src="http://i660.photobucket.com/albums/uu329/phthnguyen/PT%20so%2032/GiaLong.jpg"
width="200" height="200" alt="" /> <img
src="http://i660.photobucket.com/albums/uu329/phthnguyen/PT%20so%2032/faucille20marteau.jpg"
width="200" height="200" alt="" /></center>
<strong><em>Vua Gia Long Năm 1802 và Đảng Cộng Sản Việt Nam Năm
1975</em></strong>
<em>Từ 1802 đến 1975, lịch sử Việt nam chứng kiến hai lần
thống nhất sau thời kỳ phân liệt đẫm máu.
Năm 1802, Nguyễn Ánh tiêu diệt nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu
là Gia Long và chọn Phú Xuân làm kinh đô. Đến đời Minh Mạng,
cố đô Thăng Long được đổi thành Hà Nội.
Năm 1975, Ðảng Cộng Sản Việt Nam chiếm được Sài Gòn,
thống nhất hai miền Nam Bắc sau hơn 20 năm chia cắt và chiến
tranh. Sài Gòn đổi tên "Thành Phố Hồ chí Minh."
Hai lần thống nhất cách nhau gần 200 năm, nhưng quá trình
thống nhất và sự chọn lựa con đường phát triển đất
nước ở hai thời đại có một số điểm tương đồng. Sự
sai lầm của hai quá trình này, cả hai lần, đã đánh mất cơ
hội phục hưng tổ quốc, làm tiêu tán nội lực dân tộc, đưa
đất nước đến giai đoạn suy vong.</em>
<center>***</center>
<strong>I. Bài học từ triều đại Gia Long</strong>
<strong><em>Ảnh hưởng từ Tây phương</em></strong>
Khi Nguyễn Ánh phát động chiến tranh chống lại nhà Tây Sơn,
ngài đã dựa vào hai thế lực ở nước ngoài. Ðó là lực
lượng của người Tây Phương và lực lượng người Trung Hoa.
Đứng đầu lực lượng Tây phương phò Nguyễn Ánh là đức
Giám Mục Bá Ða Lộc. Nguyễn Ánh gặp giám mục Bá Ða Lộc khi
ngài bôn tẩu ở Vọng Các, kinh đô của Xiêm La, tức Thái Lan
hện nay. Từ đó, mối quan hệ của hai nguời trở nên mật
thiết. Ðể vận động sự trợ giúp của Pháp quốc, Nguyễn
Ánh đã giao hoàng tử Cảnh lúc mới lên bốn cho Giám Mục Bá
Ða Lộc. Đồng thời Giám Mục có toàn quyền ký hiệp định
với hoàng đế Pháp để giúp cho Nguyễn Ánh đánh nhà Tây Sơn.
Sau đó ông trở về Pháp để vận động viện trợ cho Nguyễn
Ánh. Ngài đã thay mặt Nguyễn Ánh ký hiệp ước 1787 dùng các
đảo Côn Sơn và các đảo ngoài khơi Đà nẳng để đổi lấy
viện trợ quân sự. Nhưng việc thi hành hiệp ước 1787 với
Pháp thất bại. Sau đó Giám Mục Bá Ða Lộc đã bỏ tiền túi
cũng như vận động tài chánh riêng để mua khí giới và đưa
sĩ quan Pháp về huấn luyện cho Nguyễn Ánh. Những người Pháp
giúp cho Nguyễn Ánh như Sạc Ne (Charner) và Sai Nhô (Chaigneau)
đều được tham dự triều chính của vua Gia Long khi ngài lên
ngôi.
Trong những người chịu ảnh hưởng Tây phương trong triều
đình Gia Long, quan trọng nhất là Hoàng tử Cảnh. Như đã nói
trên, Hoàng tử Cảnh được vua cha Gia Long cho theo đức Giám
Mục Bá Ða Lộc từ lúc ông mới 4 tuổi. Ở tuổi thơ ấu
nầy, Hoàng tử Cảnh rất dễ tiếp thu văn hoá và ngôn ngữ
Tây phương. Có lẽ Hoàng tử Cảnh là vị Hoàng tử Á Châu
đầu tiên được theo Tây học ở cuối thế kỷ thứ 18. Tuy
lịch sử không nói nhiều đến cuộc đời của Hoàng tử
Cảnh, ngày nay chúng ta có thể suy luận được rằng Hoàng tử
Cảnh là người tiếp cận văn hoá Tây phương rất sớm, thông
thạo Pháp ngữ và có quan hệ rất tốt với Tây Phương. Nói
thế để xác định rằng sở học tây phương của Hoàng tử
Cảnh đi trước cả Nguyễn Trường Tộ mấy chục năm. Và có
lẽ cuộc cách mạng kỹ nghệ tại Việt Nam đã có thể được
triển khai ngay thời đại hậu Gia Long nếu Hoàng tử Cảnh
không bị mất sớm.
Cùng lúc, một số người Minh Hương đã gia nhập lực lượng
của Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn. Người Minh Hương là
những người Trung Hoa phục vụ cho nhà Minh xin tỵ nạn chính
trị tại Đại Việt khi nhà Thanh diệt nhà Minh. Sau hơn 100 năm
sống ở Đại Việt, những người Hoa kiều nầy trở thành
một bộ phận của dân tộc nhưng họ vẫn có những mối quan
hệ chặt chẽ với mẫu quốc Trung Hoa. Do đó, những người
Minh Hương nầy trở thành lực lượng có xu huớng thân Trung Hoa
trong triều đình Gia Long. Ðứng đầu lực lượng nầy là
Trịnh Hoài Ðức, Lê Quang Ðịnh, và Ngô Nhân Tịnh. Cả ba ông
đều gốc người Minh Hương và là học trò xuất sắc của Võ
Trường Toản, một bậc thâm nho cũng gốc người Minh Hương,
có nhiều uy tín tại Gia Ðịnh. Cả ba người đều tham gia
hoạt động phò Nguyễn Ánh từ năm 1788.
Khi Gia Long lên ngôi, Trịnh Hoài Ðức làm đến chức Thượng
Thư Bộ lại kiêm Bộ hình và Phó tổng tài Quốc Sử Quán. Lê
Quang Ðịnh được thăng Binh Bộ thượng thư, tương đương
với Bộ trưởng Quốc phòng ngày nay. Ngô Nhơn Tịnh sau được
thăng Công Bộ thượng thư. Cả ba ông đều đóng những vai trò
quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa.
Nhưng vai trò quan trọng nhất của Trịnh Hoài Ðức là được
vua Gia Long ủy thác để dạy dỗ cho hoàng tử Ðảm. Hoàng tử
Ðảm sau lên ngôi lấy hiệu là Minh Mạng.
<em><strong>Ảnh hưởng từ Trung Hoa</strong></em>
Hai xu hướng thân Tây và thân Trung hoa trong triều Gia Long xung
đột gay gắt về vấn đề kế vị hoàng tử Cảnh sau khi hoàng
tử qua đời. Khi Trịnh Hoài Đức thuyết phục được Gia Long
phế dòng trưởng lập dòng thứ, vua Gia Long đã chọn Minh Mạng
làm người kế vị. Khi Minh Mạng lên ngôi, dưới ảnh hưởng
của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định và Ngô Nhân Tịnh, Việt
nam đã nghiêng hẳn theo mô hình Nho giáo của Thanh triều (Thanh
Nho) để phát triển đất nước.
Sau khi lên ngôi, để giữ vững ngai vàng, Minh Mạng (1820-1840)
triệt hạ dòng dõi của hoàng tử Cảnh bằng cách xử tử vợ
và người con trưởng của hoàng tử Cảnh, và giáng người con
thứ làm thường dân. Về phương diện ngoại giao, ngài cho
giảm dần quan hệ với Tây phương. Những người Pháp làm
việc với Gia Long chán nản bỏ về nước.
Với những người Minh Hương thân Trung hoa cầm nắm vận mạng
của triều đình, Minh Mạng đã thi hành một loạt các chính
sách ngoại giao đi ngược với đường lối của Gia Long. Từ
một nền chính trị ngoại giao khai phóng của Gia Long với
những quan hệ rộng rãi với các quốc gia trên thế giới, Minh
mạng và các vua kế vị (Thiệu Trị (1841-1847), và Tự Đức
(1848-1883)) cùng triều đình thân Trung Hoa đã bắt đầu một
nền chính trị cục bộ, thiển cận với chính sách bế môn
toả cảng, đoạn tuyệt với Tây phương, ban hành lệnh cấm
đạo.
Do ảnh hưởng của Thanh Nho, triều đình nhà Nguyễn từ Minh
Mạng trở đi chỉ chú trọng đến văn chương thi phú biền
ngẫu, đi theo con đường trọng văn và xao lãng vấn đề quân
sự và quốc phòng.
Ðây là lý do, sau khi Gia Long băng hà, sức mạnh quân sự của
triều Nguyễn suy giảm hẳn. Khi các tướng lãnh thuộc thế hệ
Gia Long qua đời, các tướng lãnh thế hệ kế thừa không đủ
tài thao lược để thực hiện chính sách quốc phòng hữu
hiệu. Lực lượng quân sự của Trương Minh Giảng không đủ
khả năng duy trì guồng máy cai trị ở Nam Vang. Và Trương Minh
Giảng đã bị người Miên đánh đuổi về nước dưới triều
Thiệu Trị.
Đến thời kỳ Tự Đức, xu hướng thân Trung Hoa hoàn toàn nắm
trọn quyền trong triều đình. Biểu hiện rõ nhất là việc
triều đình bác bỏ Bản điều trần Canh tân đất nước của
Nguyễn Trường Tộ. Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một nho
sĩ theo đạo Thiên Chúa. Ông nổi tiếng thông minh và hay chữ,
được người đời gọi là Trạng Tộ. Ông cũng thông thạo
nhiều ngôn ngữ Tây phương. Ông làm thông ngôn cho các giáo sĩ
Thiên Chúa trong việc truyền đạo tại Việt Nam. Sau một thời
gian đi chu du khắp thế giới, đặc biệt là nước Pháp và Ý,
ông trở về Việt Nam để mấy năm trời đem tâm huyết của
một người yêu nước viết nhiều Bản điều trần để cải
cách và canh tân đất nước dâng lên triều đình Tự Đức.
Nhưng trìều đình Tự Đức, với đầu óc cổ hủ của Thanh
Nho, không đủ tầm nhìn để hiểu được những thế lớn đang
bùng ra trong thiên hạ thời bấy giờ. Sau Hoàng tử Cảnh năm
mươi năm, Việt Nam đã mất đi cơ hội phát triển một lần
nữa khi triều đình nhà Nguyễn quay lưng với những đề xuất
canh tân của Nguyễn Trường Tộ.
Điều bất hạnh hơn cho dân tộc là lúc ấy giáo điều Thanh
Nho đã bắt đầu rã mục. Triều đình nhà Thanh đang trên đà
phá sản. Năm 1839 chiến tranh nha phiến bùng nổ, nhà Thanh phải
ký các hiệp ước biên giới nhượng đất cho Anh và Pháp. Với
hiệp ước Nam Kinh, Anh chính thức chiếm đóng Hong Kong năm 1842.
Và với hiệp ước Hoàng Phố 1844, Pháp chính thức đặt chân
lên lãnh địa Trung Hoa. Ở mạn bắc, năm 1850 quân đội của
Nga Hoàng tràn xuống Hắc Long Giang chiếm đóng Mãn Châu, quê
hương của nhà Thanh. Từ 1854 đến 1860, Hồng Tú Toàn và phong
trào Thái Bình Thiên Quốc đã chiếm gần một nửa Trung Hoa.
Cuối cùng, cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của phong trào cách
mạng Quốc Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn đã
lật đổ triều đình phong kiến Mãn Thanh để xây dựng chế
độ Cộng hòa.
Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn vẫn còn như mơ ngủ.
Tiếng súng của hải quân Pháp bắn vào Đà Nẵng năm 1856 vẫn
không làm cho triều đình Tự Đức tỉnh giấc mộng Thanh Nho.
Sau khi Pháp chiếm Nam Kỳ năm 1860, tức là 20 năm sau khi nhà
Thanh bị liệt cường xâu xé và đang giãy chết, triều đình
Tự Đức vẫn còn cho người đi sang Trung Hoa cầu viện. Những
tiếng nói đòi cải cách của các sĩ phu yêu nước như Nguyễn
Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch trở thành nỗi trăn
trở kéo dài hàng thế kỷ của nhiều thế hệ. Ý hệ Thanh Nho
làm triều đình nhà Nguyễn u mê đến nỗi không thấy được
một thế giới mới ra đời mà ở đó cuộc cách mạng kỹ
nghệ đang đẩy xã hội Tây phương lên đỉnh cao của lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Và cuộc cách mạng
đó làm thay đổi cục diện thế giới nói chung và lịch sử
nước Đại Việt nói riêng.
Hậu quả bi thảm của nền chính trị do đầu óc cổ hủ,
thiển cận lãnh đạo được thấy rõ khi tàu chiến của Pháp
kéo vào hải phận Đại Việt. Khi Pháp tấn công Nam Kỳ thì
triều đình hoàn toàn không có đủ năng lực quân sự và
chiến lược quốc phòng để đối phó. Những võ tướng uy tín
trong triều như Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản (cũng gốc
người Minh Hương) dù thừa khí phách của nho gia nhưng không
đủ tài thao lược quân sự để lãnh đạo cuộc chiến tranh
chống xâm lược. Khi Pháp chiếm Sài Gòn thì súng ống và đạn
dược của quan quân Triều đình có rất nhiều nhưng quân đội
ô hợp không có khả năng chống trả quân xâm lăng. Hậu quả
là đất nước đã mất vào tay thực dân.
Với Hoà Ước Nhâm Tuất 1862 và Hoà ước Patenotre 1884, công
cuộc thống nhất đất nước của Gia Long được coi như cáo
chung. Việt Nam bước qua trang sử mới, đó là trang sử nô lệ.
Sau 1000 năm giành được độc lập từ Trung Hoa thời Ngô Quyền
Vương, nước Đại Việt lại một lần nữa mất quyền tự
chủ.
Cái nhục mất nước, tụt hậu của dân tộc Đại Việt ở
thế kỷ 19 xuất phát từ nhiều yếu tố lịch sử khác nhau.
Trong đó, sự chọn lựa mô hình phát triển đất nước, sự
ỷ dốc vào Thanh triều Trung Hoa trên mặt trận ngoại giao và
văn hoá thời kỳ hậu Gia Long, chính sách bế môn toả cảng và
sự tin tưởng mù quáng vào giáo điều Thanh Nho, bất chấp các
bản điều trần yêu cầu canh tân của các sĩ phu tiến bộ là
những yếu tố quyết định đưa đất nước vào giai đoạn nô
lệ.
<strong>II. Lặp lại sai lầm lịch sử ở thời cộng sản thống
nhất đất nước</strong>
<strong><em>Chính sách Mác-Lê</em></strong>
Ðến năm 1975, tức gần 200 năm sau, Cộng sản thống nhất
đất nước sau hơn hai thập thiên nội chiến. Cũng như thời
nhà Nguyễn, những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam
đứng trước những chọn lựa chiến lược để canh tân, để
đưa đất nước vào giai đoạn phục hưng sau một thời kỳ nô
lệ thực dân và thời kỳ chiến tranh hậu Pháp thuộc.
Tình hình Việt Nam ở thời điểm tháng 4 năm 1975 hết sức
thuận lợi cho việc phát triển đất nước.
Xã hội miền Nam sau hơn hai mươi năm xây dựng, mặc dù bị
chiến tranh, đã đạt được những thành quả đáng kể. Về
phương diện kinh tế, miền Nam đã có những cơ sở kỹ nghệ
hạ tầng cao cấp đủ khả năng giúp nền kinh tế hậu chiến
cất cánh. Về thương mại, Sài Gòn đã là trung tâm điểm của
kinh tế Đông Nam Á. Về phương diện nông nghiệp, sức sản
xuất nông nghiệp của miền Nam đủ để nuôi cho cả nước.
Thêm và đó, nền giáo dục miền Nam với những cơ sở giáo
dục hiện đại đã đào tạo được nhiều chuyên gia kinh tế,
khoa học, kỷ thuật thượng thặng. Khoa học điện toán đã
bắt đầu được đưa vào trong công việc quản lý hành chính
và giáo dục. Đó là cơ sở khoa học kỹ thuật cho phép đưa
đất nước vào cuộc cách mạng điện toán và điện tử của
thời kỳ những năm 1980. Đồng thời quan hệ ngoại giao của
miền Nam và các nước Tây phương và Hoa Kỳ hết sức tốt
đẹp. Đặc biệt, Liên Hiệp Quốc đồng ý để cho hai miền
Nam Bắc gia nhập tổ chức quốc tế nầy với tư cách những
nước độc lập.
Nói chung ở thời điểm 1975 miền Nam đã ở vị thế ngang
ngữa với Nam Triều Tiên, Đài Loan và vượt xa Thái Lan và
Malaysia.
Trước viễn cảnh của một đất nước thống nhất và hoà
bình, nhiều nhà trí thức yêu nước miền Nam đã bất chấp
mối đe dọa chính trị, tiếp tục giấc mơ Nguyễn Trường
Tộ. Họ từ chối những lời mời di tản ra nước ngoài của
Hoa Kỳ, của thân nhân, để ở lại xây dựng đất nước. Có
lẽ nhiều người yêu nước trong hàng ngũ Cộng Sản cũng chia
sẻ giấc mơ Nguyễn Trưòng Tộ. Nhiều người đã hy vọng
rằng với những bài học thất bại trong việc áp dụng chế
độ Cộng Sản ở miền bắc, những người lãnh đạo ở Hà
Nội sẽ thức thời để trở thành những "Minh Trị Thiên
Hoàng" của Việt Nam giúp phát triển và phục hưng dân tộc.
Điều làm mọi người kinh ngạc và bàng hoàng là sau Hoàng tử
Cảnh và Nguyễn Trường Tộ gần 200 năm, lịch sử lại tái
diễn.
Từ năm 1976, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu áp dụng
chính sách cộng sản trên toàn quốc. Đất nước bước vào
đoạn bế môn toả cảng, cắt đứt mọi liên hệ với các
nước tự do dân chủ. Những quan hệ ngoại giao, nếu có, chỉ
có trên hình thức.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã biến đất nước thành một nhà
tù vĩ đại. Hơn 300.000 quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà đã
bị giam giữ vô hạn định. Đây là thảm hoạ lịch sử mà
cái tàn ác của vua Gia Long khi ngài trả thù nhà Tây Sơn cũng
không thể nào so sánh được. Và suốt lịch sử 5000 năm của
dân tộc cũng không có một thời đại nào có cuộc trả thù
khủng khiếp như thời kỳ hậu chiến 1975.
Về phương diện kinh tế, một loạt các chính sách kinh tế
rùng rợn và ngược đời đã được thực hiện: hợp tác hoá
nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp, "đánh tư sản",
đổi tiền, chính sách tem phiếu, hộ khẩu, cưỡng đoạt
đoạt tài sản của người có tiền của, và kinh khủng nhất
là chính sách xóa bỏ quyền tư hữu. Chỉ trong một thời gian
ngắn toàn bộ tài sản của nhân dân thuộc vào tay Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, kinh tế Việt Nam điêu
tàn. Trong thời chiến tranh, gạo ở miền Nam dù không dư thừa
nhưng đủ nuôi cho cả nước. Nhưng dưới chính sách kinh tế
hợp tác xã, gạo do hai miền Nam Bắc sản xuất trong thời bình
không đủ cung cấp cho toàn dân. Chỉ sau vài năm "giải
phóng", toàn dân phải ăn khoai sắn và bo bo. Trong khi kinh tế
các nước trong vùng đi vào cuộc cách mạng điện toán và cất
cánh nhanh chóng thì người dân Việt Nam phải sắp hàng cả
ngày để mua gạo, mua thịt, và các loại nhu yếu phẩm. Đất
nước ở bến bờ của nạn đói lớn nhất từ năm 1945 với
hàng trăm ngàn nông dân bỏ ruộng vườn lên tỉnh kiếm ăn.
Nông dân Thái Bình, Xuân Lộc, Tây Nguyên thay nhau nổi dậy.
Những chuyên gia kinh tế, tài chánh, kỹ thuật yêu nước quyết
định ở lại hợp tác với chính quyền đều vỡ mộng. Lòng
yêu nước chân thành và đầy hy vọng của họ mong được
đóng góp phát triển đất nước thời kỳ hậu chiến được
trả giá bằng tù đày và khổ sai lao động.
Đến năm 1990, kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản
Việt Nam xây dựng 15 năm trên toàn đất nước hoàn toàn phá
sản. Và cũng đến thời điểm đó, hàng triệu người đã bỏ
nước ra đi.
Văn hoá cũng bị nhà nước triệt để xóa nền văn hóa dân
tộc để thay vào đó là "văn hóa Mác-Lê". Những triết
học "mạnh được yếu thua" của Mác Lê đã thay thế
truyền thống triết học nhân bản của dân tộc.
Về phương diện tâm linh, Đảng đã cố tâm tiêu diệt tôn
giáo. Từ năm 1975 CS đã phát động chiến dịch "chống thằng
Trời" để khắc phục thiên tai lũ lụt. Với tâm thức duy
vật vô thần, Đảng đã chối bỏ mọi truyền thống văn hóa
trong việc trị nước. Đứng về phương diện tâm linh dân
tộc, Hồ Chí Minh và những người kế vị của ông là những
người người lãnh đạo phủ nhận giá trị cổ truyền. Đền
chùa nhà thờ tại những vùng quê đã được trưng dụng để
làm đồn công an, kho lương thực, nhà hàng tập thể. Và chế
độ cộng sản là chế độ duy nhất trong lịch sử đã không
làm lễ ra mắt Trời Đất và tổ tiên khi nắm chính quyền.
Về quân sự, đến năm 1990, sức mạnh quân sự của Việt Nam
suy giảm rõ rệt. Đảng Cộng sản không còn đủ khả năng
chiếm đóng Campuchia. Như Trương Minh Giảng cách đó hơn 150
năm, lực lượng chiếm đóng Campuchia của Đảng phải rút về
nước. Đến năm 1999, Bắc Kinh không một phát súng đã ép nhà
nước Việt Nam phải ký Hiệp ước biên giới trên đất liền
và Hiệp ước phân định vịnh Bắc Bộ để nhượng lãnh thổ
và lãnh hải cho Trung Quốc.
<em><strong>"Đổi Mới"</strong></em>
Cũng như sự phá sản của Thanh Nho cách đây hơn 150 năm, phong
trào Cộng sản thế giới đã bắt đầu tan rã từ những năm
1960 khi mâu thuẫn của hai siêu cường Nga-Hoa bùng nổ, trở
thành những trận chiến biên giới đẫm máu. Những người
cộng sản Việt Nam lúc theo Tàu, lúc ngả theo Nga. Mỗi lần có
sự xoay chiều chính trị là xảy ra những đợt thanh trừng
rùng rợn trong nội bộ Đảng. Sau năm 1975, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã nghiên hẳn theo Liên Xô và ra mặt chống đối
bọn "bành trướng Bắc Kinh". Sự chọn lựa Liên Xô đã
phải trả giá bằng những trận chiến biên giới Việt Trung
năm 1979 với hàng trăm ngàn nhân mạng thương vong.
Đến năm 1990, các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu
đồng loạt sụp đổ. Liên Xô, thành đồng cách mạng vô sản
thế giới và tổ quốc thứ hai của những người cộng sản
Việt Nam, đã lạnh lùng chia tay với chủ nghĩa Mác Lê không
một lời từ giả.
Thay vì noi theo gương Liên Xô tháo gỡ cơ chế cộng sản để
xây dựng một đất nước tự do dân chủ, những người cộng
sản Việt Nam lại xoay chiều chính trị. Trong giờ phút thập
tử nhất sinh, họ đã phải cầu hoà với Trung Quốc. Và để
trả giá cho sự "lầm lỡ" theo Liên Xô trước đây, họ đã
không ngần ngại ký ngay mật ước nhượng đất và nhượng
biển cho Bắc Kinh. Đồng thời Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nhanh chóng đổi mới kinh tế theo mô hình Đặng Tiểu Bình.
Những tiếng nói muốn thay đổi cơ chế chính trị theo gương
Liên Xô như của ủy viên bộ chính trị Trần Xuân Bách,
Nguyễn Cơ Thạch đã bị thanh trừng không khoan nhượng.
Thế nhưng, điều nghịch lý là thực chất của đổi mới là
chấp nhận con đường phát triển của Việt Nam Cộng Hoà
trước năm 1975. Đó là con đường kinh tế thị trường với
sự mở rộng hợp tác thị trường Tây Phương và Hoa Kỳ. Đó
là mô hình kinh tế tư bản- mô hình mà vì bản chất mâu
thuẫn với lý thuyết kinh tế Mác Lê, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã phát động cuộc chiến 20 năm cho đến ngày 30 tháng 4
năm 1975.
Ngày nay, kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ khả quan.
Nhưng đó là những tiến bộ tương đối so với với thời kỳ
chuyên chính vô sản đói rách và đen tối. Nếu nhìn trên bình
diện vĩ mô thì thực chất của "chính sách đổi mới" là
quyết định không áp dụng chủ nghĩa Mác Lê vào một phần
đời sống kinh tế quốc dân. Sự hồi sinh của "khu vực kinh
tế phi Mác Lê" trên sinh hoạt kinh tế quốc gia giúp cho nhân
dân được tự do làm ăn. Nhờ vậy, ngày nay kinh tế của Việt
nam đã thay đổi. Nhưng khi so sánh với những tiến bộ của Nam
Triều Tiên, Đài Loan, Singapore, Nhật Bản, thì Viêt Nam vẫn là
nước chậm tiến nhất trong vùng. Lực phản động của chủ
nghĩa Mác Lê hơn 60 năm qua là sức tiêu cực làm cho khu vực
kinh tế phi Mác Lê (hay khu vực kinh tế thị trường) không thể
phát huy trọn vẹn tiềm năng của nó. Thêm vào đó, nền kinh
tế Việt nam được hồi sinh nhờ vào hàng tỷ đô la mỗi năm
của người Việt tỵ nạn cộng sản chuyển về cho thân nhân.
Về phương diện văn hóa, tuy nền văn hoá Mác Lê đã phá sản
nhưng chính sách văn hoá trong suốt sáu mươi năm qua đã làm cho
văn hoá dân tộc bị tật nguyền và suy yếu. Sự sụp đổ
của chủ nghĩa Mác Lê trên thế giới kéo theo sự sụp đổ
của nền văn hóa duy vật đã tạo khoảng trống trong sinh hoạt
văn hóa. Từ khoảng chân không ấy, những di sản văn hóa
trước năm 1975 đã xuất hiện trở lại. Những tác phẩm thơ
văn nhạc thời tiền chiến và miền Nam trước 1975 đã trở
thành những món ăn tinh thần của người dân Việt Nam. Âm
nhạc XHCN, văn chương đấu tranh giai cấp đã phải lùi bước
trước sự phục sinh truyền thống sáng tác phong phú, đa dạng
và nhân bản để đáp ứng với nhu cầu tinh thần của người
dân ngày nay.
Tuy nhiên việc phục hồi di sản văn hoá miền Nam chưa đủ
năng lực để phục hưng dân tộc. Giáo điều Mác Lê vẫn còn
hằn sâu trong tư duy của người cộng sản, và não trạng nô
lệ vào chủ thuyết ngoại bang vẫn đè nặng lên đời sống
văn hóa Việt Nam.
<strong>LS Nguyễn Xuân Phước</strong>
<strong>©Tạp Chí Thanh Niên <em>PHÍA TRƯỚC</em></strong>
Mời quý độc giả tiếp tục theo dõi Suy Ngẫm Về Bài Học
Thống Nhất Đất Nước Kỳ II, Đánh giá lại cuộc chiến tranh
"chống Mỹ cứu nước" của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chìa khóa cho tương lai Việt Nam, sẽ phát hành vào thượng
tuần tháng 3, 2010.
<strong>Download TCPT33 - Tự Hào Việt Nam:</strong>
- <a href="http://www.mediafire.com/?inymhoqgtj4">Bản HD</a> (8.5MB)
- <a href="http://www.mediafire.com/?vynnmykziuq">Bản Standard</a> (4MB)
- <a href="http://www.mediafire.com/?4gmzuw3mmyz">
Bản Mini </a>(2.5MB)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/4490), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét