Howard W. French - Ván cờ Nguy hiểm của Trung Quốc (P2)

<strong>Ván cờ Sống Còn</strong>

Cách Philippines vài trăm dặm anh về phía bắc, Trung Quốc đang
so găng với Nhật về một nhóm đảo nhỏ, cằn cỗi và ít
người biết đến cho đến gần đây, được biết đến trong
tiếng Nhật là Senkaku. Nó nằm dưới quyền kiểm soát không
tranh chấp của Nhật kể từ khi họ sát nhập vào năm 1895 cho
đến khi Nhật bị đánh bại vào Đệ Nhị Thế Chiến. Cho dù
có vẻ như là một lãnh thổ cỏn con--chẳng ai sống ở
đó--vụ tranh chấp này chứa đựng nguy hiểm còn hơn cả
những vụ chạm trán lẻ tẻ ở phía nam. Đây là nơi mà tương
lai của Đông Á có thể được định đoạt. Khu vực chưa bao
giờ có sự chung sống hòa bình giữa hai cường quốc Á Châu,
và khi mà Trung Quốc theo đuổi vị thế cường quốc toàn cầu
còn Nhật Bản đã cho thấy rõ ý định là sẽ kiềm chế Trung
Quốc. Quần đảo Nhật Bản dài khiến Trung Quốc bị hạn chế
hoạt động ở vùng biển duyên hải. Việc kiểm soát quần
đảo Senkaku (và có thể kể cả quần đảo Ryukyu ở phía đông
nam của Senkaku) được Bắc Kinh xem là chìa khóa cho việc tiếp
cận trực tiếp không hạn chế ra đại dương--và quan trọng
là một bước ngoặt để tiến đến chiếm lấy Đài Loan, một
mục tiêu chủ yếu của Trung Quốc trong hàng chục năm.

Trung Quốc đã không tranh cãi chủ quyền của Nhật Bản trên
quần đảo Senkaku, mà họ gọi là quần đảo Điếu Ngư, cho
đến tận năm 1971 khi Hoa Kỳ từ bỏ vết tích cuối cùng của
việc chiếm đóng quần đảo Nhật Bản bằng việc giao lại
quyền tài phán cho Tokyo. Trông có vẻ tình cờ nhưng không ngẫu
nhiên chút nào, chỉ hai năm trước khi Trung Quốc bắt đầu
tuyên bố chủ quyền vùng này, LHQ công bố kết quả của một
cuộc khảo sát địa chất khu vực kết luận rằng <em>"thềm
lục địa giữa Đài Loan và Nhật Bản có thể là một trong
những mỏ dầu có trữ lượng phong phú nhất thế giới."</em>

Vào năm 1978, sau nhiều năm lác đác lời qua tiếng lại, lãnh
đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo Nhật Bản
là hai nước nên hoãn lại vấn đề chủ quyền của quần
đảo cho <em>"thế hệ sau"</em>. Căng thẳng lại nổi lên rõ
rệt vào năm 2010, 13 năm sau khi Đặng mất, khi một tàu đánh
cá của Trung Quốc húc một tàu tuần duyên của Nhật Bản ở
vùng biển gần đó. Nhật Bản bắt giữ thuyền trưởng đã
làm dấy động làn sóng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc.

Kể từ đó, Trung Quốc thường xuyên đưa tàu cảnh sát biển
vào vùng biển 12 hải lý quanh quần đảo Senkaku để thẳng
thừng thách thức nhà cầm quyền Nhật Bản. Hết lúc này đến
lúc khác, quân đội hai nước trực tiếp đối đầu. Vào tháng
12 năm 2012, ba tháng sau khi chính quyền Nhật Bản quốc hữu hóa
một số đảo Senkaku (lãnh thổ được sở hữu bởi một công
dân Nhật), một máy bay trinh sát của Trung Quốc xâm nhập không
phận phía trên quần đảo buộc Nhật Bản cất cánh chiến
đấu cơ từ Okinawa gần đó. Một tháng sau đó, trong một
động thái mà các chuyên gia hải quân nói rằng có thể dễ
dàng dẫn đến nổ súng, một tàu khu trục của Trung Quốc đã
chốt radar điều khiển bắn lên diệt lôi hạm <em>Yudachi</em>
của Nhật Bản [1]. Vào tháng Sáu này, máy bay quân sự của hai
quốc gia được tường thuật là đã bay sát nhau đến 30 mét
trên vùng trời của vùng biển tranh chấp với những pha bay nguy
hiểm mà cả hai bên buộc tội lẫn nhau. Khi được hỏi trong
một cuộc thăm dò được tiến hành mùa hè năm nay, rằng tranh
chấp lãnh thổ nên được giải quyết ra sao, 64 phần trăm
người Trung Quốc trả lời rằng Trung Quốc nên <em>"củng cố
kiểm soát có hiệu quả"</em> lãnh thổ. Quá nửa nói rằng họ
dự đoán một cuộc xung đột quân sự với Nhật Bản sẽ xảy
ra trong tương lai, dẫu vậy chỉ có 11 phần trăm dự đoán nó
sẽ xảy ra trong vài năm tới.

Vào tháng 12 năm 2012, Nhật Bản đã trao quyền cho một thủ
tướng dân tộc chủ nghĩa nhất trong thế hệ vừa qua. Shinzo
Abe đã gia tăng chi tiêu quốc phòng lần đầu tiên trong nhiều
năm và hứa hẹn sửa đổi hiến pháp, mà nó nghiêm cấm sử
dụng vũ lực trong tranh chấp, để thành lập một quân đội
quốc gia một cách hợp pháp. Abe và những người đồng sự
đã cho thấy một thiên hướng thổi bùng những bức xúc của
Trung Quốc bằng cách tỏ vẻ ra coi nhẹ những tội ác của
Nhật Bản trong Đệ Nhị Thế Chiến như vụ cưỡng bức nô
lệ tình dục phụ nữ người Hoa bởi quân đội Nhật Bản. Abe
có một mối liên hệ cá nhân mạnh mẽ đến lịch sử đen
tối này, điều mà ông ta chưa từng bao giờ giữ thái độ xa
cách với nó: ông ngoại Nobusuke Kishi của ông là quan chức cao
cấp của vùng Mãn Châu Lý dưới sự chiếm đóng của Nhật.
Tháng 12 vừa qua, ông ta là thủ tướng Nhật Bản đầu tiên
viếng thăm Đền Yasukuni ở Tokyo nơi mà những tội đồ chiến
tranh được thờ. Mối liên hệ không ăn năn của Abe với thời
kỳ này làm cho ngoại giao ở mức cao nhất với Trung Quốc là
bất khả.

Abe đã công khai nói đến đương đầu với Trung Quốc. Trong
một những biện pháp quốc phòng quan trọng đầu tiên của ông
là phê chuẩn việc thành lập một lực lượng mô phỏng theo
Thủy quân Lục chiến của Hoa Kỳ. Tokyo cũng đã tham dự vào
cuộc chạy đua đóng hàng không mẫu hạm bằng việc đóng và
vừa mới cho vào biên chế hàng không mẫu hạm hạng nhẹ,
chiếc <em>Izumo</em>, mà chỉ mang máy bay trực thăng vào lúc này.
Nhật Bản cũng đã tuyên bố các kế hoạch để tăng cường
hạm đội tàu ngầm cực kỳ cao cấp từ 16 chiếc lên 22
chiếc. Năm ngoái Washington tỏ vẻ không bằng lòng khi Nhật
Bản tuyên bố rằng họ sẽ bắn hạ bất cứ máy bay không
người lái nào vi phạm không phận Nhật Bản.

Trong một chuyến thăm Nhật Bản gần đây, tôi đã đến một
trong những nơi mà quốc gia này đang mở rộng hiện diện quân
đội của họ, Yonaguni. Đó là hòn ngọc bình yên của một hòn
đảo chỉ có hai con đường chính nằm ở phía cực nam của
chuỗi quần đảo Ryukyu. Nơi đó là một trong những điểm
ngoài vùng quần đảo Senkaku, trên cao điểm, dưới một hải
đăng cũ kỹ mà giống ngựa lùn địa phương gặm cỏ.
<em>"Hầu hết người dân ở đây không muốn có một căn cứ
trên đảo,"</em> một cư dân cho tôi hay. <em>"Thế nhưng để
triển khai nhanh chóng, chẳng có chỗ nào tốt hơn."</em>

Lý do căn bản của Nhật Bản trong việc thiết lập tiền
đồn, cũng như những nỗ lực củng cố lực lượng gần đây,
là sớm muộn Trung Quốc sẽ chiếm lấy Senkaku bằng vũ lực.
Những lợi ích khác là việc kiểm soát những hòn đảo sẽ
đem lại cho Trung Quốc một căn cứ hậu phương để tấn công
những tàu chiến của Hoa Kỳ ra khơi từ những căn cứ ở
Okinawa ngăn chúng không đến được Trung Quốc hoặc can thiệp
vào xung đột về quyền kiểm soát Đài Loan gần đó.

Đầu năm nay, phát biểu tại một hội nghị ở San Diego, chỉ
huy trưởng của ban tình báo và hành quân của Hạm đội Thái
Bình Dương Hoa Kỳ, hạm trưởng James Fanell, cho rằng Bắc Kinh
đã chuẩn bị lực lượng của họ <em>"để có thể tiến hành
một cuộc chiến nhanh gọn nhằm tiêu diệt các lực lượng
Nhật Bản tại biển Hoa Đông, tiếp theo là chiếm quần đảo
Senkaku hoặc thậm chí quần đảo Ryukyu ở phía nam."</em> Ngũ
giác Đài sau đó không thừa nhận những bình luận của Fanell
mà một số chuyên gia cho là chỉ gieo hoang mang. Cho dù ý định
thật của Trung Quốc là gì đi nữa, những lời bình luận của
Fanell chuyển tải một linh tính báo trước của Hoa Kỳ về
những căng thẳng dâng cao giữa Nhật Bản và Trung Quốc.

Nếu chiến tranh nổ ra vào lúc này, nhiều nhà phân tích tin
rằng Nhật Bản sẽ thắng thế. Bên cạnh hệ thống vũ khí
hàng đỉnh của của Hoa Kỳ, các lực lượng Nhật Bản còn
hưởng lợi từ nhiều năm huấn luyện hỗn hợp cùng với các
đối tác Hoa Kỳ, và có lẽ thiện chiến hơn so với Hải quân
Quân Giải phóng quân Trung Quốc.

Vì thế, cũng như các chuyên gia khác, các chuyên gia phân tích
nổi tiếng của Nhật Bản nhận thấy ít có khả năng Trung
Quốc sẽ muốn có một cuộc chạm súng trực diện lớn trong
nay mai. <em>"Họ biết rằng chúng tôi sẽ đánh bại họ,"</em>
một chuyên gia hàng đầu về an ninh nói với tôi một cách
thẳng thừng. Thế nhưng ông ta và những chuyên gia khác nói
chung tin là Trung Quốc sẽ tiếp tục khiêu khích những vụ nằm
trong gang tấc và có lẽ kể cả những vụ chạm trán nhỏ với
quân đội Nhật Bản--ví dụ như quấy rối máy bay của Nhật,
húc tàu tuần duyên của Nhật. Mục đích, theo họ nói, là khó
thấy và chủ yếu là mục tiêu lâu dài. Nó bao gồm dư luận
quần chúng ở Nhật Bản và ở Hoa Kỳ.

Một khi Nhật Bản và Trung Quốc tiến hành những phi vụ và
cơ động nguy hiểm trên và trong vùng biển động giữa họ,
xác xuất nổ súng tăng lên và đi kèm là nguy cơ thương vong.
Bất cứ bên nào trông có vẻ chịu trách nhiệm gây ra đụng
độ sẽ chịu hình ảnh quốc tế của mình bị hoen ố thảm
hại và sẽ đối diện với áp lực to lớn để nhượng bộ.
Nếu Tokyo bị xem là kẻ gây hấn, hoặc chỉ là bất cẩn, các
chuyên gia Nhật Bản sợ rằng sẽ có một phản ứng dữ dội
từ cả trong lẫn ngoài nước. Dư luận ở Nhật Bản, với
chủ nghĩa yêu chuộng hòa bình phổ biến sâu đậm, có thể
quay ra chống lại Abe hoặc chính phủ tương lai một khi dân
chúng hoảng loạn khi cho rằng những nhà lãnh đạo của họ
đang đưa họ đến chiến tranh với gã láng giềng khổng lồ.

Thậm chí nguy hại hơn cả, trong con mắt của các chuyên gia
phân tích Nhật Bản, sẽ là phản ứng của công chúng Hoa Kỳ.
Kể từ năm 1996, Bộ ngoại giao của Nhật Bản đã thăm dò
trực tiếp về sự ủng hộ của người Hoa Kỳ về ủng hộ
của họ dành cho những cam kết phòng thủ của Hoa Kỳ đối
với Nhật Bản. Năm ngoái, hai phần ba người được hỏi ủng
hộ thế nhưng đó là mức độ ủng hộ thấp nhất kể từ khi
cuộc thăm dò khởi đầu. Khi được hỏi quốc gia nào ở Châu
Á là <em>"đối tác quan trọng nhất của Hoa Kỳ,"</em> nhiều
người Hoa Kỳ nói rằng Trung Quốc hơn là Nhật Bản. Đặc
biệt khi mà vào thời điểm Hoa Kỳ mệt mỏi với chiến tranh,
một cuộc chạm trán bất ngờ giữa Nhật Bản và Trung Quốc
vì cái mà nó trông từ xa như một đống những mỏm đá vô
nghĩa sẽ gợi một câu hỏi đáng lo: Liệu Hoa Kỳ có sẵn sàng
để đánh Trung Quốc, bảo vệ Nhật Bản vì một vấn đề
lãnh thổ mập mờ.

<em>"Tai nạn sẽ xảy ra,"</em> Narushige Michishita, giám đốc của
chương trình an ninh và nghiên cứu quốc tế tại Viện Bồi
dưỡng Quốc gia về Nghiên cứu Chính sách của Nhật Bản
thẳng thừng nói với tôi ở Tokyo. <em>"Chúng tôi phải hoạch
định chính sách của chúng tôi dựa trên giả định"</em> rằng
là có những lúc trò đánh bài tháu cáy rút cục sẽ cho kết
quả xấu, dẫn đến binh sĩ thiệt mạng. <em>"Trọng tâm phải
là chuyện giảm thiểu thiệt hại."</em> Nhiều phân tích viên
tin rằng Trung Quốc đang cố gắng trêu tức Nhật Bản-- bằng
những khiêu khích bền bỉ và có cân nhắc cẩn thận--để nó
phản ứng quá đà và sẽ tiếp tục làm như vậy.

Nếu Hoa Kỳ dao động trong cam kết của họ đối với Tokyo,
hoặc lẫn tránh hoàn toàn, Bắc Kinh chắc hẳn đã tìm được
một phương pháp đáng kể để đạt được mục tiêu lớn
nhất từ lâu: làm suy yếu liên minh Mỹ-Nhật. Washington sẽ
mất uy tín khắp vùng, và hết nước này sang nước khác, có
lẽ kể cả Nhật Bản, sẽ bắt đầu có những toan tính mới
nhằm để dàn xếp với Trung Quốc.

Một lần nữa, phải công nhận là có đầy những cơ hội cho
tính toán sai lầm, và có thể tăng nhanh trong những năm sắp
đến. Giả như Trung Quốc thành công trong việc băt nạt một
trong đối thủ ở Biển Đông, lấy ví dụ--Philippines chẳng
hạn--thì giới lãnh đạo quân sự và chính trị có thể cảm
thấy bạo gan. Và cho dù cùng là một kịch bản ấy, trách
nhiệm của Washington phải ủng hộ Nhật Bản sẽ là dữ dội
khác thường, nếu không thì toàn bộ cấu trúc đồng minh ở Á
Châu đổ vỡ. Washington sẽ có nhiều lựa chọn trong bất cứ
sự chạm trán nào giữa Trung Quốc và Nhật Bản, kể từ giao
chiến trực tiếp cho đến yểm trợ hết mình bằng thông tin
tình báo trực tiếp vệ tinh và radar, yểm trợ hậu cần, và
kể cả đánh chặn tên lửa của Trung Quốc. Một danh sách đa
dạng như vậy có thể cho phép Hoa Kỳ xác định phản ứng
quân sự của họ đối với bất kỳ chiến sự nào, phối hợp
với ngoại giao nhần nhuyễn, và để làm êm thấm xung đột
trong khi vẫn giữ vững vị thế của mình. Lịch sử cho thấy
nghiêm túc mà nói thì những động thái đòi hỏi khắt khe cũng
có thể đi theo chiều hướng xấu.

<strong>Trói buộc người khổng lồ</strong>

Tính huênh hoang của Trung Quốc khiến tất cả các quốc gia
xung quanh đều phải để ý. Nhiều nước đã bắt đầu thiết
lập những mối quan hệ đối tác ít ai nghĩ đến với một
mục đích chung: kiềm chế Bắc Kinh.

Đề cập đến một trong những mối quan hệ mới này, một
nhà ngoại giao Việt Nam ở Đông Nam Á nói với tôi một cách
khôi hài là Ấn Độ <em>"sẵn sàng đánh Trung Quốc đến
người Việt Nam cuối cùng,"</em> nghĩa là Ấn Độ sẽ dùng
Việt Nam để chiến đấu thay họ trong bất cứ cuộc xung đột
nào với Trung Quốc. Dehli đã đồng ý sẽ huấn luyện thủy
thủ Việt Nam về chiến tranh tàu ngầm và đã hứa hẹn một
khoản tín dụng trị giá 100 triệu USD cho Hà Nội để mua
thiết bị quân sự bao gồm các tàu tuần tra hàng hải. Đó
chẳng là gì so với tiêu chuẩn về chi tiêu của khu vực nhưng
nó có lẽ chỉ là bước đầu.

Đây có lẽ là mục tiêu nổi bật nhất của sự xoay trục
của Hoa Kỳ: làm dày đặc mạng lưới giữa các láng giềng lo
âu của Trung Quốc. Họ có một lợi ích chung nhằm giữ Trung
Quốc khỏi việc dùng vũ lực để lật úp trật tự hiện
thời. Cho lúc này Nhật Bản thừa nhận là không có nước nào
có triển vọng thắng thế trong chuyện đối đầu giữa Trung
Quốc và một số là người tí hon Lilliputian thẳng thắn mà
nói. Phối hợp nhịp nhàng, dẫu vậy, ngay cả không phải là
đồng minh công khai, họ có thể trói buộc người khổng lồ
và chế ngự hắn vào các quy tắc quốc tế mà đôi bên chấp
nhận.

Dầu thế nào đi nữa, như ví dụ Ấn-Việt cho thấy một cách
sống động, các láng giềng của Trung Quốc không hẳn đợi Hoa
Kỳ vẽ đường chỉ lối. Nhật Bản đang đóng góp nhiệt tình
cho việc tăng cường phòng thủ hàng hải ở cả Việt Nam lẫn
Philippines. Ngay cả Nam Triều Tiên, thường là một trong những
quốc gia say mê Trung Quốc nhất, giờ đây đang bán quân cụ cho
Philippines.

Cuối cùng, hoạt động cân bằng trong khu vực như thế này có
thể mang đến một triển vọng tốt nhất để tránh một cuộc
đối đầu trực tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ ở tây Thái
Bình Dương--và có lẽ là một triển vọng tốt nhất hơn cả.
Trong quyển sách vào năm 2012, <em>Sự Trỗi Dậy của Trung Quốc
đối với Chiến Lược Luận,</em> Edward N. Luttwak viết về cách
tiếp cận giống như mạng lưới này để quân bình là một
trong những chuyện phản ánh căn bản nhất trong lĩnh vực
chiến lược. Sử dụng sự tương đồng của thời Đệ Nhất
Thế Chiến để mô tả những gì đang diễn ra ở Thái Bình
Dương, ông ta nói rằng <em>"Hành động của Đức về việc
đóng tàu chiến đại dương đã đem lại, không chỉ là việc
chạy đua vũ trang của những cường quốc đại dương của
một thế giới nếu không thì y nguyên, mà còn là một sự
chuyển biến chiến lược toàn cầu để bảo đảm cuối cùng
thì sức mạnh hải quân của Đức vô hiệu và sau đó là thua
trận."</em>

Trung Quốc càng nhận thấy một phản ứng phối hợp của
nhiều nước đối với sự tăng cường lực lượng và đột
nhập hải quân thì càng có khả năng Bắc Kinh sẽ chuyển
hướng sang ngoại giao, và ngừng tìm kiếm ưu thế áp đảo
trong khu vực. Và dẫu vậy, tất nhiên, đó chẳng phải là
điều có thể duy nhất theo cách suy diễn giải thích rõ ràng
của Luttwak. Câu hỏi lớn đặt ra ngày nay là liệu giới lập
chính sách của Trung Quốc dưới trướng của Tập Cận Bình,
một lãnh đạo quyết đoán hiếm thấy, đã vượt giới hạn
tương tự như giới lập chính sách Đức đã làm cách đây
một thế kỷ, hoặc có thể làm điều đó trong một ngày sắp
đến.

<strong>Nguồn gốc những sự hung hăng của Trung Quốc</strong>

Trong suốt nhiều thập niên, bắt đầu với Đặng Tiểu Bình,
khẩu hiệu địa chiến lược của Trung Quốc là <em>ẩn mình
chờ thời.</em> Tôn chỉ của Đặng Tiểu Bình đã không bao
giờ bị từ bỏ trắng trợn, thế nhưng hành động của Trung
Quốc kể từ giữa năm 2013 cho thấy rõ ràng rằng cách tiếp
cận của ông đã bị bỏ qua một bên. Giới diều hâu trong
quân đội Trung Quốc không ngừng kêu gọi phải quyết đoán
hơn nữa, thậm chí đến mức hiếu chiến. Một trong những ví
dụ gần đây, Lưu Á Châu, một chính trị viên của Đại Học
Quốc Phòng Giải Phóng Quân, nghe như thể một chiến lược gia
Trung Quốc thời cổ đại khi ông phát biểu trong một cuộc
phỏng vấn với tạp chí: <em>"Một quân đội mà không đạt
được chiến thắng quân sự thì chẳng có nghĩa lý gì. Những
biên ải mà quân đội chúng ta giành được chiến thắng thì
hòa bình và ổn định hơn, thế nhưng những nơi mà chúng ta
quá nhút nhát thì có nhiều tranh chấp hơn."</em>

Dẫu cho Lưu đã bị nhiều người cho là không đại diện cho
tiếng nói chung, bản thân Tập Cận Bình đã công khai cổ vũ
phát triển vũ khí và khuyến khích quân đội sẵn sàng. Trong
một chuyến đi đầu tiên của ông ngoài Bắc Kinh sau khi nhậm
chức vào tháng 11 năm 2012, ông ghé thăm binh sĩ ở Quân Khu
Quảng Châu, được tường thuật là đã phát biểu, <em>"Tất
chiến tất thắng là linh hồn của một quân đội mạnh."</em>
Vào tháng Tám năm 2013, ông kinh lý hàng không mẫu hạm <em>Liêu
Ninh</em> trước khi nó bắt đầu hành quân và đã cổ vũ hạm
trưởng để nâng cao sẵn sàng chiến đấu. Trong một bài diễn
văn vào mùa thu năm ngoái ở Moscow, Thời Ân Hoằng, một sử gia
về ngoại giao nổi tiếng của Trung Quốc, tóm tắt sự thay
đổi về chính sách dưới thời của Tập, lưu ý việc sử
dụng thường xuyên khẩu hiệu của nhà lãnh đạo mới <em>"sự
hồi sinh vĩ đại của quốc gia Trung Quốc"</em>; một sự giảm
sút đáng kể của câu nói một thời <em>phát triển hòa
bình</em>; và hoàn toàn bỏ đi ý của Đặng về chuyện ẩn
mình.

Mục tiêu bá chủ khu vực của Trung Quốc không khó hiểu một
khi những khả năng kinh tế và quân sự bắt kịp với tham
vọng của họ, chúng ta có thể chỉ bước vào những giai
đoạn đầu của một thời kỳ dài và nguy hiểm mà Trung Quốc
tìm cách tự khẳng định chính họ ngày càng mạnh mẽ hơn.
John J. Mearsheimer, một người duy thực và là nhà khoa học về
chính trị, đã từng tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ không trỗi
dậy hòa bình ít ra từ quyển sách của ông kể từ năm 2001,
<em>Bi Kịch của Chính trị giữa các Cường quốc.</em> Trong
một cuộc tranh luận vào mùa thu năm ngoái với Diêm Học Thông,
một học giả về quan hệ quốc tế, Mearsheimer đã nói:
<em>"Liệu chúng ta có nên hy vọng Trung Quốc sẽ có Học thuyết
Monroe của chính họ? Dĩ nhiên rồi."</em> Thế nhưng điều đó
không có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ thích nghi với nó. Mearsheimer chỉ
ra rằng Trung Quốc đang phạm phải sai lầm lớn trong việc
chọn thời điểm của những cú huých gần đây, đụng vào Hoa
Kỳ một cách hấp tấp thay vì đợi một hay hai thế kỷ nữa
khi mà sức mạnh tương đối của họ có thể mạnh hơn nhiều
và khả năng của một chuyện đã rồi cao hơn.

Nhiều nhà phân tích ráp nối thay đổi gần đây về quan
điểm của nước này với dâng trào về sự tự tin, thậm chí
là hân hoan chiến thắng, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế
toàn cầu vào năm 2008. Điều mà đã giáng cho những nền kinh
tế tây phương một cú chí tử nhưng Trung Quốc thì tương
đối không sút mẻ gì. Những chuyện tiếp theo sau, ví như
giới hạn giả tạo mà Tòa Bạch Ốc vạch ra về việc dùng vũ
khí hóa học ở Syria và sự bất lực của Washington nhằm ngăn
cản Nga khỏi sát nhập Crimea, có thể đã góp phần khiến Bắc
Kinh cảm nhận rằng sinh lực của Hoa Kỳ ở hải ngoại đang
giảm sút.

Và dẫu vậy, thật nghịch lý thay, hành xử mới đây của
Trung Quốc trông như là một phản ảnh của không chỉ là sự
trỗi dậy về năng lực hay tự tin mà còn là sự trỗi dậy
của bất an trong giới lãnh đạo của Đảng Cộng Sản. Sự
chính danh của họ ở quốc gia thời hậu lý tưởng đã luôn
dựa trên trụ cột song sinh của phát triển kinh tế và chủ
nghĩa dân tộc. Sự bùng nổ của truyền thông xã hội ở Trung
Quốc đã khuếch đại tiếng nói của những người dân túy
cực đoan mà luôn yêu cầu quốc gia của họ thẳng thắn
đương đầu và không ngại sử dụng bạo lực. Điều này
dường như đã gieo rắng nỗi sợ hãi trông nhu nhược vào
giới lãnh đạo. Khi được hỏi rằng liệu một nhà lãnh đạo
Trung Quốc có thể tuyên bố công khai thỏa hiệp với những
láng giềng của họ, Ngô Kiến Dân, một cựu phát ngôn viên
ngoại giao và là cựu hiệu trưởng của Đại học Ngoại giao
Trung Quốc, nói với <em>Asahi Shimbun</em>, một nhật báo Nhật
Bản, <em>"Anh sẽ là một 'kẻ phản bội.'"</em>

Trong khi đó, lãnh vực sản xuất của Trung Quốc, đã từ lâu
là đầu tàu của phát triển, đã sa thải nhân công trong nhiều
năm qua khi mà tiền lương dần tăng và công nghệ rút ngắn
công việc có mặt khắp nơi. Nền kinh tế và công việc làm
tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng nhưng sự phát triển đó là
do bởi chi tiêu chưa từng thấy của các tập đoàn và nợ
công. Theo một số phép đo gần đây, năng suất phát triển
đang giảm. Có thể nói rằng các láng giềng của Trung Quốc có
nhiều lý do để lo ngại về khả năng của một sụt giảm kinh
tế đột ngột ở Trung Quốc, điều mà nhiều chuyên gia đã
dự báo từ lâu, cũng như họ tiếp tục chú trọng về tăng
trưởng nhanh: nếu một trụ cột của chính danh mà yếu đi thì
cái còn lại phải chịu gánh nặng nhiều hơn.

Giới lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc tiếp tục, cho một
mức độ nào đó, là một bí ẩn, và chẳng ai có thể quả
quyết rằng tại sao quốc gia đột nhiên khẳng định quyền
lợi của họ quyết liệt ở Đông Á. Tuy vậy có thể bào
chữa cho việc này, rằng đây là khoảnh khắc của Hoa Kỳ cho
cơ hội chín muồi đối diện với Trung Quốc, một cơ hội
để lèo lái nó vào lề lối cùng tồn tại ít gây hấn hơn mà
trong đó những quy tắc quốc tế sẽ được chấp thuận, thay
vì được tái tạo dưới trướng của Bắc Kinh.

Dẫu cho Trung Quốc sẽ chắc là nền kinh tế lớn nhất thế
giới, một số chỉ dấu cho thấy là quốc gia có thể đã
bước vào thời kỳ của tiềm lực tối đa tương đối so với
phần còn lại của thế giới--rằng là những báo động đỏ
đã xuất hiện có thể báo trước một sự thay đổi về quỹ
đạo kinh tế hơn chỉ là một cú mắc nghẹn. Bức tranh dân
số Trung Quốc cho thấy một sự thiếu hứa hẹn về một lực
lượng lao động bắt đầu suy giảm rõ rệt, và một xã hội
mà nó có thể già trước khi nó giàu thật sự, tính theo đầu
người mà nói. Ngay cả ở Trung Quốc, chỉ có vài kinh tế gia
tin rằng quốc gia có thể duy trì mọi thứ với tỷ lệ phát
triển như trong vài thập niên vừa qua, và một số tin rằng nó
đã bước vào bẫy thu nhập trung bình. Những quốc gia đang
phát triển từng có kinh tế vượt bậc khó mà tiếp tục phát
triển để đi vào hàng ngũ các quốc gia công nghiệp với sáng
kiến và dịch vụ cao cấp thay thế sản xuất đơn giản. Như
nhà khoa học chính trị David Shambaugh đã chỉ ra gần đây
<em>"Không có lấy một công ty Trung Quốc đứng trong 100 thương
hiệu hàng đầu thế giới theo xếp hạng của tạp chí
BusinessWeek."</em>

Nếu Washington có thể tiếp tục tìm ra những phương cách để
yểm trợ đồng minh của mình, đặc biệt là những nền dân
chủ ở Đông Á, và nếu Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể tránh
những tính toán sai lầm trọng đại trong những năm sắp đến
thì sự quả quyết của Trung Quốc vào lúc này có thể dọn
đường cho một sự tự tin sáng sủa và thực tế hơn ở Bắc
Kinh. Nếu Trung Quốc có thể dần xoay chuyển một cách thành
công, và nếu chính phủ có thể từ từ tìm ra những nguồn
lực cho chính danh--giả dụ bằng một sự minh bạch hơn, những
phương pháp chống tham nhũng nghiêm ngặt hơn, kiểm soát ô
nhiễm, và những cải thiện mức sống bền vững cho dân
chúng--giới hoạch định chính sách có thể nhận ra rằng
chẳng có lợi gì trong việc đối đầu các láng giềng của
họ.

Một chiều tháng Giêng, tôi ghé thăm căn cứ hải quân của
Philippines ở ngoại ô của Manila để được thuyết trình bởi
một cựu đô đốc và là cố vấn an ninh quốc gia. Ông ta cho
tôi hay rằng chi tiêu quân sự của nước ông có lẽ sẽ tăng
gấp đôi trong nay mai với một phần lớn của sự gia tăng cho
hải quân và không quân. Một vài phút sau, ông đặt một câu
hỏi cho tôi với vẻ kinh ngạc: <em>"Anh có nghĩ rằng đó là
điều tự nhiên cho một siêu cường hành xử như Trung
Quốc?"</em>

Khi cuộc họp dài hơi đến hồi tan, một số sĩ quan tham mưu
được khuyến khích phát biểu lần đầu tiên, và một hạm
trưởng quay sang tôi và hỏi tôi nghĩ gì về một lịch trình
có thể cho một cuộc xung đột trong tương lai với Trung Quốc.
Một chốc sau, anh ta ngắt lời tôi trong lúc tôi tuôn tràng một
câu trả lời đầy rào đón và nói <em>"Tôi hy vọng là nó
không xảy ra trong đời tôi."</em>

<strong> **Căng thẳng dâng cao: Nhật Bản và Trung Quốc **</strong>

<em>Một danh sách không đầy đủ của những khiêu khích gần
đây</em>

(1) Tháng 12 năm 2012: Một máy bay trinh sát Trung Quốc xâm nhập
vào không phận trên quần đảo Senkaku; Nhật Bản xuất kích
máy bay phản lực chiến đấu để nghênh cản.

(2) Tháng Giêng năm 2013: Một khu trục hạm Trung Quốc chốt
radar điều khiển bắn lên diệt lôi hạm Yudachi.

(3) Tháng Hai năm 2013: Ba tàu hải giám Trung Quốc xâm nhập vùng
biển quanh Senkaku.

(4) Tháng Hai năm 2013: máy bay Trung Quốc bị nghênh cản bởi
máy bay phản lực của Nhật Bản trong không phận của vùng
tranh chấp.

(5) Tháng Bảy năm 2013: chiến hạm Trung Quốc hải hành vòng
quanh Nhật Bản.

(6) Tháng Bảy năm 2013: Trung Quốc và Nga tiến hành một cuộc
tập trận hải quân hỗn hợp ở Biển Nhật Bản.

(7) Tháng 11 năm 2013: Bắc Kinh tuyên bố một <em>"vùng nhận
dạng phòng không"</em> trên hầu hết khắp vùng biển giữa Trung
Quốc và Nhật Bản.

(8) Tháng Sáu năm 2014: máy bay quân sự Trung Quốc bay trong vòng
30 mét của máy bay quân sự Nhật Bản trong không phận vùng
tranh chấp.

<strong>Nguồn:</strong> http://theatln.tc/ZWLpdl

<strong>Cước chú:</strong>

[0]: Bài viết trên vietnamnet.vn của <em>Minh Tâm, Đình Ngân</em>
viết <em>"Theo The Atlantic"</em>: http://bit.ly/1vVJnXr

[1]: Thông thường tàu chiến chỉ dùng radar với tín hiệu radio
không mã hóa để theo dõi, xác định khoảng cách và hướng đi
của các tàu chung quanh. Khi radar điều khiển bắn <em>chốt</em>
(lock) mục tiêu, nó chuyển sang dùng tín hiệu radio mã hóa và
chuyển băng tần liên tục--FHSS, Frequency Hopping Spread Spectrum.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141215/howard-w-french-van-co-nguy-hiem-cua-trung-quoc-p2),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét