Lưu Hiểu Ba - Hôm qua làm chó không nhà, hôm nay làm chó gác cửa: Cái nhìn đúng về cơn sốt Khổng Tử hiện nay ở Trung Quốc ( 2)

Đối diện với những kẻ sùng bái thần thánh đã tẩu hỏa
nhập ma như thế này, tôi chỉ muốn hỏi các nhà nho đương
đại một câu phàm tục: " trong mắt các vị thì Khổng Tử
là thánh nhân, vậy lúc ngài đánh rắm thì có nhẹ nhàng êm
đềm, mùi vị thơm ngát không? Những kẻ sùng bái thánh nhân
đã mê muội tới mức không còn phân biệt nổi sự khác biệt
giữa những câu nói hàng ngày và những lời đại nhân đại
nghĩa nữa. Họ mang những câu nói thường ngày trong Luận ngữ
trở thành những lời dạy tinh diệu của thánh nhân. Ví dụ
trong Luận ngữ phần mở đầu :

"子曰: 学而时习之,不亦悅乎?有朋自远方来,不亦乐乎?"
"Tử viết: Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ ? Hữu
bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ ?"
"Khổng tử nói: Học thì phải luyện tập, chẳng vui lắm sao
?Có bạn hữu nơi xa đến thăm, chẳng mừng lắm sao?"

Đây là những câu trong đời sống hàng ngày, có gì gọi là
lời lẽ huyền diệu thâm ảo trong đó? Để mà lãng phí cả
hơn 2000 năm với bao nhiêu trí tuệ để tìm hiểu, giải thích.
Cho đến tận bây giờ còn đi giải thích sao? Giống như Chu Tác
Nhân trong " Luận ngữ tiểu kí" đã nói: " những cái Luận
ngữ nói đa phần là đạo lý để con người tập làm người,
hòa nhập vào xã hội…có thể giúp cho người đi sau có
được những kinh nghiệm, nhưng không bao giờ được xem đó là
những đạo lý kinh thiên nghĩa địa không bao giờ thay đổi
giáo điều cả, càng không được xem đó là tinh hoa triết học
chính trị có thể trị quốc bình thiên hạ được cả".
G.W.F. Hegel, triết gia lớn của Đức( được coi là người sáng
lập ra chủ nghĩa duy tâm Đức) cũng chỉ xem Luận ngữ như
một cuốn sách ghi chép những đạo lý thường thức mà thôi.

<div class="boxcenter400"><img
src="http://www.danluan.org/files/u5311/kt1.jpg" /><div
class="textholder">Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ
Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa</div></div>

Nếu như nói rằng vận mệnh của Khổng Tử trong thời Xuân
Thu, giống như một con chó nhà có tang không đạt được tí
quyền lực nào phải ngủ vùi thì chính Hán Vũ Đế với quyết
định độc tôn Nho gia đã biến Khổng Lão Nhị thành Khổng Phu
Tử, biến một bộ xương khô của chó nhà có tang thành con chó
giữ cửa bảo vệ hoàng quyền cho chế độ độc tài chuyên
chế phong kiến. Do Nho giáo có lợi cho sự thống trị của
giới cầm quyền, do nên địa vị của con chó giữ cửa cũng
được tính là vững chắc, ngồi một mạch hơn 2000 năm.
Được giới đọc sách tôn làm thần tượng, tung hô lên tận
mây xanh, thậm chí làm bức tượng dát vàng trong tổ miếu
hoàng gia. Đó cũng là lúc mà những trí thức và tư tưởng gia
Trung Quốc khác rơi xuống địa ngục, biến thành nô tỳ của
quyền lực. Giống như sử gia Tư Mã Thiên sau khi bị Hán Vũ
Đế hoạn đã bi thống thốt lên: " Cha ta không lập công lao
gì cũng được hoàng thượng ban cho phẫu phù và đan thư miễn
tội. Chức quan quản lí sử sách và xem thiên văn, lịch pháp,
cũng giống bọn thầy cúng tế trong cung, vốn là để hoàng
thượng vui đùa, giống như bọn nhạc sư trong cung vậy, là
nghề nghiệp mà ngay cả người thế tục cũng còn coi
thường".

Cho tới tận khi các cường quốc phương Tây mở ra cánh cửa
Trung Quốc ra, thì những chế độ và hình thái ý thức truyền
thống nhanh chóng bị vứt bỏ và suy vong. Các mạng Tân Hợi
1911 đã kết thúc thời đại phong kiến chuyên chế tập quyền,
Nho gia cũng mất đi chỗ dựa chính trị. Từ đây chó giữ cửa
lại quay lại làm chó nhà có tang. Cho dù cũng có một Viên
Thế Khải cũng định mộng tưởng xưng đế với vở kịch tôn
Khổng giáo làm đầu, nhưng cũng chỉ là vở kịch ồn ào sớm
chốc tan thành mây khói, bởi vì sự sụp đổ của chế độ
phong kiến truyền thống và hình thái ý thức cũ là không thể
tránh khỏi.

Theo tôi thì khi mất đi chỗ dựa quyền lực là một bất hạnh
cho tầng lớp Nho gia truyền thống, từ con chó giữ cửa cho
hoàng quyền lại quay về làm con chó lang thang. Tuy nhiên đối
với quá trình chuyển hóa từ người đọc sách để trở thành
tầng lớp trí thức mà nói thì đó lại là một vận may lớn
cho giới trí thức Trung Quốc. Bởi vì khi không còn được nâng
đỡ bởi quyền lực chuyên chế, cho dù là bị ép buộc hay tự
nguyện thì họ càng có cơ hội nuôi dưỡng hình thành tinh
thần phê phán độc lập. Điều đáng tiếc là số phận làm
con chó lang thang của giới trí thức Trung Quốc chỉ kéo dài có
nửa thế kỷ mà thôi. Với sự nắm quyền của chính quyền
chuyên chế cộng sản ở Trung Hoa Đại Lục, giới trí thức
đến làm chó lang thang còn không được. Đại bộ phận bị
đàn áp, truy đuổi, đánh đập thành những con chó rơi xuống
mương, một số may mắn hơn thì trở thành con chó giữ cửa
trong chính quyền Mao Trạch Đông. Ví như Quách Mạt Nhược, ông
ta thời Dân Quốc còn dám chửi cả Tưởng Giới Thạch, thế
mà từ sau 1949 thì lại thành con chi chi trong tay Mao.

<div class="boxcenter450"><img
src="http://www.danluan.org/files/u5311/kt2.jpg" /><div
class="textholder">Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ
Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa</div></div>

Khổng Tử trong lịch sử cận đại, hiện đại của Trung Quốc
có một số phận hết sức quỷ dị bất thường, trước sau
có hai phong trào " đánh đổ miếu nhà họ Khổng". Lần
đầu là phong trào Ngũ Tứ vào năm 1919, lần sau là phong trào
phê Lâm phê Khổng vào năm 1974. Sau sự kiện 4/6/1989 thì giới
trí thức Trung Quốc diễn ra phong trào tránh tiếp thu cái mới,
họ xe, hai phong trào Ngũ Tứ và phê Lâm phê Khổng đều là
phản truyền thống và chối bỏ chúng, tuy nhiên thực tế thì
hai phong trào này hoàn toàn khác nhau.

Đầu tiên, hai phong trào này có người phát động phong trào
hoàn toàn khác nhau. Cuộc vận động Ngũ Tứ là được tiến
hành từ dưới lên với sự vận động tự phát của văn hóa
xã hội, nhất là đa phần người khởi xướng là tầng lớp
trí thức mới hình thành, bọn họ tiếp thu những giá trị quan
mới, tư duy mới, cách làm mới từ phương Tây, họ dùng những
giá trị của Phương Tây để bàn thảo ngược trở lại những
nguyên nhân làm cho xã hội Trung Quốc tụt hậu xa như thế.
Bọn họ bất mãn với phái Dương Vụ cho rằng chỉ có sự
tụt hậu về kĩ thuật cũng như phái Duy Tân với quan điểm
chênh lệch về thể chế tụt hậu, họ cho rằng sự tụt hậu
này do văn hóa gây ra. Ngược lại thì phong trào phê Lâm phê
Khổng đượct tiến hành từ trên xuống nhằm khống chế các
phong trào chính trị trong chế độ độc tài chuyên quyền.
Nhất là người phát động ra nó là Mao không những dùng nó
để nắm chắc tuyệt đối quyền lực, mà còn dùng tư tưởng
Mao Trạch Đông đưa lên vị trí độc tôn thay thế tất cả
những luồng tư tưởng khác, cho dù chúng đến từ bên ngoài
hay từ chính nội tại Trung Quốc trước đây.

Thứ hai, trong hai cuộc vận động này thì tính chất phản
Khổng cũng không giống nhau. Phong trào Ngũ Tứ với tầng lớp
trí thức mới hình thành muốn đánh đổ miếu nhà họ Khổng,
phát động một cuộc cách mạng văn hóa, đối tượng không
phải là Khổng Tử thời Tiên Tần với âm thanh của trăm nhà
đua tiếng, mà là Khổng Thánh Nhân đã độc tôn Nho học kể
từ thời Hán Vũ Đế, muốn đánh đổ học thuyết độc quyền
của con chó canh cửa cho hoàng quyền. Trong khi đó Mao Trạch
Đông phát động phong trào " phê Lâm phê Khổng" lại không
hề có tí gì gọi là động cơ cải cách văn hóa gì cả, mà
hoàn toàn là một cuộc chiến tranh giành quyền lực chính trị.
Ông ta đem việc đánh đổ Khổng Tử làm công cụ tranh giành
chính trị trong nội bộ đảng. Ngoài việc triệt hạ triệt
để Lâm Bưu, còn để cảnh cáo " nhà nho lớn trong nội bộ
đảng " là Chu Ân Lai.

Nói một cách khác, hai cuộc vận động này về bản chất có
sự khác biệt nhau rõ rệt: giai cấp trí thức mới trong tay
không có tí quyền lực nào và lại quyền uy tuyệt đối trong
tay như thời Tần Thủy Hoàng; Cuộc vận động cách mạng tự
phát và bàn tay khống chế phong trào cách mạng; Cách mạng để
tìm một lối thoát cho văn hóa Trung Hoa và một phong trào cách
mạng để củng cố quyền lực tuyệt đối.
Cho nên đến nay, tôi vẫn tán thành chủ trương từ thời phong
trào vận động Ngũ Tứ " đánh đổ miếu nhà họ Khổng"
nhưng tôi cũng kiên quyết phản đối phong trào chính trị đánh
đổ Khổng Tử trong thời kỳ Văn Cách.

Trong bài văn " Khổng Phu Tử ở Trung Quốc hiện đại" Lỗ
Tấn có gọi Khổng Tử là Modern Khổng Tử, cũng là phê phán
thói sùng bái thánh nhân trong chế độ phong kiến tập quyền
truyền thống Trung Quốc. Ông viết : " Khổng Phu Tử ở Trung
Quốc là kẻ được quyền thế nâng đỡ dậy,là thánh nhân
của đám người cầm quyền hay đám đang muốn lên nắm quyền,
giữa họ và dân chúng bình thường không có một chút quan hệ
nào." Với tôi mà nói, truyền thống tôn sùng thánh nhân ở
Trung Quốc có thế nói là công trì văn hóa giả mạo lớn nhất
từ trước tới nay, được các hoàng đế từ bao đời nay cùng
đám văn nhân dưới trướng nhất tề dựng lên. Lại được
đám đế vương cùng các nhà nho phong thánh cho Khổng Tử, một
Khổng Tử đã sớm không còn là Khổng Tử thật, thậm chí còn
được xem là món hàng giả mạo kém chất lượng nhất từ
trước tới nay.

<div class="boxcenter400"><img
src="http://www.danluan.org/files/u5311/kt3.jpg" /><div
class="textholder">Áp phích cổ động về phong trào đánh đổ
Khổng Tử trong Cách mạng văn hóa</div></div>

Kỳ thật, nếu chậm rãi đọc kỹ các tác phẩm của những
triết gia thời Tiên Tần thì có thể thấy, học thuyết của
thánh nhân Khổng Tử cũng chỉ là những lời rao giảng đạo
đức bình thường nhất. So với Trang Tử thì Khổng Tử không
có được cái tính nhẹ nhàng siêu thoát, phiêu diêu cũng như
trí tưởng tượng kỳ vĩ đẹp đẽ, ngôn ngữ cũng không trôi
chảy thanh thoát, một trí tuệ triết học và văn học chưa
thoát tục. Càng không thể có chuyện nhắc nhở ý thức thanh
tỉnh để thoát khỏi bi kịch của nhân loại. So với Mạnh Tử
thì Khổng Tử thiếu mất cái khí độ của trang nam tử, khoáng
đạt mà hoành tráng, lại càng thiếu thái độ tự tôn trước
quyền lực, thiếu mất sự quan tâm, coi trọng dân chúng "
Lấy dân làm đầu, xã tắc làm thứ, quân vương xếp cuối
cùng"; So sánh với Hàn Phi Tử, Khổng Từ là kẻ hư ngụy,
xảo trá, không có được cái tính thẳng thắn, tài hoa châm
biếm sắc bén như vậy; So với Mặc Tử thì Khổng Tử không
có một hệ thống tư tưởng đạo đức nào hướng tới sự
bình đẳng của người dân và đám sỹ tốt, không có một
lối Logic cụ thể nào. Tất cả những gì Khổng Tử nói đều
thể hiện sự thiếu sót một trí tuệ lớn mà chỉ có những
lối tư duy khôn vặt, lại toàn hướng tới danh lợi công
trạng, hết sức gian xảo, lại thiếu mất tính thẩm mỹ và
sâu sắc của triết học, cũng không có cái nhân cách cao quý
và bụng dạ khoáng đạt. Ông ta đi khắp thiên hạ để mong
tìm được chức quan, sau khi thất bại không được gì bèn
trở thành giáo chủ đi rao giảng đạo đức, cái đạo người
thầy tốt, dạy người không mệ mỏi của ông ta là xuất phán
từ nhân cách con người cuồng vọng và thiển cận. Cái đạo
"thịnh thế tắc nhập, loạn thế tắc ẩn - thời thịnh
trị thì dấn thân với đời, thời loạn lạc thì lùi về quy
ẩn" chính là điển hình của chủ nghĩa cơ hội, thể hiện
sự vô trách nhiệm.

Càng đáng buồn hơn là Khổng Tử với tinh thần hết sức
giảo hoạt, vô trách nhiệm và hết sức hám danh lợi này lại
trở thành nền tảng, hình mẫu cho cả dân tộc Trung Hoa trong
mấy nghìn năm qua. Dân tộc nào thì sẽ có thánh nhân đó,
thánh nhân như thế nào thì sẽ nhào nặn ra dân tộc đó, đây
chính là căn nguyên nô tính của người Trung Quốc bắt đầu
từ đây, di sản văn hóa này từ khi sinh ra đã truyền lại cho
đám con cháu tới tận ngày nay.

Ý nghĩa của Lý Linh khi bàn về Luận ngữ, một là nhắm đến
những phần tử dân tộc chủ nghĩa cực đoan đang trỗi dậy.
Cuốn sách này tuy là một tác phẩm nghiêm cứu học thuật
nhằm trả lại chân diện cho Khổng Tử, bóc tách những điều
giả dối hư ảo mà đời đời các nhà nho đã thần thánh hóa,
đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của ông tới hiện
thực xã hội thông qua những nghi vấn trực tiếp về cơn sốt
học tập kinh sách cổ, sùng bái Khổng Tử, gián tiếp nghi ngờ
cái gọi là " sự trỗi dậy của nước lớn". Khổng Tử
trong con mắt Lý Linh chỉ là " một con chó nhà có tang không
tim được ngôi nhà tinh thần trong thế giới thực" mà thôi,
ông phê phán lũ nhà nho rởm đời đem Khổng Tử biến thành
cứu tinh của nhân loại. Giống như lời tự bạch của tác
giả: " Giương cao ngọn cờ Khổng Tử đem ra khắp thế giới
ư, tôi không quan tâm" " Khổng Tử không thể cứu rỗi
được Trung Quốc, cũng không thể cứu cả thế giới".

Thứ hai là phê phán truyền thống bợ đỡ quyền lực của
giới trí thức Trung Quốc, hiện tại đám nhà nho mới đang câu
kết với chính quyền, bọn họ muốn độc tôn Khổng học, hô
hào Nho giáo, lại không chú trọng tới ảnh hưởng của Nho
Giáo trong việc xây dựng lại hệ thống đạo đức vốn đã
tan rã từ lâu, mà chỉ chăm chăm vào bốn công năng chính trị
của Nho giáo là " tu tề trị bình( tu thân tề gia trị quốc
bình thiên hạ", để thực hiện vương đạo là hợp nhất
tôn giáo và chính trị; bọn họ muốn đẩy cho Khổng Tử cái
địa vị " Đế vương sư" hay " Quốc sư", hô hào đem Nho
giáo trở thành Quốc giáo, họ hi vọng chính phủ có những
chính sách đặc biệt để hỗ trợ nền quốc học, thực tế
thì đám nhà nho này đang muốn làm quân sư của chính quyền
đương đại, muốn được như Platon với quyền lực nằm trong
tay nhà hiền triết vĩ đại. Thế là đám nhà Nho này nhào nặn
lại Khổng Tử giống như thời Hán Vũ Đế, muốn một lần
nữa thực hiện mô hình " Vứt bỏ tư tưởng trăm nhà, độc
tôn Nho gia". Hết sức hà hơi tiếp sức cho hình thái ý thức
hóa kiểu Khổng Tử, muốn đưa một người bình thường biến
thành thần thánh kiểu truyền thống.

Lý Linh cho rằng, trong lịch sử Trung Quốc thì đám thành phần
trí thức với nhiều tư tưởng kiểu Utopia chỉ thực sự hữu
dụng khi trở thành một bộ phận độc lập với quyền lực
và trở thành lực lượng đối lập với chức năng phê phán.
Một khi những phần tử này nắm quyền lực trong tay thì lại
trở thành mối nguy hiểm của quốc gia, thậm chí là thảm
họa. Lý Linh viết: " Tầng lớp trí thức với đầu óc nhanh
nhạy, tầm mắt sáng, họ chuyên chế hơn bất cứ ai. Nếu như
trong tay họ có thanh kiếm thì những người mất mạng đầu
tiên chính là những trí thức khác." Nguyên nhân vì giới trí
thức Trung Quốc đều rất cuồng vọng, tự cho bản thân là "
có trí tuệ nhất, có đạo đức nhất, có lí tưởng nhất".
" Tự cho phép bản thân " lo trước cái lo của thiên hạ, vui
sau cái vui của thiên hạ" . " Có thể cứu cả thiên hạ
thoát khỏi cái họa binh đao thiên tai, xây dựng thiên đường
nơi hạ giới. " Nho gia đời Tống là Trương Tải có bốn câu
nói: " Vì trời đất xây dựng tấm lòng, vì dân chúng lập
mệnh, vì đức thánh nhân tiếp tục học tập, vì nghìn vạn
thế hệ sau tạo dựng thái bình." Đến tận ngày nay vẫn
còn rất nhiều phần tử trí thức Trung Quốc khắc cốt ghi tâm
điều này, cho thấy truyền thống cuồng vọng của tầng lớp
sỹ phu Trung Quốc còn thâm căn cố đế.

Từ những cơ sở này, Lý Linh muốn cảnh cáo tới tầng lớp
trí thức Trung Quốc đương đại hãy rút ra bài học từ những
giáo huấn lịch sử trên, cần phải biết giữ khoảng cách
với nhà cầm quyền, từ bỏ dã tâm " Đế vương sư", chấm
dứt việc chính trị hóa mớ kinh sách cổ điển, cần phải duy
trì tính độc lập của kiến thức, tư tưởng và học thuật,
kích thích tính sáng tạo của giới trí thức. Như trong lời
mở đầu, Lý Linh có nói: " đọc Luận ngữ thì tâm tình
phải ôn hòa, một khi đã chính trị hóa, đạo đức hóa, tôn
giáo hóa thì không còn là nó nguyên bản. Chúng ta cần tìm là
một Khổng Tử thật, nhất là trong một thế giới mà lễ giáo
băng hoại. " nếu không thì giới trí thức Trung Quốc ngày nay
sẽ giống như tầng lớp trí thức ngày xưa, không thể thoát
khỏi vận mệnh cam tâm làm con chó săn cho kẻ khác. Sự khác
biệt chỉ nằm ở chỗ khi không còn được sự sủng ái thì
lại giống như con chó nhà có tang, khi được coi trọng thì
lại giống con chó giữ cửa trúng xổ số vậy.

Tôi cho rằng, bi kịch lớn nhất mà nền văn hóa Trung Quốc
gặp phải không phải là việc Tần Thủy Hoàng đốt sách và
chôn sống các nhà nho, mà là việc Hán Vũ Đế thi hành " cấm
cửa trăm nhà đua tiếng, độc tôn Nho giáo", sau khi được
Đổng Trọng Thư sửa đổi học thuyết Nho gia, đã đưa một
hệ thống được xây dựng dựa trên bạo lực của chế độ
phong kiến chuyên chế miêu tả thành thiên đạo, " Thiên bất
biến đạo diệc bất biến – Trời không đổi thì đạo lý
cũng không thay đổi" đã trở thành lý luận căn bản nhằm
hợp pháp hóa thể chế phong kiến tập quyền chuyên chế, cung
cấp cho chế độ hoàng quyền ở nhân gian một vũ trụ luận
tồn tại vĩnh hằng, khoác một tấm áo nhân nghĩa mềm mại
lên tấm thân trần truồng của thể chế chuyên chế. Tất
nhiên đám đế vương đã nhận ra tác dụng mị dân lừa bịp
của tấm áo khoác ngoài này, dần dần xác lập nên hình thái
ý thức độc nhất của giới quan chức, trở thành " con
đường truyền thống " của đám học trò với mong ước an
thân lập mệnh, cũng chính là truyền thống làm thế nào để
biến thành " hảo nô tài" . Chính như Mao Trạch Đông đã có
câu nói định vị giới trí thức: " khi da không còn, long báo
vào đâu? - khi giới cầm quyền không còn, lũ trí thức dựa
vào cái gì đây ? "

Đối với giới trí thức Trung Quốc đương đại, việc quan
trọng đầu tiên cần làm không phải là bảo vệ một nền văn
hóa sùng bái thánh nhân truyền thống dưới sự nâng đỡ của
thể chế độc tài cầm quyền, mà là thoát khỏi vị trí phục
dịch cho quyền lực, kế thừa truyền thống mới từ phong trào
Ngũ Tứ:" tự do về tư tưởng, độc lập về nhân cách".

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141230/luu-hieu-ba-hom-qua-lam-cho-khong-nha-hom-nay-lam-cho-gac-cua-cai-nhin-dung-ve-co-0),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét