Trò chuyện với Nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn: Cứ kiên trì, rồi mùa hoa trái sẽ tới!

<b><i>Sau khi kinh tế xã hội rơi vào vòng khó khăn, chúng ta cần
nhìn lại để biết đâu là "gót chân Achilles" của chính
mình. Sự phát triển và trưởng thành của một dân tộc luôn
từ những cuộc tự vấn. Qua câu chuyện với nhà báo Lê Ngọc
Sơn, nhà triết học Bùi Văn Nam Sơn có những tâm sự đầu năm
với các bạn sinh viên, theo ông, có nhìn lại bản thân mình
thì mới sinh tồn được qua những khó khăn phía trước.</i></b>

<b><i>CHUYỆN "HẠ TẦNG KIẾN THỨC"</i></b>

<b>Lê Ngọc Sơn:</b> <i>Thưa ông, vì sao ông đi dịch những
cuốn sách triết học đồ sộ và kinh điển của thế
giới?!</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Thực ra tôi già rồi, thời gian của tôi
không còn nhiều nữa, tôi chỉ cố gắng làm cái gì trong khả
năng của tôi thôi. Tôi tự đặt ra cho mình nhiệm vụ chính
bây giờ là dịch một số các tác phẩm kinh điển sang tiếng
Việt. Vì lẽ, thứ nhất, những quyển sách dạng này khô khan
chẳng ai thèm dịch; thứ hai, nếu không dịch những quyển này
thì không biết bao giờ người ta mới dịch… trong khi đó là
những nền tảng cho các anh em trong chuyên ngành. Nhìn vào thư
viện của Việt Nam mình, chưa thấy có mấy sách kinh điển
của nhân loại, tôi thấy buồn lắm. Thành thực mà nói, không
thể đòi một bạn sinh viên đọc tiếng Anh hay các ngoại ngữ
khác vèo vèo như đọc tiếng Việt được. Vả lại, quả là
không công bằng! Một người cùng trang lứa với các bạn sinh
viên của ta, như những sinh viên ở Pháp, Mỹ, Đức, Nhật…
thì họ dùng ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, họ đỡ vất vả hơn
nhiều lắm. Bây giờ đòi hỏi những bạn cử nhân mới 23
tuổi ngồi đọc một cuốn sách kinh điển dày cộp bằng
tiếng Anh, thậm chí bằng tiếng Đức… làm sao mà đọc
nổi… Đâu phải sinh viên Mỹ nào cũng đọc được tiếng
Đức, hay sinh viên Pháp nào cũng đọc được tiếng Anh thông
thạo… Thế mà họ vẫn thành công, vì họ sử dụng các bản
dịch có chất lượng, và các công trình nghiên cứu của họ
vẫn đạt được trình độ quốc tế.

Ở Việt Nam, ít ai làm việc dịch thuật, thế nên gánh nặng
đè lên vai những anh em trẻ. Lứa tuổi 18-25 phải gánh cả
một gánh nặng, vừa học kiến thức, vừa học ngoại ngữ. Do
trở ngại về ngôn ngữ, mình khó có thể nắm vững vấn đề
và tra cứu đến nơi đến chốn. Điều đó không phải lỗi
của thế hệ trẻ, đó là lỗi của thế hệ đi trước, như
chúng tôi, không kịp chuẩn bị tư liệu nền cho các bạn.
Thật là quá cực, quá tội cho các bạn! Còn việc chúng ta
phải nỗ lực học ngoại ngữ lại là chuyện khác! Khi tiếng
Anh đã trở thành một <i>lingua franca</i> trong khoa học, việc
đọc, viết, nói thành thạo tiếng Anh trong các ngành khoa học
tự nhiên và kỹ thuật là một yêu cầu hiển nhiên. Trong các
ngành khoa học xã hội-nhân văn, còn cần thêm nhiều ngoại
ngữ lẫn cổ ngữ khác nữa, nhưng vấn đề nói ở đây là
không thể đòi hỏi những gì bất khả thi và quá sức…

<b>Lê Ngọc Sơn:</b><i>Thời sinh viên của ông ắt hẳn thấm
thía nỗi vất vả này lắm?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Đúng. Thời sinh viên, tôi cũng đã rất
"đau khổ" vì thiếu sách tiếng Việt. Năm 21 tuổi, tôi sang
Đức học, sau khi học xong cử nhân ngành Triết ở Sài Gòn,
lúc đó tự thấy vốn liếng chữ nghĩa cũng kha khá rồi... Khi
sang đó thì từ bậc cử nhân cho đến tiến sĩ, từ người
mới vào trường đến người sắp ra trường đều có thể
học chung một lớp. Lớp của tôi có mấy ông bạn người
Nhật Bản, người Hàn Quốc… Lúc đó các bạn Hàn Quốc cũng
khổ sở, vật vã như mình, vì nước họ có rất ít những
bản dịch ra tiếng Hàn, và cũng như tôi, chưa thể đọc tiếng
Đức thành thạo được. Trong khi đó mấy chàng Nhật Bản còn
trẻ măng, mới 19 tuổi, vừa học xong tú tài, lại tỏ ra am
hiểu và tự tin lắm! Tôi kinh ngạc, thì các bạn ấy mới mở
túi cho xem một đống sách toàn tiếng Nhật: những bản dịch
Hegel, Kant, Heidegger…, sách tham khảo, từ điển. Mình mất cả
năm vật lộn với một cuốn sách, họ chỉ cần vài tháng là
đọc xong. Thời gian mình đầu tư cho chuyện đọc đã quá mất
sức rồi, làm sao có thể suy nghĩ hay tìm tòi thêm được cái
gì mới nữa. Khoảng cách về điều kiện nghiên cứu giữa
mình với người Nhật thật rõ rệt!

Riêng trong lĩnh vực triết học, sách vở mênh mông, còn số
dịch giả thì đếm trên đầu ngón tay… Lẽ ra cần cả một
thế hệ chuẩn bị nền móng, cho các bạn trẻ sau này đỡ
cực hơn. Tất nhiên, ý nghĩa của việc dịch thuật không phải
chỉ có thế. Nó còn góp phần xây dựng ngôn ngữ khoa học cho
một đất nước, đem ánh sáng khai minh đến cho số đông để
cải hóa xã hội, như nhiều bài viết mới đây của quý Thầy
Nguyễn Xuân Xanh, Nguyễn Văn Tuấn, Trần Văn Thọ… đã nhấn
mạnh.

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Vậy cho đến nay, so với các nước trong
khu vực, chúng ta đang thế nào, thưa ông?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Cách đây chừng 5-7 năm, chính ông bạn
người Hàn Quốc ngày xưa học chung với tôi, về dạy ở Đại
học Seoul, viết thư kể cho tôi nghe: ông và thế hệ trước
đó, từ những năm 1970 trở đi đã bắt tay vào dịch sách vở
cho Hàn Quốc. Hầu hết những tác phẩm kinh điển quan trọng
từ tiếng Đức đã được dịch sang tiếng Hàn, hết toàn tập
này đến toàn tập khác, mà mỗi toàn tập của một tác giả
thì có đến 40-50 tập. Tôi rất kinh ngạc về sức làm việc
của họ. 40 năm thôi, nhưng với trách nhiệm với đất nước
và đàn em, họ quyết tâm làm được việc lớn như thế. Vậy
thì ngày hôm nay, làm sao sinh viên của ta có thể "đấu"
lại được một sinh viên Hàn Quốc, trong khi cách đây 40 năm,
anh sinh viên này cũng vất vả y như mình. Khoảng cách đó thật
khủng khiếp!

Việc học hành nghiêm chỉnh, tiếp thu có hệ thống đã là
thách đố ghê gớm, và cái đó cần nhiều thế hệ mới vượt
qua được, ít nhất cũng là 30-40 năm như Hàn Quốc. Chúng ta
đừng vội nói gì cao xa, sách vở đàng hoàng là nền móng cơ
bản nhất của nền học vấn và của nền đại học.

<b>Lê Ngọc Sơn:</b><i>Vì sao chúng ta không làm được như
những nước ở gần mình như Nhật, như Hàn? Và ông có thấy
được cuộc đua tranh trên thế giới về mặt tri thức đang
diễn ra rất quyết liệt?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Chúng ta thiếu tính tổ chức, thiếu
khả năng làm việc tập thể và một kế hoạch trường kì
của cả một tầng lớp, của cả một thế hệ. Mỗi thế hệ
phải thấy trách nhiệm lịch sử của mình, thấy tình trạng
khách quan đặt ra cho mình gánh nặng nào, và họ phải giải
quyết một cách thông minh nhất, ít tốn sức nhất, với sự
bền bỉ và quyết tâm. Thế hệ sau thừa hưởng và nối tiếp
thành quả của những người đi trước, thì nền học thuật
cứ thế đi lên thôi.

Tôi được cho biết rằng ở Nhật, những tạp chí khoa học
chuyên ngành trên thế giới hầu như lập tức được dịch sang
tiếng Nhật, vì họ có nhu cầu cạnh tranh. Nếu không theo kịp
thông tin mới, làm sao có thể cạnh tranh trên thị trường thế
giới, làm sao bắt kịp trình độ quốc tế để đi dự hội
thảo khoa học?

Trở lại tình cảnh của ta, cơ sở hạ tầng về kiến thức
là phần rất chểnh mảng. Cái cơ bản nhất thì lại bị xem
nhẹ… Bây giờ cứ hô hào sinh viên sáng tạo đi, có công
trình đột phá đi, hãy phản biện đi… Nhưng phải biết
người ta đã viết gì, nghĩ gì, ta mới phản biện và có ý
kiến riêng được chứ!

<b><i>SỬA SOẠN TINH THẦN, CHUẨN BỊ YÊN CƯƠNG</i></b>

<b>Lê Ngọc Sơn:</b><i>Trong quan niệm của ông, một bạn sinh
viên phải thế nào?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Theo tôi, thời gian được học đại
học là quãng thời gian đẹp nhất, quý nhất của một đời
người. Khi ta đang ở trong quãng thời gian đó, thường không
thấy quý đâu, nhưng sau này nhìn lại mới thấy đây là thời
gian quý nhất, "sướng" nhất. Được trở thành sinh viên là
một bước ngoặt. Chữ "sinh viên" khác về chất với chữ
"học sinh". Ngay bản thân chữ <i>"sinh viên"</i> đã cho
thấy sự khác biệt ấy: Sinh viên trong tiếng Anh và tiếng
Đức là "student", trong tiếng Pháp là "étudiant", liên quan
đến 3 động từ: to study, studieren, étudier ít nhiều đều mang
hàm nghĩa là "nghiên cứu". Sinh viên là phải nghiên cứu,
chứ không chỉ thụ động tiếp thu kiến thức... Trong tiếng
Việt, "sinh viên" có chữ "viên", nghĩa là đã có một
vị trí nào đó... Do vậy, cần ý thức được điều này để
cả người dạy lẫn người học ở bậc đại học nhận thức
được trách nhiệm của chính mình. Dạy và học ở đại học
không chỉ là truyền thụ và tiếp thu kiến thức mà chủ yếu
là gợi hứng cho nghiên cứu.

Ngay cả ở trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông cũng có
vấn đề. Những năm 1970 về trước, mang tấm bằng tú tài
của Việt Nam sang Tây Âu là được chấp nhận hầu như tương
đương, còn những bằng tú tài của Thái Lan, Malaysia,
Indonesia… thì buộc phải học lại một năm, tức chỉ bằng
đầu lớp 12 bên đó. Bây giờ thì như thế nào? Chúng ta phải
nghiêm túc tự vấn về mình...

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Ở các nước phát triển, khoa học trú
ngụ ở đại học, tại sao ở các đại học ở ta thì chưa
thấy gì, thưa ông?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Theo tôi là do không phân biệt rạch ròi
giữa đại học và trung học. Trường đại học dứt khoát
không phải là trường phổ thông cấp 4. Nó khác về chất trong
hệ thống giáo dục quốc gia. Đại học cũng không phải là
trường dạy nghề, trường dạy nghề lẽ ra cần có một hệ
thồng khác, cũng cao cấp và sáng giá không kém gì đại học.
Ở Đức, sau khi đỗ tú tài, ta có hai con đường để lựa
chọn, một là các trường kỹ thuật, trường dạy nghề chuyên
nghiệp dành riêng cho những kỹ sư thực hành, rất hay và
thiết thực, ra trường dễ kiếm việc làm và lương cao. Hoặc
hướng thứ hai là nghiên cứu: cũng có thể là khoa học-kỹ
thuật nhưng nặng về lý thuyết. Do có hai hướng rõ ràng như
vậy, dựa vào việc phân định khách quan về nhiệm vụ, nên
khi vào đâu, ta sẽ biết làm cái gì, biết rõ tính chất của
trường mình. Việc "liên thông" giữa hai loại trường này
lại là chuyện khác nữa!

Do đó, đại học đương nhiên mang tính chất nghiên cứu, dù
ở năm thứ nhất cũng là nghiên cứu, ở bậc tiến sĩ, hay sau
tiến sĩ cũng là nghiên cứu. Từ sinh viên đến giáo sư đều
làm nghiên cứu. Không khí của đại học là nghiên cứu. Thành
ra, cái mà ta đang nhầm lẫn ở đây là nhẫm lẫn tính chất
của đại học, dẫn đến hệ quả rất trầm trọng là biến
đại học thành trường dạy nghề, và biến trường dạy nghề
thành ra cái gì đó rất là yếu kém và yếu thế. Đã đi học
để nghiên cứu thì phải toát ra tinh thần nghiên cứu, tức là
toàn bộ giáo sư và sinh viên là một cộng đồng nghiên cứu,
người đi trước hướng dẫn, dìu dắt người đi sau, không
ngừng hình thành những chuyên ngành mới, những trường phái
mới… Nghiên cứu có nhiều cấp độ, cấp thấp/ cấp cao,
dễ/ khó… Cũng tránh hướng suy nghĩ rằng, nghiên cứu là cái
gì đó cao xa lắm, thực ra đâu phải vậy: ngay năm thứ nhất,
bạn cũng đã phải có tư duy nghiên cứu rồi, tự tìm tòi
phương hướng và phương tiện nghiên cứu của mình với sự
giúp đỡ của người đi trước.

Vì thế, hình thức <i>Sêmina</i> ngày càng chiếm ưu thế.
Sêmina là lao động tập thể của sinh viên lẫn giáo sư, của
thầy và trò, cùng nhau tìm tòi tài liệu, tổng kết, nhận
định, đánh giá những gì đã có, đó là những hình thức ban
đầu của nghiên cứu ngay từ năm thứ nhất.

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Theo ông, sinh viên phải chuẩn bị những
gì cho một tương lai đầy thử thách trước mặt?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Người Pháp có câu ngạn ngữ: "muốn
đi xa phải chăm sóc yên cương" ("Qui veut aller loin, ménage sa
monture"/<i>Racine</i>), nghĩa là, phải biết dưỡng sức và
chuẩn bị phương tiện. Đi mười dặm thì đơn giản, nhưng đi
trăm dặm, nghìn dặm, vạn dặm… thì lại khác. Công việc
học cũng vậy thôi, nếu chỉ nghĩ lấy cái bằng ra để kiếm
việc làm, nuôi sống bản thân thì khá đơn giản, nhưng nếu
muốn tiến xa trong chuyên ngành của mình thì phải chuẩn bị
cho 30, 40 năm sau về cả ý thức lẫn sức lực.

Chắc bạn biết rằng trên 30 tuổi rất khó học ngoại ngữ,
do nguyên nhân sinh lý thôi, trên 30 tuổi thì các nơ-ron thần
kinh già đi, giảm thiểu khả năng tiếp thu. Vậy thì phải
luyện rèn ngoại ngữ trước 30 tuổi. Người làm nghiên cứu
cần trang bị cho mình nhiều ngoại ngữ. Đối với các ngành
khoa học tự nhiên và kỹ thuật, cần phải có hai ngoại ngữ
thông dụng. Đối với người làm nghiên cứu trong lĩnh vực
khoa học xã hội-nhân văn, thì càng nhiều càng tốt, cả cổ
ngữ nữa. Đó là vốn liếng tối thiểu để nghiên cứu.

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Cần tạo cảm hứng ham hiểu biết của
anh chị em sinh viên như thế nào, thưa ông?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Theo quan sát của tôi, hiện nay, anh chị
em sinh viên đang chịu nhiều áp lực thi cử quá mức. Cần tạo
một khoảng hở để anh chị em sinh viên vui chơi, và có… chơi
nhiều thì mới thấy việc học là thú vị, không học thì
tiếc, và thế là lao vào học. Học trong sự say mê. Hãy tạo
không gian tự do để anh chị em cảm thấy hứng thú nghiên
cứu, chứ suốt ngày bị áp lực thi cử, hay sợ tương lai của
mình phụ thuộc vào thi cử…thì những việc đó làm hao tổn
năng lượng của anh em trẻ một cách quá đáng! Thể lực và
thể thao đại học cũng là hiện tượng rất đáng lo ngại,
chưa nói đến những hình thức tiêu cực phản giáo dục…

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Chúng ta nên bắt đầu lại thế nào
để xây dựng lại tinh thần đại học một cách tử tế?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Hình như ta đang có cao vọng là phấn
đấu đứng vào hàng ngũ những đại học tiên tiến trên thế
giới. Tôi nghĩ là khó vô cùng! Với những gì hiện có, tôi e
chuyện đó là ảo tưởng. Nhiều thập kỷ nữa chưa chắc mình
đã vào được hàng ngũ những đại học trung bình ở khu vực,
chứ đừng nói đại học đẳng cấp quốc tế. Và để có cơ
may làm được điều đó thì việc trước tiên là phải thay
đổi tính chất của đại học hiện nay.

Điều đáng lo là chúng ta không lo những chuyện bình thường,
coi nhẹ những chuyện bình thường. Chuyện lẽ ra ai cũng phải
làm, nước nào cũng phải làm thì mình lại xem thường, mình
chỉ muốn làm những gì khác thường, phi thường. Làm sao làm
những chuyện khác thường, phi thường khi cái bình thường, ta
chưa làm được? Hãy là cái gì bình thường trước đã. Những
đại học, học viện trên thế giới người ta là cái gì thì
mình là đúng cái đó đi đã: đầu tư cho sách vở đầy đủ,
đầu tư cho con người, không gian học thuật, v.v...

<b><i>ĐI XA CẦN CÓ BẠN ĐƯỜNG VÀ TẬP HIỂU NHỮNG ĐIỀU
KHÁC BIỆT</i></b>

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Như vậy, sẽ phải bình tĩnh để nhìn
lại năng lực tự thân và hướng đi của mình?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Vâng. Một nền giáo dục lạc hậu thì
đuổi mãi chắc rồi cũng bắt kịp, nhưng lạc hướng thì
chịu thua. Chúng ta thường mong làm những điều phi thường,
nhưng đôi khi thực chất nó lại là nghịch thường. Những
cách làm của mình hiện nay là trái với bình thường, không
giống ai và không có ai làm như thế cả. Trên thế giới, nền
giáo dục quốc gia được định hình tư lâu lắm rồi. Những
định chế khoa học cũng đã định hình từ xa xưa với hơn 700
năm kinh nghiệm. Họ làm gì, ta làm nấy cho giống đại học
cái đã, rồi phát triển dần lên.

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Phía trước là cả chặng đường dài,
theo ông, các bạn sinh viên nên làm gì?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Theo tôi các bạn trẻ cần hình thành ý
thức tự học và xác định tinh thần đi xa phải có bạn
đường. <b>Thứ nhất,</b>sinh viên cần có tinh thần tự học
trọn đời, nghiên cứu trọn đời. Ngay cả khi đã "bỏ
nghề", nhưng nếu còn tha thiết với nó, ta vẫn tìm sách mà
đọc, cố gắng hết sức trong thời gian eo hẹp để làm giàu
tri thức cho mình, nâng chất lượng cuộc sống mình lên. Đó
là tinh thần tự học. <b>Thứ hai,</b> đã có tinh thần tự
học, thì hoàn cảnh nào đi nữa vẫn có thể tham gia làm việc
từng nhóm với nhau. Bạn có thể sinh hoạt với nhau trong một
nhóm bạn hữu tâm giao, có thể theo đuổi một công việc tình
nguyện, không ăn lương, thậm chí không dính đến bộ máy hay
tổ chức nào cả. Chúng ta cần những nhóm người nhiệt
huyết, không lệ thuộc vào đồng lương nhà nước, cơ quan…
Cái có sức sống nhất chính là những nhóm nghiên cứu độc
lập, tự nguyện, vô vị lợi, chủ yếu là vì lòng say mê,
tình tri kỉ… được hình thành ngay thời sinh viên. Cho nên
tình bạn trong đại học không chỉ là vui chơi, chính tình bạn
có tính tự nguyện này là mầm mống cho những hoạt động khoa
học bền bỉ. Trong lịch sử khoa học, có những nhóm nghiên
cứu kết bạn với nhau từ hồi sinh viên cực kì khăng khít,
đã tạo ra những công trình phi thường.

<b>Lê Ngọc Sơn: </b><i>Theo ông, làm sao để người trẻ kiên
trì trên con đường nghiên cứu?</i>

<b>Bùi Văn Nam Sơn: </b>Đã là sinh viên đúng nghĩa thì ta phải
ham chuyên môn của mình ngay từ khi bước chân vào trường
đại học. Bước vào giảng đường, thư viện hay phòng thí
nghiệm, ta cảm thấy linh thiêng, hào hứng, thì mới có hi vọng
thành tựu. Ít ra là cũng ham đọc sách, chứ cầm cuốn sách mà
đọc vài trang là lăn ra ngủ thì không thể nào đi xa được
đâu. Phải mê sách vở, mê nghiên cứu, mê chữ nghĩa,... thì
mới có triển vọng. Dần dần thành thói quen, trong đó có thói
quen tập đọc, tập chịu đựng: cái khó nhất trong học tập,
nghiên cứu là chịu đọc những cái mà mình không thích. Đọc
một cách nghiêm chỉnh, không thành kiến những gì không giống
mình. Nghiên cứu là để hiểu vấn đề và hiểu người khác
một cách nghiêm chỉnh, trung thực. Đừng vì ghét quan điểm
của tác giả nào đó, rồi chưa đọc kỹ về họ đã bác bỏ
hay xuyên tạc họ. Cố tình hạ thấp họ để nghĩ mình thắng
họ, thì thực chất họ cũng chẳng thấp hơn được. Phải
hiểu một cách chân thực, phản bác họ bằng luận cứ. Và
để làm được điều đó thì, như đã nói, phải chịu khó
đọc những cái mình không thích, học những môn mình không ưa.
Tập thói quen này khó lắm đó, nhưng hoàn toàn có thể làm
được.

Dù có nhiều khó khăn đón chờ phía trước, nhưng xin hãy cứ
kiên trì, rồi mùa hoa trái sẽ tới!

<i>Xin cảm ơn ông!</i>

<b>Lê Ngọc Sơn</b><i> (Thực hiện)</i>

<i>Rải băng: <b>Tạ Thương</b></i>

<i>(Bài đăng trên báo SVVN số Xuân Quý Tỵ 2013)</i>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141103/tro-chuyen-voi-nha-triet-hoc-bui-van-nam-son-cu-kien-tri-roi-mua-hoa-trai-se-toi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét