<strong>Vừa qua, Dự thảo Luật Tổ chức Viện KSND và Tòa án ND
đã gây tranh cãi trong dư luận xã hội khi bác bỏ quyền im
lặng, phủ định một quyền cơ bản mang tính phổ quát thế
giới!</strong>
<strong>*Phần I: Những vấn đề đặt ra</strong>
<div class="boxleft300"><img
src="https://anhbasam.files.wordpress.com/2014/10/h1146.jpg" /><div
class="textholder"></div></div> Tháng trước, UBTV Quốc hội họp cho
ý kiến về Dự Luật Tổ chức Viện KSND và TAND. Gây tranh cãi
thu hút truyền thông nhất là 4 quyền trong lĩnh vực tố tụng,
tư pháp, 1- quyền im lặng, 2- quyền có luật sư, 3- quyền tranh
tụng bình đẳng và 4- quyền được xét xử độc lập. Trong
đó, điểm mấu chốt của cả 4 quyền trên đều ít nhiều
liên quan tới vai trò luật sư. <em>Luật TTHS ở nước ta và
trên thế giới ngày nay đều quy định "Quyền nhờ (có) luật
sư". Lý do không có gì cao siêu cả, cực kỳ đơn giản, bệnh
nhân cần bác sỹ, sinh nở cần bà đỡ, học hành cần thầy
cô… thì vướng quan sự cần luật sư là lẽ đương nhiên,
thuộc về quyền cơ bản. Nhưng ở ta thực tế bất khả thi,
bởi thiếu cả chế tài buộc nhà chức trách phải bảo đảm
quyền đó cho họ, lẫn điều kiện thực hiện, nghi phạm bị
cách ly hoàn toàn, quá trễ để gặp được luật sư vốn chỉ
được chấp thuận khi người nhà mời, phải được cấp giấy
chứng nhận bào chữa, phải chờ tới lịch hỏi cung. Nếu hình
dung nghi phạm như bệnh nhân cấp cứu, luật sư là bác sỹ sẽ
thấy hậu hoạ bất khả kháng. Chưa nói, người nghèo thiếu
tiền mời luật sư và khó tìm được luật sư thiện nguyện,
con "bệnh" chỉ nằm chờ chết. Mặt khác, nghề luật sư
đối kháng với cơ quan điều tra tố tụng vốn chẳng thích gì
luật sư, khó được họ ủng hộ chưa nói cản trở một khi
thiếu chế tài đối với cơ quan này, như phát biểu của VKS
và TA Triệu Sơn thách thức "để xem luật sư làm được
gì" trong vụ án ông Nguyễn Bá Qúy mới đây là một điển
hình. Vì vậy, tranh cãi nảy lửa về Dự luật trên là đương
nhiên, không chỉ liên quan tới số phận bất kỳ ai, cả
thường dân lẫn quan chức dù cao cấp tới đâu, một khi gặp
rủi ro quan sự đều phải đối mặt, mà còn là bằng chứng
không thể bác bỏ để khẳng định một nhà nước thực tế
có tính pháp quyền hay không?</em>
Phát biểu tại cuộc họp, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh
Hùng khẳng định, "về quyền tranh tụng phải căn cứ Hiến
pháp 2013 để xác định quyền của luật sư bào chữa ngay từ
đầu. Người ta mới thu thập được chứng cứ, mới tìm hiểu
được sự việc, nghe thân chủ, đi chứng minh, rồi đứng ra
bào chữa được. Nguyên tắc xưa nay, luật sư chỉ bào chữa,
bác luận cứ buộc tội của viện kiểm sát. Tòa tuyên án.
Trước công lý, tất cả bình đẳng. Thẩm phán xét xử độc
lập, chỉ tuân theo pháp luật, không chịu bất kỳ chỉ đạo
nào. Nghị quyết Bộ Chính trị viết rất rõ: Căn cứ chủ
yếu vào tranh tụng tại phiên tòa để quyết định bản án.
Đó là nhiệm vụ của tòa án".
<strong>*Phần II: Bản chất quyền im lặng</strong>
Quan điểm của Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng chính xuất phát từ
bản chất của quyền im lặng, quyền có luật sư, quyền tranh
tụng bình đẳng, quyền được xét xử độc lập, trong thời
đại ngày nay vốn thuộc QUYỀN CƠ BẢN có nội hàm bao gồm 4
dấu hiệu: a- quyền đặc trưng của con người trước nhà
nước (chính vì vậy nó còn được gọi là quyền tư vệ
chống lại nhà nước xâm phạm. Như ở Đức được hiến
định ngay tại Điều 1 "những quyền cơ bản sau đây là
những chuẩn mực thước đo, quy tắc xử sự, trực tiếp ràng
buộc cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp phải tuân thủ"),
b- không thể tách rời, chuyển nhượng (như không ai được
quyền thay ai đi tù hay bỏ phiếu cơ quan dân cử), c- lâu dài,
và d- nếu vi phạm kiện lên toà án Hiến pháp. Thiếu một trong
4 dấu hiệu trên, nó sẽ không được bảo đảm trên thực
tế. (Chính vì thế, quốc gia nào cũng hiến định hoặc mặc
định quyền cơ bản, nhưng thực tế xếp hạng quốc gia dân
chủ thứ bậc cách nhau cả trời vực).
Có thể tham khảo ở Đức, Chương Quyền cơ bản được hiến
định 22 Điều. Sắp tới có thể bổ sung thêm quyền có tài
khoản ở ngân hàng do EU đề xuất, quyền tự do truy cập
Internet đang được UNO bàn thảo (khi đó nhà nước bị buộc
phải bảo đảm cho người không có thu nhập, lập tài khoản
và truy cập Internet miễn phí, nếu không không thể gọi quyền
cơ bản). Còn ở ta, Hiến pháp 2013 hiến định tới 36 Điều
(gấp rưỡi Đức), liệu có bao hàm đủ 4 dấu hiệu nội hàm
quyền cơ bản hay không hiện còn tùy thuộc kết qủa thể chế
hoá nó.
Khác với 22 quyền cơ bản tập hợp trong Chương Quyền cơ
bản vốn được áp dụng trong mọi trường hợp; tương tự
hầu hết các quốc gia hiện đại, 4 quyền cơ bản trên được
Hiến pháp Đức xếp vào Chương Tư pháp, nên thường gọi là
"quyền tương tự quyền cơ bản" hay "quyền cơ bản trong
lĩnh vực tư pháp". Quyền im lặng được hiến định ẩn
chứa tại điểm (1), Điều 103: "Bất cứ ai bị xét xử đều
phải lắng nghe ý kiến họ". Được hiểu họ trả lời, phát
biểu, hay không, như thế nào, là quyền của họ. Từ quyền
"ẩn chưá" được hiến định đó, quyền im lặng được
thể chế hoá bằng Luật tố tụng hình sự StPO.
Còn ở Mỹ, quyền im lặng được hiến định trực tiếp tại
điều 5 Tu chính Hiến pháp, "trong tố tụng hình sự, không
được phép buộc bất cứ ai phải khai báo tự chống lại
mình".
Ở ta, những quyền cơ bản trong tố tụng tư pháp cũng được
Hiến pháp 2013 quy định tại Chương Quyền cơ bản, Điều 31,
điểm 4, n<em>gười bị quan sự "có quyền tự bào chữa, nhờ
luật sư hoặc người khác bào chữa"… Và cả tại Chương
Toà án, Viện Kiểm sát, Điều 103, "</em>Thẩm phán, Hội
thẩm, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử
của Thẩm phán, Hội thẩm". "Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm". Mặc dù không có điều khoản nào ẩn
chưá trực tiếp quyền im lặng nhưng các quyền cơ bản khác
trong tố tụng hiến định ở trên, tự nó đã đặt ra điều
kiện "cần" hay "tiền đề" về quyền im lặng có được
bảo đảm, thì các quyền còn lại mới có thể thực thi. Nói
cách khác quyền im lặng được mặc định, giống như quyền
ăn, uống, thở, nghe, nhìn, vận động, yêu, ghét…, mặc dù
không hiến định, nhưng thiếu nó thì không thể thực thi bất
kỳ quyền gì khác liên quan!
<strong>*Phần III: Công nghệ thực thi – cốt tử của quyền im
lặng trên thực tế</strong>
Dù hiến định hay mặc định, quyền cơ bản chỉ có thể
bảo đảm khi chế tài được mọi cơ quan công quyền phải
tuân thủ những chuẩn mực thước đo, quy tắc xử sự hệ
dẫn từ chính những quyền đó. Nói cách khác, hiến định hay
mặc định chỉ mới bảo đảm được quyền cơ bản về mặt
nguyên lý, để trở thành hiện thực phải có công nghệ pháp
lý thực thi, tức các quy phạm đong đo đếm được quy định
nghiêm ngặt trình tự thao tác của các cơ quan nhà nước phải
thực hiện, ở dạng văn bản lập pháp (giống như năng lượng
nguyên tử có thể nắm được dễ dàng về mặt nguyên lý,
nhưng để sản xuất được nó phải có công nghệ).
Có thể tham khảo công nghệ pháp lý, qua quy phạm 2012/13/EU về
"trách nhiệm giải thích truyền đạt" trong các vụ án hình
sự. Điều 3, đoạn 1 quy định "không cho phép ngoại lệ,
mọi nghi can phải được cơ quan điều tra thông báo về quyền
im lặng một cách nhanh chóng bằng miệng hoặc giấy với ngôn
ngữ đơn giản nhất có thể hiểu được. Thông báo đó phải
lưu giữ để sau này chứng minh được trách nhiệm đó đã
hoàn thành. Vì vậy thông báo phải được thực hiện vào thời
điểm mà quyền này nghi can có thể áp dụng (tức trước khi
khai báo). Quy phạm trên, các nước EU phải đưa vào luật quốc
gia trước ngày 02.06.2014".
Còn ở Đức, Điều 136, 136 a Luật tố tụng StPO và Điều 55
Luật vi phạm hành chính OWiG quy định, "trước khi lấy lời
của nghi can hoặc người vi phạm hành chính phải thông báo cho
họ, theo luật họ được hoàn toàn tự do chọn khai báo hoặc
không đối với cáo buộc, nhất là khi nhận thấy nói ra sự
thật sẽ phải tự chịu hậu quả xấu; và bất kỳ lúc nào
ngay cả trước khi chưa thẩm vấn, được quyền tham vấn luật
sư mà người đó lựa chọn". Quyền im lặng và tham vấn theo
Điều 163 đoạn 4 Câu 2 Luật StPO, nghi can hay người vi phạm
hành chính được quyền áp dụng "ngay từ công đoạn đầu
tiên bị cảnh sát thẩm vấn". Tiếp theo, nghi can phải được
thông báo, "họ có quyền yêu cầu cấp các bằng chứng cáo
buộc để họ bác bỏ". Ngoài ra nếu Viện Kiểm sát thẩm
vấn, "thì trước đó phải cho bị can biết đã bị cáo buộc
vi phạm điều khoản nào của luật nào". Trong xét xử, Điều
243, đoạn 4, câu 1 Luật StP0 quy định, "khi mở đầu phiên
toà phải thông báo cho bị cáo quyền im lặng, dù trước đó
họ đã được cảnh sát hay Viện kiểm sát thông báo".
"Nếu nhà chức tranh vi phạm các điều khoản trên, các bằng
chứng đưa ra từ lời khai của nghi can, bị cấm sử dụng làm
bằng chứng xét xử". Quy định này nhằm bảo đảm nguyên
tắc cơ bản trong xét xử tội phạm: "không một ai buộc
phải tự tố cáo mình". Từ đó, Điều <a
href="http://www.gesetze-im-internet.de/stpo/__55.html" target="_blank">§
55</a> StPO còn quy định quyền im lặng của cả nhân chứng để
tránh qua khai báo, họ hoặc gia đình họ bị điều tra. Đối
với người nước ngoài, Hiệp định quyền lãnh sự ký ở
Viên (Áo), Điều 36, đoạn 1, câu 3 còn quy định thêm, phải
thông báo không chậm trễ cho người đó biết họ có quyền
thông tin cho cơ quan đại diện nước họ, và thông tin đó
phải được chuyển đi không chậm trễ.
Ở Thụy Sỹ, Điều 31 Hiến pháp quy định, khi bị bắt mọi
người đều có quyền được thông báo không chậm trễ về lý
do và quyền của mình ở dạng dễ dàng hiểu được. Thuộc
quyền này gồm quyền im lặng, quyền được toà án kiểm tra
xem có cho phép nhà chức trách bắt giữ họ trong thời hạn
thích ứng hay không, và quyền thông báo cho người nhà. Từ
nền tảng Hiến pháp đó, Luật tố tụng hình sự, Điều 158,
đoạn 1, quy định, "nghi can trước khi bị thẩm vấn có
quyền nhận được thông báo về quyết định điều tra hay
khởi tố mình, quyền từ chối khai báo và hợp tác (quyền im
lặng), quyền được mời luật sư hoặc xin luật sư công,
quyền mời phiên dịch (nếu là người nước ngoài)". Nếu
bị bắt giữ, quyền đó phải được thông báo trực tiếp cho
đương sự ngay sau khi bị bắt (Điểu 219, đoạn 1, Luật StPO).
Nếu quyền trên không được thực hiện, thì mọi khai báo hoàn
toàn không được phép sử dụng phục vụ cho xét xử (Điều
158, đoạn 2, và Điều 141, đoạn 1 Luật StPO).
<strong>*Phần IV: Còn Dự Luật Tổ chức Viện KSND và TAND ở ta
?</strong>
Quyền im lặng cùng các quyền cơ bản khác trong tố tụng tư
pháp mặc dù đã được hiến định hoặc mặc định, cũng như
tư tưởng chỉ đạo công nghệ thực thi thể hiện trong phát
biểu của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đều không
khác mấy các nước hiện đại, nhưng kết qủa khác hẳn họ,
bị vô hiệu hóa bởi công nghệ thực thi nó do chính những
người soạn thảo Dự luật đề xuất. Chánh án Toà án Tối
cao Trương Hòa Bình đưa ra quan điểm, Dự luật phải „bảo
đảm nguyên tắc hiến định", "tuy nhiên cũng có nguyên tắc
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong xét xử". Còn Viện
trưởng VKSND tối cao Nguyễn Hòa Bình cho rằng, "ban soạn
thảo không đồng tình với phương án hai bên giữa luật sư và
cơ quan tiến hành tố tụng ngang bằng", thể hiện từ việc
bố trí chỗ ngồi trong xét xử. Lý do: "đã có báo cáo Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp và Bộ Chính trị kết luận, mô
hình tố tụng chúng ta là mô hình thẩm vấn, có kế thừa tinh
hoa của tranh tụng". Về góc độ khoa học, đưa ra 2 mô hình,
"thẩm vấn" với "tranh tụng", và "hiến định" với
"đảng lãnh đạo" đặt ra yêu cầu cùng thoả mãn, để
rồi chọn tùy ý một trong 2 là phi logic, kết qủa quyền cơ
bản trong tố tụng bị phủ định dễ dàng là đương nhiên
nếu muốn.
Đối với quyền im lặng, Viện trưởng Nguyễn Hoà Bình mặc
dù thừa nhận: "Quyền im lặng của bị can, bị cáo thế
giới đã áp dụng ", nhưng do ở ta "cơ quan điều tra hoàn
toàn không muốn quy định quyền im lặng, trong khi phía luật sư
thì rất muốn", "nên chúng tôi không dám đưa quy định này
vào". Rồi kết luận "chúng tôi cũng còn lúng túng, cần có
định hướng của Ủy ban TVQH". Kết luận trên cho thấy quy
trình làm luật này ở ta ngược với thế giới hiện đại,
chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thực trạng trì trệ
thể chế hầu khắp mọi lĩnh vực xưa nay. Khác với công chức
luôn có trách nhiệm xin ý kiến và tuân thủ mệnh lệnh cấp
trên, nghị sỹ các nước hiện đại là chính khách hoàn toàn
độc lập, phải tự quyết định theo nhận thức của mình, và
được quyền miễn trừ đối với quyết định đó, không
chịu bất kỳ chỉ đạo của ai, không được đẩy bất kỳ
vấn đề gì cho ai hay cấp nào khác mà không đưa ra chính kiến
của mình. Chủ tịch hay Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ là
nơi tập hợp, tổ chức, đưa ra khuyến nghị, hoàn toàn không
phải cấp trên định hướng nghị sỹ; kỳ họp quốc hội
cũng chỉ là nơi thông qua Dự luật, thực hiện "phép cộng"
tất cả nghị sỹ. Thử hình dung sự kiện Hạ viện Đức
trước kỳ nghỉ 2 tháng dịp hè thu năm ngoái, với 631 nghị
sỹ trong vòng 2 phiên họp 27 và 28.7.2013 đã thông qua tới 143
Dự thảo Luật và nghị quyết. Liệu năng suất ban hành văn
bản lập pháp đó có đạt nổi, nếu nghị sỹ hễ cứ vướng
là phải chờ ý kiến của ỦBTV Quốc hội, không thể quyết
định như ở ta trường hợp trên. Một khi văn bản lập pháp
thiếu và yếu, thì lẽ dĩ nhiên, nhà chức trách sẽ không thể
hành xử khác, cứ như cũ mà làm, hoặc hành xử theo nhận
thức chủ quan, chưa nói đến động cơ vụ lợi – đó chính
là bản chất của trì trệ thể chế.
Công nghệ làm luật ở nước nào cũng do từng nghị sỹ tham
gia, sản phẩm hiện đại hay không tùy thuộc chính họ. Sở dĩ
quyền im lặng bị Dự luật từ chối thể chế hoá, bởi như
Đại biểu quốc hội Đỗ Văn Đương, thành viên Tổ biên
tập, trả lời trên VTV khẳng định sai cả khoa học pháp lý,
"Quyền im lặng không phải quyền con người". Và dẫn liệu
"ở các nước nếu quy định thì cũng khuyến cáo người bị
bắt nên thành khẩn khai báo", cũng lại hoàn toàn sai thực
tế nốt, bởi khuyến cáo đó mâu thuẫn với bản chất quyền
im lặng nên họ có muốn cũng không thể thực hiện cùng lúc
vô nghĩa như vậy. Do hiểu sai bản chất về quyền im lặng,
nên Đại biểu Đỗ Văn Đương đã hy sinh quyền cơ bản vốn
cấu thành con người được coi là mục đích, để nhằm thực
hiện công việc điều tra truy tìm tội phạm có kết qủa vốn
chỉ là phương tiện phục vụ lại quyền và lợi ích người
dân: "việc quy định quyền im lặng của bị can (mục đích)
sẽ cản trở hoạt động điều tra trong việc truy tìm xử lý
tội phạm (phương tiện)". Để lý giải việc hoán đổi vị
trí giữa mục đích và phương tiện, Đại biểu Đỗ Văn
Đương đưa ra tình huống bất bình thường thay cho bình
thường: "nếu quá chú trọng vào lợi ích của nhà nước thì
quyền của người dân sẽ bị vi phạm, ngược lại nếu mở
rộng quá nhiều quyền dẫn tới tùy tiện thì lại gây ra
nhiều khó khăn, trở ngại cho công tác điều tra, giải quyết
vụ án". Luật sinh ra được áp dụng đại trà trong điều
kiện bình thường nên không thể xây dựng dựa trên các tình
huống bất bình thường "quá chú trọng" hay "mở rộng quá
nhiều quyền dẫn tới tùy tiện" vốn một khi xảy ra sẽ
được điều chỉnh bởi luật áp dụng cho tình huống khẩn
cấp đó; như khi thiết quân luật, một số quyền cơ bản có
thể bị bãi bỏ, nhưng không vì thế mà người ta không hiến
định những quyền đó. Cách phản biện sai tiêu thức trên
thường thấy trong trao đổi học thuật ở ta làm cho những
vấn đề tranh cãi dẫm chân tại chỗ, trầm trọng thêm tình
trạng trì trệ thể chế.
Quốc hội Đức từng thông qua luật cho phép bắn hạ máy bay
chở khách bị khủng bố cướp, nhưng may tới rào cản Toà án
Hiến pháp thì bị chặn lại với lý do, Hiến pháp quy định
mọi người đều bình đẳng, nên không thể hy sinh tính mạng
người này để cứu người khác. Còn Dự thảo bác bỏ quyền
im lặng ở ta liệu những rào cản nào có thể chặn lại? Khi
mà nó phủ định một quyền cơ bản mang tính phổ quát thế
giới, và vụ án oan điển hình phạt tù chung thân Nguyễn Thanh
Chấn tội giết người chỉ bởi thiếu quyền im lặng, vẫn
đang nhức nhối dư luận bấy nay.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141015/ts-nguyen-sy-phuong-quyen-im-lang-nguyen-ly-va-cong-nghe-thuc-thi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét