Ở thế kỷ 18 các triết gia như Locke, Hobbes đều cho rằng
việc hình thành quyền lực quốc gia xuất phát từ sự trao
quyền tự nguyện của người dân cho nhà cai trị dựa trên
"Khế ước xã hội" mặc nhiên. Thuở sơ khai loài người
sống hợp quần thành các cộng đồng nhỏ, hoặc theo bầy
đàn, hoặc theo bộ tộc. Sự tư hữu tài sản xuất hiện đã
khiến một nhóm thiểu số trong cộng đồng nảy sinh ý định
và thực hiện hành động thâu tóm quyền lực trên số đông
cư dân. Thêm vào đó chiến tranh giữa các bộ tộc khiến một
cộng đồng phải tự kiện toàn sức mạnh nội tại thông qua
một tổ chức quản lý chặt chẽ để điều khiển bộ máy
chiến tranh của cộng đồng ấy, cũng là yếu tố giúp hình
thành nên quyền lực quốc gia.
Theo triết gia Aristotle và Rousseau, khi kết hợp với một hoặc
nhiều người để tạo thành cộng đồng xã hội, con người
đã hy sinh sự tự do tuyệt đối của cá nhân nhằm đổi lấy
một sự tự do khác, và sự tự do này bị hạn chế hơn trong
khuôn khổ một loại pháp luật vốn khởi đầu bằng các giao
ước, từ đó dẫn đến nhu cầu về một thực thể đủ
quyền lực điều hành cộng đồng xã hội với mục đích bảo
đảm phúc lợi và tự do cho mọi người dân trong cộng đồng
đó.
Như vậy, con người đã miễn cưỡng từ bỏ quyền tự do
nguyên thủy để nhận được quyền tự do hạn chế hơn, thông
qua việc nhượng lại nhiều quyền cho một thực thể khác mang
tên "chính quyền". Thực thể này ấn định những điều
được mọi người trong cộng đồng "thỏa thuận", mà
Rousseau gọi đó là "Khế ước xã hội". Trên cơ sở đó
một bộ máy chính quyền được hình thành dưới sự điều
khiển của ý nguyện chung trong toàn dân, do đó toàn dân có
chủ quyền tối cao, còn những người nắm chính quyền chỉ là
những nhân viên được trả lương để thực hành giao ước
trong "Khế ước xã hội".
Trong xã hội văn minh "Khế ước xã hội" hiện diện dưới
dạng Hiến pháp, do quốc hội lập hiến biên soạn và được
toàn dân thông qua. Tuy nhiên, lòng tham của con người là vô
hạn trong khi quyền lực lại mang đến quyền lợi, nên những
người nắm quyền thường lạm dụng quyền hành và thâu tóm
quyền lực nhằm tư lợi riêng. Để hạn chế tình trạng này,
những người soạn thảo hiến pháp đã cân nhắc cần trao
quyền lực tương xứng cho những người đã ủy thác quyền cho
chính quyền bằng cách trao cho họ quyền phủ quyết nhằm thi
hành cưỡng bức, và thu hồi quyền lực qua các cuộc bầu cử
tự do, trường hợp nếu chính quyền không chịu từ bỏ quyền
lực đã bị nhân dân thu hồi qua bầu cử hoặc các hình thức
khác trong ôn hòa thì "khế ước xã hội" đó vô tình đã
bị chính quyền giũ bỏ, cũng như một hợp đồng xã hội đã
bị xé bỏ nhân dân không cần phải tôn trọng nó nữa và họ
có quyền lập nên chính quyền khác bằng các cuộc cách mạng
hoặc thay thế những viên chức không còn được ủng hộ thông
qua đảo chánh.
Trong lịch sử Việt Nam qua các chế độ chính trị, suy cho cùng
người dân chưa từng làm chủ đất nước của mình, trái lại
họ chỉ là nô bộc và nạn nhân của quyền hành chính trị.
Đặc biệt dưới chế độ cai trị của Đảng cộng sản,
quyền lực của nhân dân càng bị chế tài. Đảng cộng sản
Việt Nam dùng điều 4 trong hiến pháp để khẳng định quyền
lãnh đạo của đảng bởi theo lập luận của Lenin: "vì
đảng là đảng của giai cấp tiên phong nên đương nhiên có
quyền lãnh đạo đất nước mà không cần sự đồng ý của
quần chúng thông qua bầu cử.".
Hơn nữa các nhà lý luận của chế độ cộng sản tại Việt
Nam đã cố tình nhập nhằng quan niệm về chế độ chính trị
với quốc gia dân tộc để biện minh sự duy trì quyền lực
độc tôn của đảng cộng sản và dễ dàng bắt dân chúng
phục tùng. Hiến pháp và quốc hội trở thành công cụ để
đảng cầm quyền nhân danh toàn dân để áp đặt ý chí riêng
của mình lên toàn xã hội.
Bản hiến pháp gần đây được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp
thứ 6, thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại Chương V, Điều
69, quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.". Có một số vấn đề
cần suy ngẫm.
Thứ nhất nếu quả thật Quốc hội là cơ quan đại biểu của
nhân dân thì tại sao Quốc hội không có lấy một nhân vật
nào không phải là thành viên của Đảng cộng sản hay thực
chất quốc hội này chỉ là cơ quan đại diện của Đảng
cộng sản mà thôi? Điều này dẫn đến quyền phủ quyết của
cơ quan hành pháp trở nên vô nghĩa khi trao cho thủ tướng, vì
thủ tướng do đa số trong quốc hội bầu ra nên dĩ nhiên không
thể bác bỏ một điều luật nào do quốc hội thông qua.
Thứ hai, nếu Quốc hội là cơ quan duy nhất vừa có quyền lập
hiến, lập pháp vừa có quyền sửa đổi hiến pháp, sửa đổi
luật trong khi chính hiến pháp là bản khế ước khởi sự khai
sinh ra quyền lực của chính quyền thì việc chính quyền thông
qua Quốc hội tự ban hành và sửa đổi nó liệu có mâu thuẫn
với nhau không? Quốc hội tạo ra những công cụ là các điều
khoản trấn áp, cưỡng chế sự phục tùng dân chúng đối với
chế độ để bảo vệ lợi ích cho họ là việc hiển nhiên.
Để giải thích vì sao Việt Nam không có quốc hội lập hiến
họ đã trưng ra lý do vì điều kiện chiến tranh nên chính
quyền cộng sản đã xác nhập hai Quốc hội lại. Tuy nhiên
gần 40 năm trôi qua vẫn không hề có một sự thay đổi nào
nữa trong thủ tục lập hiến. Trưng cầu dân ý hay những gì
tương tự như thế đều mang tính hình thức.
Một ví dụ điển hình là sự kiện sửa đổi hiến pháp năm
2013 vừa qua. Nếu tồn tại thực sự "người dân làm chủ
đất nước" rõ ràng điều 4 đã không còn nằm trong hiến
pháp nữa... Ở những nước văn minh, chỉ có Quốc hội lập
hiến mới có quyền lập hiến. Quốc hội này do nhân dân trực
tiếp bầu chọn ra những vị đại diện cho họ theo từng vùng
và Quốc hội này chỉ có chức năng soạn thảo hiến pháp.
Quốc hội đã không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
nó bởi vì mọi hoạt động đều bị Đảng cầm quyền chế
tài. Trong khi quốc hội chỉ là bù nhìn thì chúng ta thử xét
xem chính quyền cộng sản đã thực hiện đúng chức năng của
nó hay chưa? So sánh chính quyền cộng sản Việt Nam với các
chính quyền hợp pháp và hữu hiệu trong tổng quan về ba chức
năng của chính quyền, ta dễ dàng nhận thấy:
• Chính quyền không thực hiện được chức năng giữ gìn an
ninh trật tự, bảo vệ tự do, tài sản và tính mạng của
người dân. Một vài ví dụ cử thị là: Trường hợp của cô
Thúy Nga, nhà cô thường xuyên bị công an rải truyền đơn đe
dọa truy sát và đốt nhà kèm theo những lời tục tĩu. Cô cho
biết tất cả những lần như thế cô đều làm đơn trình báo
với lực lượng công an nhưng bị công an làm ngơ, ngày
10/06/2014 cô bị an ninh mật vụ mặc thường phục, đeo khẩu
trang dùng gậy sắt đánh gãy tay và chân. Trường hợp của anh
Trịnh Xuân Tình là một người bán hàng rong, bị dân phòng và
Trật tự quản lý đô thị phường 25, quận Bình Thạnh còng
tay và đánh dã man đến ngất khi đang bán hàng sáng ngày
9/12/2013. Một ví dụ điển hình khác về việc chính quyền
cộng sản không thể thực hiện chức năng bảo vệ tự do, tài
sản, tính mạng của người dân là những cái chết bí ẩn
trong đồn côn an như chị Trần Hải Yến chết trong đồn công
an Phú Yên (tháng 10/2013), ông Trần Văn Tân chết tại đồn
công an xã Kim Xuyên - Kim Thành - Hải Dương (01/2013), anh Đỗ
Văn Bình chết tại nhà tạm giam Công an Huyện Hòa Vang - Đà
Nẵng (04/2014). – theo Rfa đưa tin.
• Chính quyền không bảo đảm thực hiện chức năng phục vụ
phúc lợi xã hội: tỷ lệ trẻ em nhóm 6 – 17 tuổi không
được đi học chiếm con số khá cao gần 10% – theo báo cáo
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (ILSSA) Việt Nam năm
2012. – Bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều vấn đề bất
cập khác như không có cầu bắc qua sông Re, suối Nậm Pồ
người dân phải đu dây thừng thay thế, hay chui vào túi nilon
đầy mạo hiểm, hay chuyện những cây cầu kém chất lượng
không biết cướp đi biết bao nhiêu sinh mạng người dân trong
các vụ sập cầu ở Cần Thơ, Lai Châu...
• Chính quyền không thực hiện được chức năng bảo vệ
quyền lợi dân tộc và lãnh thổ trước cộng đồng quốc tế.
Nhà cầm quyền đã tỏ ra lúng túng khi Trung Quốc tuyên bố về
đường lưỡi bò và càng lúng túng hơn khi Trung Quốc đưa giàn
khoan HD-981 vào hoạt động ở vùng thềm lục địa Việt Nam
ngày 02/05/2014. Phản ứng của nhà cầm quyền quá yếu ớt nếu
như không muốn nói là vô hiệu. Thay vì đưa ra những biện
pháp hữu hiệu như kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, thì
nhà cầm quyền lại ngăn cản quyền tự do ngôn luận bằng
cách bỏ tù những người có những bài viết được cho là
nhạy cảm với quan hệ ngoại giao Việt – Trung như Nguyễn
Hữu Vinh có nick name là Anh Ba Sàm, những cuộc biểu tình chống
Trung Quốc từ năm 2007 đến năm 2014 cũng bị ngăn chặn và
đàn áp. Cho đến nay, nhà cầm quyền vẫn không có một động
thái nào được cho là tích cực. Công hàm năm 1958 của thủ
tướng Phạm Văn Đồng lại càng chứng minh rõ ràng hơn về
sự bất lực không thể thực thi chức năng của nhà cầm
quyền ngay từ đầu với nội dung chuyển nhượng lãnh thổ,
thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc.
Ngoài ra, gần đây nhiều lãnh đạo trong quân đội nhân dân
Việt Nam và người dân đòi hỏi việc minh bạch hóa một hội
nghị được tổ chức tại Tứ Xuyên – Trung Quốc vào năm
tháng 9/1990 đó là hội nghị Thành Đô. Theo đài RFA (ngày
8/06/2014) hội nghị này liên quan đến vận mệnh quốc gia dân
tộc nhưng bị lại bưng bít, tài liệu về nó rất hiếm, tờ
Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã đã công bố "Kỷ yếu hội nghị",
nội dung như sau: "Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng
Chủ nghĩa Cộng sản, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam
đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng
giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ cố gắng hết sức mình để
vun đắp tình hữu nghị vốn lâu đời vốn có giữa hai đảng
và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ
Tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây đắp trong quá khứ. Và
Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu
vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh , như
Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….".
Trung quốc chấp thuận đề nghị này và cho Việt Nam thời hạn
30 năm để sát nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Vậy mà nhà cầm
quyền vẫn chọn giải pháp im lặng chưa thể hiện thái độ
hay giải thích nào về công bố này.
Như vậy, chính quyền cộng sản vừa không thể thực hiện các
chức năng cơ bản của nó, vừa lãng phí tài nguyên quốc gia,
làm tiêu tốn tiền của của nhân dân và còn là mối hiểm
họa để đất nước bị bắc thuộc.
Khi chính quyền hiện tại đã không còn hữu dụng và người
dân không thể trao "khế ước xã hội" cho chính quyền
được nữa mà họ vẫn cố thủ bám víu vào quyền lực bằng
đủ mọi phương cách thì người dân phải làm gì? Triết gia
Rousseau cho rằng người dân có quyền làm cách mạng để bảo
vệ ý nghiã ban đầu của "Khế ước xã hội" và có quyền
lập nên một chính quyền khác hợp pháp và hữu dụng hơn.
Một chính quyền hợp pháp và hữu dụng là một chính quyền
phải được tạo nên trên nền tảng là sự ưng thuận của
toàn dân và chính quyền đó phải đảm bảo thực hiện được
các chức năng của nó. Có phải đã đến lúc chúng ta cần tỏ
rõ thái độ với nhà cầm quyền?
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141003/nguyen-phuong-uyen-quyen-dan-quyen-nuoc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét