Nguyễn-Xuân Vĩnh - Bàn cờ quân sự & chính trị Việt Nam trên Biển Đông

Trong kỳ họp thượng đỉnh APEC vừa qua đã có những cuộc
gặp gỡ giữa thủ tướng Nhật Abe, chủ tịch Việt Nam Trương
Tấn Sang và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (Xi Jinping). Đó
được cho là dấu hiệu giảm căng thẳng trong mối liên hệ
giữa các nước này, nhưng sự lạnh lùng của các nhà lãnh
đạo trong lúc bắt tay chụp hình cho thấy là bên sau sân khấu
tình hình vẫn chưa bình thường và sẽ không thể bình thường
nhanh được. Những hành động khiêu khích của Trung Quốc trong
tranh chấp lãnh thổ suốt những năm qua đã để lại dấu vết
tiêu cực trong mối quan hệ đối với các nước láng giềng.


Sau khi chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam,
Trung Quốc đã liên tiếp thi hành từng bước để củng cố
chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa như xây đồn đóng quân,
kiến thiết một sân bay trên đảo Gạc Ma (Johnson Reef South) v.v.
Việc dựng dàn khoan dầu HS 981 trong vùng biển Hoàng Sa tháng Tư
năm nay là cao điểm của những tranh chấp cho đến nay.


Những hành động ngang ngược này của Trung Quốc ở Biển
Đông -mà chính phủ Mỹ đã chỉ trích là đầy tính khiêu
khích- xảy ra chỉ một khoảng thời gian ngắn sau những xung
đột tương tự tại vùng biển giữa Trung Quốc, Nhật Bản và
Nam Hàn. Vào tháng 11 năm 2013 Trung Quốc đã tuyên bố thành lập
một vùng gọi là Không phận phòng thủ trên biển giữa Trung
Quốc, Nam Hàn, Nhật và Đài Loan. Vùng không phận này cũng bao
gồm bầu trời trên những hòn đảo tranh chấp mà Nhật gọi
là Senkaku, Trung Quốc gọi là Điếu Ngư (Diaoyu).


Đây là một dấu hiệu rõ ràng cho sự thay đổi chính sách về
lãnh hải của Trung Quốc. Trong những thập niên trước thế
kỷ 21 chính sách của Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp lãnh
thổ còn tương đối <em>"mềm mại"</em> với phương cách dùng
<em>"soft power"</em> (quyền lực mềm) để áp lực. Từ đầu
thế kỷ 21 sự phô trương lực lượng quân sự và thậm chí
đe dọa dùng vũ lực gây xung đột từ phía Trung Quốc đã trở
nên thường xuyên hơn.


Dưới ảnh hưởng của những biến cố này và theo đà phát
triển quân sự mạnh mẽ của Trung Quốc các nước láng giềng
Đông Á, trước nhất là Nhật, đã tuyên bố sẽ gia tăng ngân
sách quốc phòng. Cuộc chạy đua vũ trang ở Đông Á trước
đây còn ngấm ngầm, nay đã bước qua giai đoạn mới, công khai
và quyết liệt hơn. Các quốc gia Đông Á đang chuẩn bị cho
những biến động trong tương lai, trang bị quân sự của họ
đang được gia tăng đến mức chưa từng có trong vùng này.


Nước Mỹ, tuy là đồng minh và cường quốc che chở cho nhiều
nước trong vùng, xưa nay vẫn ứng xử thận trọng đối với
Trung Quốc, nhưng trước sự phô trương sức mạnh quân sự và
những hành động lấn chiếm công khai của Bắc Kinh, nay Mỹ
cũng bắt đầu lên tiếng cảnh cáo. Với ông Obama là tổng
thống đầu tiên xuất thân từ Hawaii, tiểu bang nằm giữa lòng
Thái Bình Dương, chiến lược của Mỹ về Đông Á cũng đang
được thay đổi.


Những biến chuyển này sẽ có ảnh hưởng gì cho tương lai
của Biển Đông và Việt Nam? Khả năng quân sự của Việt Nam
đang trong tình trạng như thế nào so với các nước láng
giềng, nhất là so với Trung Quốc hung hăng? Việt Nam phải và
có thể làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình? Và Việt Nam
có những lựa chọn gì về mặt quân sự và chính trị? Trước
sự im lặng và thụ động của chính phủ Việt Nam, đó là
những câu hỏi khẩn cấp mà người Việt trong và ngoài nước
đều quan tâm đến.


<strong>Những yếu tố chiến lược của Biển Đông</strong>


Biển Đông là vùng biển với nhiều vấn đề tranh chấp lãnh
thổ nhất hiện nay trên thế giới. Bảy quốc gia ở bên bờ
là Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam
Dương và Brunei không ít thì nhiều đều tuyên bố chủ quyền
của mình trên vô số những hòn đảo ở Biển Đông. Những
vùng tranh chấp mãnh liệt nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.


Biển Đông cũng là một trong những vùng biển với những
tuyến đường hàng hải quan trọng nhất thế giới. Tất cả
các thuyền chở hàng giữa Nhật, Hàn Quốc, Trung Quốc và châu
Âu, châu Phi và Trung Đông đều đi qua vùng này để rồi qua
đường Malacca (Malacca Strait) vào Ấn Độ Dương. Đó là khoảng
phân nữa trọng tải thuyền của thế giới.


<center><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpf1/v/t34.0-12/1016263_890764760955124_4394766146383851809_n.jpg?oh=35687414da6160f8c91dfe48f695a48e&oe=548E9A05&__gda__=1418617594_02a6abf6d491e6d49e5af8e13038775d"
width="500" /><div class="textholder">
Các tuyến đường hàng hải trong Biển Đông
[1]</div></div></center>


Biển Đông là mạch máu cung cấp dầu hoả từ Trung Đông, mỗi
ngày khoảng 11 triệu thùng dầu thô được vận chuyển qua
đường Malacca để cung cấp cho Bắc Á [2]. Có thể nói là ai
kiểm soát vùng biển này, người đó nắm sự sống còn của
nền kinh tế Bắc Á trong tay. Ngoài ra còn có hai yếu tố khác
không kém phần quan trọng, thứ nhất là những nguồn dầu hỏa
và dầu khí khổng lồ được phỏng đoán dưới đáy biển,
nhất là xung quanh những hòn đảo. Theo ước tính của Sở
Nghiên Cứu Địa Chất Mỹ (US Geological Survey) số lượng dầu
hỏa là khoảng 11 đến 22 tỷ thùng (barrel) và 2.960 (hai ngàn
chín trăm sáu mươi) đến 8.200 (tám ngàn hai trăm) tỷ mét khối
dầu khí [2],[3].



Yếu tố thứ hai, vùng Biển Đông cũng là những nguồn thủy
sản phong phú để đáp ứng nhu cầu chất đạm. Có đến 20%
hải sản cung cấp cho thị trường thế giới được đánh bắt
ở đây. Một yếu tố tối quan trọng cho nước ta với 85
triệu dân và nền công nghệ thủy sản với truyền thống lâu
đời về chài lưới đánh cá ngoài biển khơi, và còn quan
trọng hơn nữa cho một quốc gia với gần hai tỷ dân. Ta vẫn
có thành ngữ <em>"đất nước Việt Nam rừng vàng biển
bạc"</em>. Người xưa đã có một cảm giác, một khái niệm
như thế, nhưng trong thời đại này thành ngữ đó đã trở
thành hiện thực. Một kho tàng có thật nhưng có thể sẽ bị
mất, không còn là gia tài để lại cho các thế hệ tương lai.


<strong>Hiệp ước UNCLOS</strong>


Tranh chấp hải phận không phải là một vấn đề mới xuất
hiện, vì thế các quốc gia có biển đã cùng với Liên Hiệp
Quốc lập ra một thoả thuận để giải quyết những vấn đề
tranh chấp đó, gọi là hiệp ước UNCLOS (United Nations Convention
on the Law of the Sea). Hầu hết các quốc gia đã ký kết hiệp
ước này, trong đó có tất cả các nước xung quanh Biển Đông
và ngay cả Trung Quốc. Hiệp ước này định nghĩa vùng hải
phận bất khả xâm phạm của một quốc gia là vùng biển 12
dặm trước bờ. Ngoài ra - và đây là điều rất quan trọng cho
sự tranh chấp trong Biển Đông- một quốc gia có thể khẳng
định một vùng 200 dặm nối tiếp lãnh hải của mình, được
gọi là vùng kinh tế độc quyền (Exclusive Economic Zone, EEZ). Như
thế trên lý thuyết một quốc gia có thể nới rộng lãnh hải
của mình đến 212 dặm trước bờ biển. Với thoả thuận
UNCLOS thì thật ra vấn đề chủ quyền trên Biển Đông có thể
giải quyết được. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều
cách bờ biển Việt Nam khoảng 220 dặm, trong khi Hoàng Sa cách
Trung Quốc khoảng 270 dặm và Trường Sa thì còn xa hơn nữa
với 750 dặm.


Như thế trên tinh thần của hiệp ước UNCLOS thì vấn đề
Hoàng Sa có thể được giải quyết song phương giữa Việt Nam
và Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có lý do gì để đòi hỏi
Trường Sa. Vấn đề chủ quyền Trường Sa là chuyện Việt Nam
phải giải quyết với Mã Lai và Phillippine.


<center><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpf1/v/t34.0-12/10868175_890764737621793_1211272351128351203_n.jpg?oh=559dfa88ee4c8216a0d6b00a568630f0&oe=548E52A5&__gda__=1418624282_7b048e5c02dbbd6a0468b09456316237"
width="500" /><div class="textholder">Bản đồ lưỡi bò và ranh giới
hải phận theo hiệp ước UNCLOS [4] </div></div></center>


Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy. Năm 1956 Trung Quốc
đã phát hành một bản đồ của mình, trong đó hải phận Trung
Quốc được mô tả một cách mơ hồ với vài gạch đỏ. Đó
là cái bản đồ nay được gọi là <em>"bản đồ đường
lưỡi bò"</em> hoặc <em>"bản đồ 9 gạch"</em>. Trong đó hải
phận Trung Quốc được nới ra và bao chiếm hầu hết Biển
Đông, để lại cho các nước láng giềng vỏn vẹn một hải
phận 12 dặm. Hiện nay Trung Quốc tiếp tục khẳng định chủ
quyền ở Biển Đông trên căn bản của cái bản đồ phi lý
này, định nghĩa Biển Đông là một <em>"biển nội địa."</em>



Vấn đề chủ quyền trong vùng Biển Đông chỉ có thể giải
quyết qua sự đàm phán nhiều phía giữa các quốc gia bên bờ
và trên cơ sở hiệp ước UNCLOS, nhưng Trung quốc giữ lập
trường là chỉ đàm phán tay đôi riêng biệt với từng nước
láng giềng. Đàm phán song phương như vậy Trung Quốc sẽ tận
dụng được thế mạnh của một nước lớn và dễ dàng gây
chia rẽ các nước khác. Với đòi hỏi này của Trung Quốc,
tất cả các quốc gia bên bờ Biển Đông sẽ là những kẻ thua
cuộc trong tranh chấp này.


<strong>Sức mạnh ngày càng tăng của quân đội Trung
Quốc</strong>



Một yếu tố tối quan trọng để đạt được kết quả trong
cuộc đàm phán là thế lực của quốc gia đó trong chủ đề
đàm phán. Trong vấn đề lãnh thổ, thế lực về chính trị,
kinh tế và quân sự là yếu tố quyết định. Đây là một
trong những nguyên do chánh cho sự thay đổi chính sách của Trung
Quốc. Chi phí quốc phòng của Trung Quốc đã liên tiếp tăng cao
trong những thập niên qua. Với tổng số 188,5 tỉ Dollar ngân
sách quốc phòng của Trung Quốc cho năm 2013 đã vượt qua ngân
khoản quốc phòng ba nước Anh, Pháp và Đức nhập lại (tổng
cộng là 167,9 tỉ Dollar) [5]. Đó là một kỷ lục mới và là
một số tiền khổng lồ so với các nước láng giềng (tỉ dụ
tổng sản lượng quốc gia VN năm 2013 là 171,4 tỉ Dollar [6] vẫn
chưa bằng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc!)



Kết quả của nỗ lực đó là sự xuất hiện liên tục của
những hệ thống vũ khí tối tân từ đầu thế kỷ này. Cho
đến năm 1998 lực lượng không quân Trung Quốc còn chủ yếu
sử dụng chiến đấu cơ loại MiG 21 hoặc J-9 là sản phẩm tự
chế dựa trên công nghệ cuả chiếc MiG 21. Không quân Trung
Quốc được coi là lạc hậu so với những lực lượng hiện
đại của các cường quốc Tây Phương và Nga.



Nhưng từ năm 1999 Trung Quốc trang bị cho quân đội hàng loạt
những loại chiến đấu cơ tân tiến tự chế như chiếc Chengdu
J-10 (giống chiếc Eurofighter) và chiếc Shenyang J-11 (copy của
chiếc SU-27SK của Nga). Điều làm cho giới quân sự, nhất là
của Mỹ, ngạc nhiên nhất là chuyến bay đầu tiên của chiếc
Chengdu J-20, một chiếc khu trục cơ thiết kế theo công nghệ
tàng hình (stealth technology), một công nghệ mà Tây Phương cho
rằng Trung Quốc cần khoảng hai mươi năm nữa mới theo kịp.


Sự thay đổi từ một quân đội lạc hậu, mang tiếng là lấy
biển người để đè bẹp đối thủ, đến một quân đội
hiện đại được thể hiện rõ ràng nhất trên mặt nước.
Hải quân Trung Quốc cho đến năm 1995 có tổng cộng 52 chiến
hạm cỡ khu trục hạm (destroyer) và hộ tống hạm (frigate),
trong đó vỏn vẹn chỉ có 7 chiếc có trang bị hỏa tiễn phòng
không tầm ngắn, mặc dù trong thời đó hỏa tiễn phòng không
đã là vũ khí cơ bản của tất cả chiến hạm lớn hơn 100m
của NATO hoặc Khối Warsaw. Nhưng từ năm 1996 đến nay lực
lượng hải quân Trung Quốc đã liên tục tiếp nhận các chiến
hạm mới với trang bị hiện đại và tàu ngầm. Năm 2010, tức
là chỉ 15 năm sau, hải quân Trung Quốc có đến 75 chiến hạm
lớn [7]. Trong số đó khoảng 25 chiếc có trang bị hỏa tiễn
tối tân như những khu trục hạm lớp Sovremenyi mua của Nga và
những tàu chiến tự chế lớp 052B và 052C. Đặc biệt là
những khu trục hạm lớp 052C (Luyang-III class) đã có hệ thống
radar loại phased-array tương tự như hệ thống radar AEGIS trên
những chiến hạm tối tân nhất của Mỹ hạng Arleigh Burke.


Năm 2011 hải quân Trung Quốc đã được tăng cường chiếc
Liaoning, một hàng không mẫu hạm được hoàn tất trên cái
sườn của chiếc Warjag, một chiếc mẫu hạm thuộc vào lớp
Admiral Kuznetzow của Nga.


Và sự tăng cường năng lực hải quân vẫn được tiếp tục.
Theo báo cáo của Bộ quốc phòng Mỹ thì hiện tại Trung Quốc
có 81 chiến hạm lớn, 56 tàu ngầm, 57 chiến hạm để đổ bộ
thủy quân lục chiến và hơn 85 tàu chiến loại nhỏ. [8]

<center><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpa1/v/t35.0-12/1614624_890764750955125_1816666101296618031_o.jpg?oh=8de762604059419d223c16709c87059e&oe=548E882A&__gda__=1418629568_094d1dbc6acd37491afbfe3b9ea25232"
width="500" /><div class="textholder">Một chiến hạm lớp Luyang-III
(52C) </div></div></center>

<strong>Lực lượng Hải Quân Việt Nam</strong>


Mặc dù là một quốc gia với lãnh thổ trải dài dọc bờ
biển hơn 3000 km, lực lượng hải quân Việt Nam cho đến nay
không đóng một vai trò quan trọng trong chính sách quốc phòng.
Cho tới năm 1975 chỉ miền nam Việt Nam có một lượng hải
quân đáng kể. Về số lượng, hải quân Việt Nam Cộng Hoà
đã là lực lượng hải quân lớn nhất Đông Nam Á với khoảng
600 tàu chiến đủ loại (nhưng đa số là thuyền nhỏ đi trên
sông).


Sau khi thống nhất đất nước chiến hạm lớn nhất của hải
quân Việt Nam trong nhiều năm vẫn là chiếc Phạm Ngũ Lão (HQ
01). Đó là một hộ tống hạm đóng cho hải quân Mỹ năm 1943
và được bàn giao cho hải quân Việt Nam Cộng Hòa.


Đến năm 2011 lực lượng tác chiến chủ yếu của hải quân
Việt Nam bao gồm:


<strong>* 5 hộ tống hạm hạng nhẹ Petya III</strong> (Project 159AE)
do Liên Sô cung cấp. Những tàu chiến này được đóng trong
thập niên 70, tàu dài 85 m, tức khoảng phân nữa chiều dài
của một khu trục hạm của Trung Quốc. Với trang bị bằng
súng 76 ly, giàn phóng thủy lôi, giàn ném bom chống tàu ngầm
những tàu này có thể bị xem là lạc hậu và vô dụng khi
đương đầu với những chiến hạm của Trung Quốc.


<strong>* 4 tuần duyên hạm Molnija</strong> (Project 1241.E, biệt
hiệu của NATO là Tarantul) do Nga cung cấp. Những tàu này nhỏ
hơn loại Petya nhưng có trang bị hoả tiễn phòng không Strela-2MF
(NATO code là SA-N-5 Grail) cũng như hỏa tiễn chống chiến hạm
P-20 Rubezh (NATO code là SS-N-2 Styx).


<strong>* 2 tuần duyên hạm lớp BSP 500</strong> (Project 12418) có
trang bị hỏa tiễn Ch-35 Uran (NATO code SS-N-25 Switchblade) chống
tàu tốc độ cận âm, tầm xa 130 km, và hỏa tiễn phòng không
Igla-M (SA-N-10 Grouse). Đây là những đơn vị với hỏa lực
mạnh nhất của hải quân Việt Nam lúc bấy giờ, nhưng cũng
như hai lớp nêu trước những chiếc tàu này chỉ có thể hoạt
động biệt lập ngoài khơi được khoảng bảy ngày, một yếu
điểm lớn so với các tàu lớn như khu trục hạm hoặc hộ
tống hạm.


Ngoài ra hệ thống hỏa tiễn phòng không của các chiến hạm
này chỉ bắn được đến tầm xa là 15-20 km, đủ để tự vệ
nhưng không có khả năng để bảo vệ một khu vực.


Với lực lượng hải quân như thế thì việc mất những hòn
đảo vào tay của một cường quốc hung hăng như Trung Quốc là
một chuyện không thể tránh khỏi.


Năm 2011/ 2012 có thể được xem là một bước ngoặt, hải quân
Việt Nam được tăng cường hai chiếc hộ tống hạm tối tân
của Nga hạng Gepard (Project 11660). Đó là chiếc HQ 011 "Đinh Tiên
Hoàng" và chiếc HQ 012 "Lý Thái Tổ". Lần đầu tiên hải quân
Việt Nam có được hai chiến hạm với trang bị đầy đủ để
có thể đương đầu với những đối thủ Trung Quốc. Nhưng
tại sao hai chiến hạm tân tiến nhất của hải quân Việt Nam
lại mang tên hai vì vua này thay vì mang tên những anh hùng dân
tộc có thành tích thủy chiến lẫy lừng như Ngô Quyền, Trần
Hưng Đạo v.v. , đó là bí mật của giới lãnh đạo ở Việt
Nam. Đến năm 2016 hải quân Việt Nam sẽ được tiếp nhận
thêm hai chiếc nữa cùng lớp.


<center><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpf1/v/t34.0-12/10616218_890764730955127_6958862722783368112_n.jpg?oh=ce9160669196e0bfa7edf52ace000de6&oe=548E32FE&__gda__=1418630401_73a0b110a8a82d9369f8b6d2ede15c76"
width="500"/><div class="textholder">Hộ tống hạm HQ-011 Đinh Tiên
Hoàng </div></div></center>


Ngoài ra năm 2009 Việt Nam cũng đã đặt mua 6 chiếc tàu ngầm
hạng Project 877 của Nga (Nato-Code là Kilo) với giá trị tổng
cộng là hai tỷ USD. Đó là tàu ngầm chạy bằng diesel và
điện với khả năng hoạt động lâu dưới mặt nước. Chiếc
tàu ngầm đầu tiên mang tên HQ 182 <em>"Hà Nội" </em>được
tiếp nhận trong tháng giêng 2014 và chiếc thứ hai mang tên
<strong>"HQ 183 Thành phố Hồ Chí Minh"</strong> được bàn giao
trong tháng ba 2014 là một sự gia tăng sức mạnh đáng kể cho
hải quân Việt Nam, nhưng cũng chỉ có tính cách tượng trưng
khi so sánh với số tàu ngầm của hải quân Trung Quốc là 57
chiếc đủ loại.


Dù sao đi nữa đây cũng là một thay đổi trong chính sách quân
sự của Việt Nam. Việt Nam hiện đang thương lượng với hãng
đóng tàu Schelde Naval Shipbuilding của Hòa Lan về việc mua 4
chiếc hộ tống hạm lớp SIGMA. Nếu hợp đồng mua tàu của
Hòa Lan thành hình thì đây là lần đầu tiên sau khi chiến tranh
Việt Nam kết thúc nước ta được cung cấp vũ khí từ một
xứ Tây phương.



Nhưng nói chung, ngay trong trường hợp hải quân Việt Nam tiếp
nhận hết những chiếc tàu đã mua của Nga thì sự chênh lệch
vẫn còn rất lớn theo hướng bất lợi cho nước ta so với
Trung Quốc và các nước trong vùng. Sau đây là bản liệt kê
tổng quát về lực lượng hải quân hiện tại của các quốc
gia có biển ráp ranh giới với Trung Quốc [9]:



<center><strong><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpa1/v/t34.0-12/541572_890765234288410_5953782149091676579_n.jpg?oh=f1260de8679a6c14a911af6638cc24ab&oe=548EA989&__gda__=1418635953_ba2d92902dd3b47158d43a581cda7ae7"
width="500" /><div class="textholder"></div></div></strong></center>


Hải quân Việt Nam như thế chỉ mạnh hơn hải quân Phillipine,
nhưng năng lực kém cỏi của hải quân Phillipine là một điều
không đáng ngạc nhiên vì xứ này cho đến năm 1992 không có nhu
cầu phải tự bảo vệ vùng biển. Với căn cứ hải quân Subic
Bay khổng lồ và căn cứ không quân Clark Air Base, quân đội Mỹ
đã là nguồn bảo đảm an ninh cho Phillipine. Đến nay sau khi
quân đội Mỹ đã rút ra khỏi hai căn cứ này Mỹ vẫn để
bàn tay che chở trên nước này. Việt Nam không có một đồng
minh hùng mạnh như thế, phải tự bảo vệ nguồn sống của
mình với lực lượng hải quân chỉ mạnh hơn Phillipine một
chút. Đó là một điều thật đáng lo âu.



Từ Thế chiến thứ hai, sau khi các máy bay hải quân đã kết
thúc thời đại oai hùng của những thiết giáp hạm khổng lồ,
lực lượng không quân là một yếu tố tối quan trọng cho sự
khống chế chiến trường trên đất liền và trên biển. Các
nước láng giềng tại Đông Nam Á như Mã lai, Singapore, Thái Lan
từ lâu đã tân trang lực lượng không quân của họ bằng
những chiến đấu cơ thế hệ thứ tư như F-15, F-16 (Singapore),
F-18 của Mỹ (Mã Lai), MiG-29 của Nga (Mã Lai), và JAS-39 Gripen
của Thụy Điển (Thái Lan). Một số quốc gia ở Á Châu như
Nhật, Nam Hàn và Thái Lan, ngoài lực lượng không quân tối tân
hiện nay còn nỗ lực gầy dựng một lực lượng không quân -
hải quân. Nhật, Nam Hàn và Thái Lan đã tăng cường sức mạnh
quân đội bằng những chiếc hàng không mẫu hạm nhỏ. Thái Lan
đã có chiếc "Chakri Naruebet" từ năm 1997 với chiến đấu cơ
lên thẳng loại AV-8 Harrier. Nhật có chiếc <strong>"Izumo"</strong>
và chiếc <em>"Hyuga"</em>, và đã đặt mua chiến đấu cơ lên
thẳng loại F-35 Lightning II tối tân nhất của Mỹ để trang
bị cho tàu này trong tương lai. Nam Hàn có chiếc "Dokdo" tương
tự như chiếc Hyuga.


<center><div class="boxright"><img
src="https://fbcdn-sphotos-h-a.akamaihd.net/hphotos-ak-xpa1/v/t34.0-12/10308385_890765344288399_4816180303914899186_n.jpg?oh=b70427834a72710c9d229c7d2baffa61&oe=548EA47C&__gda__=1418609450_eadcb26b7ee6f8ca12108a39adad1c76"
width="500"/><div class="textholder">Hàng không mẫu hạm Hyuga của
Nhật </div></div></center>


Không quân Việt Nam hiện nay có khoảng 97 chiến đấu cơ bao
gồm các loại MiG-21, Su-22, Su-24 và Su-30 [9]. Trong khi 24 chiếc
Su-30 và 11 chiếc Su-24 mua từ năm 2004 có thể được xem là
cột trụ của lực lượng bảo vệ không phận, thì đa số máy
bay còn lại là MiG-21 và Su-22 lại quá lỗi thời, thuộc về
công nghệ của thập niên 70-80 và hiện nay không biết là bao
nhiêu chiếc còn sử dụng được.


Để trả lời câu hỏi lực lượng không quân Việt Nam có đủ
khả năng bảo vệ đất nước và biển đảo hay không, chỉ
cần so sánh: Đài Loan, với một diện tích chỉ bằng khoảng
1/9 của Việt Nam, lại có một lực lượng không quân gồm
khoảng 400 chiến chiến đấu cơ phản lực tối tân!



Nói chung sự phát triển tiêu cực của đất nước ta trên mọi
mặt trong 20 năm sau khi thống nhất đã làm cho năng lực quân
sự bị suy yếu trầm trọng. Quân đội Việt Nam hiện nay đang
có một nhu cầu hiện đại hóa khẩn cấp và tân trang khổng
lồ cho mọi binh chủng. Chính quyền Việt Nam đã bắt đầu chi
tiền để mua vũ khí mới, nhưng quá ít và quá chậm. Hoặc chi
nhiều tiền nhưng không mua được nhiều thiết bị vì phần
lớn số tiền đã vào túi các cán bộ cao cấp. Hậu quả là
sự bất lực của hải quân và không quân Việt Nam trước
những hành động ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông
hiện nay.



<strong>Sự thay đổi chiến lược của Mỹ</strong>



Truyền thống của Mỹ là chú tâm vào vùng Bắc Đại Tây
Dương đã đuợc chính phủ Obama xét lại. Giờ đây đại
cường quốc duy nhất trên thế giới xoay ánh mắt đến Thái
Bình Dương, nơi mà tổng thống Obama cho rằng sẽ quyết định
sự phát triển của thế kỷ 21. Ngoài sự cộng tác chặt chẻ
hơn với các đồng minh truyền thống trong vùng như Nhật và Nam
Hàn, chính phủ Mỹ cũng đã nới lỏng những giới hạn trong
quy chế cung cấp vũ khí cho các nước trong vùng. Đối với
Việt Nam năm 2011 chính phủ Mỹ đã tuyên bố là có thể bán
thiết bị quân sự "không sát thương"(non-lethal equipment).



Mới đây, sau cuộc gặp giữa Ngoại trưởng Mỹ John Kerry với
Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh hôm 2/10 Bộ Ngoại giao
Mỹ tuyên bố Washington đã gỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ
khí sát thương cho Việt Nam. Ngày 10/11 Cơ quan kiểm soát vũ khí
và an ninh quốc tế thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ đã ban hành văn
bản chính thức và có hiệu lực từ ngày ký. Các loại vũ khí
mà Mỹ sẽ bán cho Việt Nam có thể là các hệ thống vũ khí
trên không và tàu chiến.



Chính phủ Obama cũng đã lên tiếng hỗ trợ các quốc gia láng
giềng của Trung Quốc trong tranh chấp hải phận. Tháng Hai 2014,
Mỹ đã chính thức phủ nhận tính cách hợp pháp của cái
<em>"bản đồ 9 gạch"</em> khi Thứ trưởng ngoại giao Daniel
Russel tuyên bố trước ủy ban ngoại vụ của quốc hội Mỹ
rằng, sự khẳng định chủ quyền của Trung Quốc trong Biển
Đông là <em>"không phù hợp với các điều luật quốc tế"</em>
[10]. Đây là một chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử tranh
chấp Biển Đông và là một tia hy vọng cho Việt Nam trong việc
bảo vệ lãnh hải. Đương nhiên đối với giới lãnh đạo
Trung Quốc thì đây là một sự khiêu khích lớn.



Sự thay đổi chính sách ngoại giao và quân sự của Mỹ để
đáp ứng tầm quan trọng của nền kinh tế và chính trị của
vùng Đông Á đối với cường quốc này là một điều nhất
quán nhưng có thể sẽ đưa hai quốc gia Mỹ và Trung Quốc vào
những trường hợp đối đầu trực tiếp với nhau, đặc biệt
là về mặt quân sự.



Chính phủ Obama đã bắt đầu xoay trọng lực quân sự từ
Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, tỉ dụ như đóng quân
Thủy Quân Lục Chiến tại Úc và chuyển đa số các hàng không
mẫu hạm về Hạm Đội Thái Bình Dương. Năm 2013 hải quân Mỹ
còn chuyển chiếc hộ tống hạm mới nhất và tối tân nhất
là chiếc USS Freedom đến đóng thường trực ở Singapore. Đây
cũng là một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy sự quan tâm của Mỹ
đến biển Đông.



<strong>Những lựa chọn chính trị của Việt Nam</strong>


Tình huống tuy là bất lợi cho đất nước ta, nhưng cũng vẫn
còn vài hy vọng. Quan trọng nhất là Việt Nam vẫn còn đóng
chốt được trên một số đảo ở Trường Sa. Duy trì vị trí
trên những đảo còn lại và củng cố sự hiện diện trên
vùng EEZ là một yếu tố quyết định cho tương lai.



Một điều quan trọng là thái độ của Mỹ về Biển Đông.
Nước Mỹ không còn thờ ơ nữa. Hơn nữa, chính phủ Mỹ bắt
đầu lo âu vì xu hướng ngày càng bành trướng của Trung Quốc.
Những hành động của Trung Quốc đã gây xôn xao tại các
nước đồng minh của Mỹ và là một yếu tố gây ra rủi ro cho
nền kinh tế của vùng châu Á Thái Bình Dương. Chính phủ Mỹ
không bao giờ ngụ ý để Trung Quốc kiểm soát những tuyến
đường hàng hải trên Biển Đông và sẽ hoàn toàn không chấp
nhận để cho những mạch máu dẫn đến Nhật, Nam Hàn và ngay
cả miền Tây nước Mỹ chạy qua hải phận Trung Quốc. Mỹ sẽ
can thiệp nhiều hơn trong sự tranh chấp lãnh hải này, thứ
nhất là để ngăn ngừa một sự xung đột bạo lực, thứ nhì
là để giữ uy tín của các đồng minh tại châu Á.



Việt Nam phải tận dụng điều này. Mối liên hệ Mỹ Việt
đang phát triển thuận lợi. Ngoài sự bang giao về chính trị
và kinh tế, những bước đầu tiến tới bình thường hóa quan
hệ quân sự hai bên cũng đã được tiến hành. Thí dụ tiêu
biểu là những chuyến thăm cảng Việt Nam của các chiến hạm
hải quân Mỹ.



Việt Nam phải tăng cường mối quan hệ với Mỹ, lấy Mỹ làm
đối trọng để giữ cân bằng với Trung Quốc. Hơn nữa, nếu
bang giao tốt đẹp, Việt Nam có thể được cơ hội mua vũ khí
của Mỹ. Bỏ qua những hiềm khích của quá khứ để xây dựng
tương lai, đó phải là chính sách để theo đuổi. Vì quyền
lợi quốc gia, nước Mỹ đã vượt qua được nỗi đau chiến
tranh Việt Nam. Hy vọng là ở Việt Nam cũng sẽ có những nhà
lãnh đạo sáng suốt làm được chuyện đó.



Việt Nam cũng phải liên kết nhiều hơn với các nước trong
vùng, họ cũng lo ngại và bất bình với thái độ ngang ngược
của Trung Quốc. Nếu tạo đuợc một sự thoả thuận với các
nước ven Biển Đông về quyền sử dụng biển, tỉ dụ như
theo hiệp ước UNCLOS, thì sự tranh chấp sẽ biến thành một
sự phân chia trên căn bản pháp lý quốc tế. Đó không phải
là một điều bất lợi cho Việt Nam. Và nếu Việt Nam đạt
được một sự bắt tay chặt chẽ với các nước trong vùng,
đặc biệt là với Nhật và Nam Hàn, cả hai nước này đều
nằm sát biển với Trung Quốc và hiện đang có những tranh
chấp về biển với Trung Quốc, thì việc lấn ép ngang ngược
sẽ khó khăn hơn cho Bắc Kinh vì Trung Quốc có thể bị cô lập
trên chính trường ngoại giao. Đây là một chính sách thông
thường theo câu châm ngôn của Napoleon Bonaparte <em>"kẻ thù của
kẻ thù tôi là bạn tôi"</em>. Một liên minh như thế cũng có
thể tạo áp lực cho Bắc Kinh phải ngồi vào bàn tròn đàm
phán tìm giải pháp.


Mặc dù ngân sách quốc phòng có tăng gấp đôi nhưng có lẽ
cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tân trang của không quân
và hải quân cùng một lúc. Để có thể tăng năng lực bảo
vệ vùng biển một mức đáng kể trong thời gian tương đối
ngắn, Việt Nam phải ưu tiên và tập trung vào việc tăng
cường những khả năng:


<strong>*. Dành ưu thế và thống trị bầu trời</strong>: Ưu
thế trên bầu trời là một yếu tố quyết định cho việc
phòng thủ trên đất liền hoặc ngoài biển cả. Các lực
lượng bộ binh hoặc các chiến thuyền không thể nào hoạt
động tự do và ít tổn thương nếu đối phương khống chế
bầu trời. Thêm nữa, khi không quân kiểm soát được vùng
biển giữa đất liền và các đảo, việc tiếp tế cho những
đơn vị đóng trên các đảo cũng sẽ đơn giản hơn cho hải
quân.


Vì vậy lực lượng không quân phải được tăng cường. Số
máy bay MiG-21 và Su-22 phải nhanh chóng được thay thế. Việt Nam
cần có một số lượng đáng kể các loại chiến đấu cơ có
năng lực cao, đa dụng, tối tân nhưng không nhất thiết phải
là thế hệ mới nhất và đắt nhất. Như đã mô tả bên trên,
thị trường vũ khí hiện nay có nhiều lựa chọn. Máy bay khu
trục đa năng của Nga như chiếc MiG-29 cũng phù hợp như máy bay
của các xứ phương Tây như Thụy Điển (JAS-39 Gripen), Pháp
(Rafale) hoặc Mỹ (F-16, F-18). Không quân Mỹ đã loại một số
lớn chiến đấu cơ các loại F-16 A/B và F-18 C/D để thay thế
bằng những loại mới hơn. So với MiG-21 và Su-22 của Việt Nam,
và ngay với đa số máy bay của không quân Trung Quốc, thì
những máy bay này vẫn còn rất tân tiến. Nếu Việt Nam được
mua vũ khí của Mỹ thì có lẽ xác xuất được mua những
chiến đấu cơ <em>"second hand"</em> này cao hơn là mua thiết bị
mới nhất. Và đó cũng là giải pháp rẻ tiền và có tác dụng
nhanh nhất.


<strong>*. Ngăn chận xâm nhập khu vực biển</strong>: Việt Nam
phải tạo được khả năng cho mình có thể gây thiệt hại
đáng kể cho các lực lượng hải quân của đối thủ nếu xâm
nhập hải phận của ta. Khi đối thủ đã đột nhập rồi thì
ta phải có khả năng để kềm chế hoạt động của chúng.
Mục đích của khả năng này là tạo ra sự e ngại cho đối
thủ đối với những rủi ro khi vào hải phận của ta, và như
thế sẽ không xâm nhập nữa. Đó là khả năng được gọi là
<em>"Anti-Access/ Area Denial"</em>(ngăn chặn xâm nhập/ đẩy khỏi
khu vực).


Khả năng này có thể thực hiện bởi lực lượng không quân
tấn công các đơn vị của đối phương trên mặt nước, dùng
máy bay bắn hỏa tiễn chống chiến hạm, hoặc dùng hỏa tiễn
bắn từ bờ chống tàu chiến. Để ngăn chận tàu ngầm xâm
nhập hải phận, cần phải có máy bay hoặc chiến hạm có
thiết bị chống tàu ngầm. Hiện nay hải quân Việt Nam chỉ có
7 hộ tống hạm có khả năng này.


Những trình bày ở trên cho thấy nhu cầu khẩn cấp nhất là
phải tân trang lực lượng không quân, không những với chiến
đấu cơ phản lực đời mới mà ngay cả với máy bay săn tàu
ngầm.


<strong>* Tuần tiễu và kiểm soát mặt biển</strong>: Máy bay
không thể hoạt động lâu dài trên một vùng bởi thế cũng
phải cần một số lượng chiến hạm lớn có khả năng đi
tuần và hiện diện trong một thời gian dài trên mặt biển.
Chỉ với hai chiếc hộ tống hạm tối tân <em>"Đinh Tiên
Hoàng"</em> và <em>"Lý Thái Tổ"</em> Việt Nam hiện tại rất
yếu về mặt này.


Một giải pháp nhanh chóng cho vấn đề này, đồng thời phù
hợp với ngân khoản quốc phòng, chỉ có thể đạt được
bằng cách mua lại tàu chiến đang dùng hoặc được phế bỏ.
Hải quân của các cường quốc phương Tây thường bán lại
những tàu chiến không sử dụng nữa. Đặc biệt hải quân Mỹ
luôn có một hạm đội trừ bị với nhiều chiến hạm vừa
được loại ra khỏi hạm đội chủ lực. Hiện tại trong hạm
đội trừ bị này có những chiến hạm lớp <em>"Perry"</em> và
<em>"Spruance"</em> mà Mỹ cũng đã bán lại một số cho hải quân
Đài Loan. Nhưng trong tình huống hiện tại thì việc mua vũ khí
của Pháp có lẽ vẫn còn dễ dàng hơn là mua của Mỹ, và như
đã trình bày ở trên, những hộ tống hạm lớp<em> "Lafayette"
</em>có thể là một tăng cường rất thích hợp cho hải quân
Việt Nam.

<strong>Kết luận</strong>


Tình hình chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông hiện rất
nguy kịch. Việt Nam chỉ còn giữ được vài hòn đảo ở
Trường Sa. Sức ép của Trung Quốc ngày càng mạnh. Nhìn về
mặt quân sự thì Việt Nam gần như không có khả năng tự vệ
với lực lượng hải quân và không quân vô cùng yếu ớt so
với Trung Quốc. Nhưng trong những năm gần đây có những phát
triển tích cực nuôi niềm hy vọng là tình hình chưa bi đát và
tuyệt vọng lắm. Đó là những bước đầu của chính phủ
Việt Nam hiện đại hóa lực lượng hải quân và không quân.
Những bất đồng về lãnh hải giữa Trung Quốc và Nhật và Nam
Hàn sẽ khiến hai nước này trở thành những đồng minh tương
lai của ta vì phải đối phó với Trung Quốc trong cùng một
vấn đề. Và nhất là sự thay đổi chiến lược của Mỹ xoay
về vùng Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng, Mỹ
đã lên tiếng chống chính sách bành trướng của Trung Quốc và
tỏ thái độ muốn cộng tác và trợ giúp Việt Nam trên lãnh
vực quân sự.



Trong tình huống này Việt Nam phải áp dụng một chính sách
ngoại giao khôn khéo, tận dụng luật lệ quốc tế, tận dụng
mối quan tâm của Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ về an
ninh trên Biển Đông để giữ cân đối với Trung Quốc. Đồng
thời Việt Nam phải tăng nỗ lực tân trang lực lượng hải
quân và không quân của mình, trong đó phải ưu tiên tăng khả
năng dành ưu thế trên không và khả năng ngăn chận xâm nhập
vùng biển. Hai điều này cuối cùng đòi hỏi sự ưu tiên cho
lực lượng không quân. Với những biện pháp chính trị và
quân sự đó, hy vọng chúng ta vẫn có thể giữ vững vùng
biển tổ tiên để lại, và hy vọng rằng giới lãnh đạo tại
Việt Nam sẽ có sự sáng suốt để thực hiện những điều
ấy.


<strong>Nguyễn-Xuân Vĩnh</strong>

CHLB Đức, 01.11.2014

<strong>Tài liệu tham khảo</strong>

[1] CIA, The World Factbook, World Oceans, 2013

[2] U.S. Energy Information Administration: South China Sea, 2013

[3] U.S. Geological Survey: World Petroleum Ressources Assessment Project,
Assessment of Undiscovered Oil and Gas Ressources of Southeast Asia, 2010

[4] http://www.globalsecurity.org/military/world/war/south-china-sea.htm

[5] Stockholm International Peace Research Institute: SIPRI Military
Expenditure Database, Milex_data 1998-2013, 2014

[6] www.worldbank.org/en/country/vietnam

[7] U. S. Department of Defence: Annual Report to Congress – Military and
Security Developments involving the People´s Republic of China, 2011

[8] U. S. Department of Defence: Annual Report to Congress – Military and
Security Developments involving the People´s Republic of China, 2014

[9] The International Institute for Strategic Studies, IISS, The Military
Balance 2013, Chapter 6, Asia

[10] Daniel R. Russel, Testimony Before the House Committee on Foreign
Affairs Subcommittee on Asia and the Pacific, Washinton DC, February 5, 2014

[11] IHS, Jane´s Fighting Ships - 2002






***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141213/nguyen-xuan-vinh-ban-co-quan-su-chinh-tri-viet-nam-tren-bien-dong),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét