
về kinh tế giúp Tổng thống John Kennedy hoạch định chính
sách. Ông cho rằng khi hoạch định chính sách, các lý luận kinh
tế của ông sẽ phụ thuộc vào thiên kiến chính trị và ông
sẽ không được nói theo điều mình muốn nói.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4432), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét