Nguyễn Hưng Quốc - Viết cho ai?

Người cầm bút viết cho ai? Thì cho người đọc! Câu trả lời
thật đơn giản. Tưởng không ai có thể nói điều gì khác hơn
được. Nhưng vấn đề sẽ trở thành vô cùng phức tạp nếu
chúng ta hỏi tiếp: Người đọc là ai?

<center><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhUqHTOmY2FEKW_G8EfaPMa3YffyJnxyGCVJwif4Zg6Qt-H8A0USUCiaimxAmgm1bhQM-0-UMuDS-3e3ySWQQoI9iwlwfk3K4Ab7l_2E7ETErMsYUmn-vX1GH-BHaUKvKcjmTP8_eWVzw/s1600/writting-machine.jpg"
width="560" /></center>

Phức tạp vì thật ra không có cái gọi là người đọc chung
chung và muôn thuở. Khái niệm "người đọc" chỉ là một cái
gì rất mới, một sản phẩm của xã hội hiện đại, hơn
nữa, ngay trong xã hội hiện đại, khái niệm "người đọc"
cũng chỉ là một khái niệm hàm hồ, và vì tính chất hàm hồ
ấy, nhiều người đã lợi dụng nó cho những trò chơi đầy
gian lận.

Xin đừng quên là ở Việt Nam, trước thế kỷ 20, do sự kiểm
soát của vua chúa quá nghiêm ngặt, do điều kiện kỹ thuật
lạc hậu, do nền kinh tế nghèo nàn và cũng do nhiều yếu tố
tâm lý và văn hoá khác, số lượng tác phẩm được khắc in
rất hiếm. Có, nhưng hiếm. Cũng có cả trường hợp người ta
mang tận sang Trung Quốc để thuê in nhưng trường hợp ấy lại
càng hiếm. Hình thức tồn tại phổ biến nhất của các tác
phẩm văn học, dù bằng chữ Nôm hay chữ Hán, là dưới dạng
viết tay. Tất cả tác phẩm của những cây bút được xem là
đại thụ của văn học Việt Nam thời trung đại, từ Nguyễn
Trãi đến Nguyễn Du, từ Đoàn Thị Điểm đến Hồ Xuân
Hương, đều được viết tay. Những bản khắc in mà chúng ta
sưu tầm được hiện nay thường xuất hiện rất muộn sau khi
tác giả đã mất. Muộn có khi đến cả mấy thế kỷ.

Người ta làm gì với các bản viết tay ấy? Thường là để
tặng bạn bè hoặc "để ở nhà thờ", tức là để cho con cháu
chuyền cho nhau đọc. Hoạ hoằn cũng có trường hợp người ta
dâng lên vua chúa, chắc là với hy vọng sẽ được lọt vào
mắt xanh của vua chúa, từ đó, may ra, được trọng dụng hoặc
được triều đình tài trợ cho việc khắc in. Nhưng dù thế
nào đi nữa thì số người thực sự đọc các tác phẩm viết
tay ấy cũng vô cùng ít ỏi. Ít ỏi đến độ không thành một
"giới", như chữ "giới độc giả" chúng ta hiện đang dùng.

May mắn, phần nhiều những người đọc ít ỏi ấy lại là
những người ưu tú trong xã hội thời bấy giờ. Do vị thế
xã hội, chính trị và văn hoá của họ, những người đọc
ấy có thể tác động đến quần chúng, những người chỉ nghe
tác phẩm, hoặc thậm chí, chỉ nghe-nói-về-tác-phẩm, để tác
phẩm ấy dần dần trở thành một thứ tài sản văn hoá của
cả xã hội và của lịch sử. Có thể nói hầu hết những tác
giả trung đại còn lưu danh đến ngày nay chủ yếu là nhờ sự
"tiến cử" của số người đọc ít ỏi này. Chứ không phải
là quần chúng. Chẳng có quần chúng nào được đọc những
Ức Trai thi tập hay ngay cả Quốc âm thi tập lúc Nguyễn Trãi
còn sống. Cũng chẳng có quần chúng nào được đọc những
Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp
lục hay ngay cả Truyện Kiều lúc sinh thời của Nguyễn Du. Một
phần vì họ không biết chữ. Phần khác, ngay cả khi họ biết
chữ, họ cũng không đọc được: không phải ai cũng có cơ
hội cầm được trong tay những bản chép tay hiếm hoi ấy. Do
đó, thời trung đại, quần chúng bao giờ cũng là những kẻ
đến muộn, khi mọi giá trị đã được khẳng định một cách
chắc chắn. Nói cách khác, quần chúng chỉ biết những tác
giả ĐÃ nổi tiếng rồi mà thôi.

Độc giả, với tư cách một tầng lớp xã hội cũng như với
tư cách một trong những thành tố quan trọng làm nên sinh hoạt
văn học chỉ thực sự xuất hiện khi ngành báo chí và xuất
bản đã phát triển. Khi thơ văn trở thành một thứ hàng hoá,
người đọc mới có cơ hội làm một thứ khách tiêu thụ,
những người, thứ nhất, có thói quen đọc sách khá đều
đặn, ít nhất trong một thời gian nào đó; thứ hai, giữ một
khoảng cách nhất định với tác giả, chỉ tiếp xúc với tác
phẩm và, trong phần lớn các trường hợp, thưởng thức tác
phẩm như một công trình nghệ thuật thuần tuý. Một tầng
lớp độc giả như thế chỉ có thể thực sự ra đời tại
Việt Nam vào đầu thế kỷ 20.

Trong mấy thập niên đầu, khối độc giả ấy tương đối
thuần nhất. Trong khi chưa có những tài liệu xã hội học văn
học cụ thể, chỉ dựa vào những kiến thức lịch sử và văn
hoá chung chung, chúng ta cũng có thể hình dung đại khái diện
mạo của tầng lớp độc giả mấy chục năm đầu tiên của
thế kỷ 20, như độc giả của Tản Đà chẳng hạn, như sau:
đại đa số đó là những công chức cấp trung từ quận,
huyện lên đến tỉnh, thành; đó cũng là những trí thức đã
học chữ Hán một thời gian rồi sau đó chuyển sang học tiếng
Pháp và chữ quốc ngữ; những người ở buổi giao thời của
hai nền văn hoá Đông và Tây. Họ có chút vốn Hán học đủ
để có thể cảm thụ những tác phẩm được sáng tác theo hệ
mỹ học của thơ Đường, thơ Tống; hơn nữa, để tự xem
mình không phải chỉ là kẻ tiêu thụ mà còn là một thứ tri
âm của tác giả, từ đó, dẫn đến những hành động liên
tài đầy ưu ái như hành động của nhiều người đối với
Tản Đà. Họ lại có chút vốn Tây học để dễ dàng đồng
cảm và ủng hộ một số tìm tòi, từ phương diện thể loại
đến phương diện ngôn ngữ và tư tưởng của các tác giả
hiện đại như Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, v.v...

Độc giả thuộc thế hệ 1932-45 cũng tương đối thuần nhất.
Hầu hết đó là những thị dân và trí thức. Dù thuộc giới
nào thì họ cũng đều khá trẻ. Tôi cho đây là một sự may
mắn lớn cho nhóm Tự Lực văn đoàn và phong trào Thơ Mới. Nói
cách khác, theo tôi, lý do chính khiến nhóm Tự Lực văn đoàn
và phong trào Thơ Mới thành công một cách dễ dàng và nhanh
chóng trong việc đánh bại nền văn học cũ không phải chỉ ở
tài năng của họ mà còn nhờ họ gặp được một tầng lớp
độc giả lý tưởng. Đó là những người đang hăm hở với
cái mới và đã từng ít nhiều được làm quen với cái mới
qua các tác giả hiện thực và lãng mạn chủ nghĩa trong văn
học Pháp thế kỷ 19 từ trong ghế nhà trường. Với một kiến
thức văn học và một quan điểm mỹ học như thế, họ không
hề có chút ngỡ ngàng gì khi tiếp cận với các tác phẩm
được xem là cách mạng của các cây bút tiên phong thời bấy
giờ ở Việt Nam. Họ yêu thích ngay cái vẻ lẳng lơ táo bạo
của Thế Lữ, sự cuồng nhiệt mang dáng dấp Tây phương của
Xuân Diệu, sự phê phán gay gắt của Nhất Linh và Khái Hưng
đối với chế độ đại gia đình và lễ giáo phong kiến, lời
kêu gọi theo mới, "hoàn toàn theo mới không chút do dự" của
Hoàng Đạo, v.v...

Có thể nói các cây bút tiên phong thời 1932-45 không cần chinh
phục độc giả: những người vốn là những độc giả của
Hugo, của Lamartine, của Baudelaire trong các nhà trường trung học
theo chương trình giáo dục của Pháp đã chờ đợi sẵn để
làm những độc giả nhiệt thành của các cây bút Việt Nam.
Sự đồng cảm gần như tức khắc giữa các tác giả và độc
giả của họ thời 1932-45 là sự đồng cảm của những người
học cùng một thầy, cùng được trang bị một số tiền đề
văn hoá và thẩm mỹ khá giống nhau. Họ đã là những tri âm
của nhau ngay cả trước khi động tác đọc được khởi sự.

Các thế hệ cầm bút sau này không còn bao giờ được hưởng
những sự may mắn như thế nữa.

Như thế hệ nhà văn sau năm 1954 ở cả hai miền Nam và Bắc,
chẳng hạn. Ở cả hai miền, sau năm 1954, chương trình giáo
dục các cấp đều được Việt hoá. Sự thay đổi này là
điều hoàn toàn hợp lý. Người ta không thể phản đối và
cũng không nên tiếc nuối. Tuy nhiên, ngay cả khi rất mực hợp
lý, sự thay đổi ấy cũng có cái giá của nó. Ví dụ, trong
bộ môn văn học, tuy học sinh và sinh viên có cơ hội đào sâu
hơn về văn học Việt Nam, nhưng kiến thức về văn học thế
giới, cụ thể là văn học Pháp, sẽ mỏng hẳn đi. Hậu quả
là, thứ nhất, học sinh và sinh viên - và cũng là người đọc
nói chung - thường biết khá kỹ về văn học trong quá khứ
nhưng lại rất lờ mờ và đầy hoang mang đối với nền văn
học đương đại; thứ hai, từ đó, người đọc luôn luôn đi
sau giới sáng tác, nhất là những người sáng tác có nhiều
khát vọng cách tân, thích phiêu lưu vào các sự tìm tòi và
thử nghiệm mới mẻ. Điều này, theo tôi, có thể là nguyên
nhân chính làm cho một số cây bút tiên phong của Việt Nam trong
nửa thế kỷ vừa qua cảm thấy khá lạc lõng và vì cảm giác
lạc lõng ấy mà hầu hết, kẻ sớm người muộn, dần dần
bỏ cuộc.
Độc giả Việt Nam sau năm 1954 không những bị đánh mất cơ
hội song hành với những cây bút tiên phong mà còn bị phân hoá
nghiêm trọng. Phân hoá về tuổi tác: nhờ các phong trào xoá
nạn mù chữ, nhờ chính sách cưỡng bách giáo dục và nhờ hệ
thống phát hành cũng như hệ thống thư viện được mở rộng,
độc giả không còn dừng lại ở lứa tuổi thanh niên hay trung
niên như thời 1932-45 mà xê xích từ chín, mười tuổi đến
bảy, tám chục tuổi. Phân hoá về tầng lớp xã hội: cũng
nhờ các yếu tố kể trên, độc giả văn học hiện nay không
phải chỉ giới hạn ở thành thị và trong giới tiểu tư sản
mà còn mở rộng đến nông thôn, lan xuống tận những thành
phần bần cùng nhất. Ngoài ra, còn có sự phân hoá về văn
hoá: xưa, chúng ta chỉ chịu ảnh hưởng văn hoá của Trung Hoa,
sau, của Pháp; hiện nay, ngoài hai nền văn hoá ấy, một số
không ít độc giả còn chịu ảnh hưởng của Nga, của các xứ
Đông Âu và các quốc gia nói tiếng Anh, v.v...

Sự phân hoá trầm trọng ấy làm cho khái niệm "độc giả"
trở thành rộng rãi đến độ vô nghĩa. Làm thế nào để chữ
"độc giả" có thể bao gồm cả một em bé ngồi đọc truyện
tranh với một ông lão miệt mài bên cạnh các trang sách Hán
Nôm? một chị bán vải ngoài chợ khi nào rảnh thì đọc tiểu
thuyết khi nào khách tới thì nhét cuốn tiểu thuyết xuống
đít với một người để hết cả tâm hồn của mình vào âm
vang của từng chữ, vào sự chuyển động của từng hình ảnh
trong thơ? một người lâu lâu mới đọc một cuốn sách và
cũng chỉ đọc một cách ơ hờ với một kẻ nghiền ngẫm cả
hàng ngàn cuốn sách và mỗi lần đọc là một lần nghĩ ngợi,
đào sâu, so sánh, cân nhắc? Tất cả hầu như chỉ giống nhau
ở mỗi một động tác: đọc. Là hết. Còn cách đọc của
họ, mục tiêu đọc của họ, những sự tương tác xuất hiện
trong quá trình đọc của họ, mức độ cảm thụ của họ thì
khác hẳn nhau.

Sự phân hoá của khái niệm độc giả cũng làm cho không
người nào còn có thể hy vọng trở thành thần tượng của
mọi độc giả được nữa. Không ai có thể làm thoả mãn mọi
thị hiếu và mọi trình độ thẩm mỹ của khối đông đảo
lên đến cả mấy chục triệu người gọi là "độc giả"
Việt Nam hiện nay. Thành ra, trong thời đại hiện nay, nhà văn
nào cũng là nhà văn của một giới độc giả nhất định: ví
dụ, có người viết cho thiếu nhi; có người viết cho người
lớn. Cho người lớn, có người nhắm vào những độc giả
chỉ đọc để giết thì giờ; có người nhắm vào những độc
giả đọc vì một nhu cầu thẩm mỹ.

Viết cho hạng độc giả thích những lý tưởng thẩm mỹ ổn
định không khó. Những lý tưởng thẩm mỹ ấy đã thành quy
phạm và khuôn sáo rồi. Người ta chỉ cần có chút tài hoa
để mô phỏng một bậc thầy nào đó. Người đọc thích
những câu thơ tình tứ và mộc mạc như ca dao ư? Thì họ mô
phỏng theo thơ Nguyễn Bính. Người đọc thích những tiểu
thuyết vạch trần những mặt trái xấu xa dơ dáy của hiện
thực ư? Thì họ mô phỏng theo cách viết của Nguyễn Công Hoan
hay Vũ Trọng Phụng. Vân vân. Cứ thế, để tiếp cận được
với hạng độc giả này, người cầm bút phải quá giang các
tác giả lớn thời trước. Quá giang Nguyễn Du rồi quá giang
Xuân Diệu. Quá giang Nhất Linh rồi quá giang Nam Cao. Có điều,
con đường đến với hạng độc giả này cũng là con đường
đi ngược về quá khứ. Về một thời đã qua.

Như vậy, người cầm bút không thể viết cho toàn thể người
đọc, cho "độc giả" nói chung. Đó là điều bất khả. Người
cầm bút cũng không nên ăn theo những độc giả của người
khác. Đó là con đường rất ít tính sáng tạo. Người cầm
bút chỉ có một con đường để lựa chọn: viết cho những
độc giả của mình.

Nhưng những độc giả ấy ở đâu? Không ai biết chắc cả.
Họ không có sẵn như một lực lượng. Họ rải rác đâu đó,
nằm mai phục trong đám đông vô danh và vô hình. Họ được
tập hợp một cách tự động và tự phát theo tín hiệu phát ra
từ một tác giả nào đó mà họ cho là đồng điệu.
Lịch sử văn học, nhìn từ một góc độ nào đó, một phần
là lịch sử vận động của các nhóm độc-giả-đồng-điệu
như thế. Sự tồn tại của một tác phẩm lớn không phải
chỉ là sự chiến thắng của một tài năng sáng tạo mà còn
là sự chiến thắng của một hệ thẩm mỹ, và đồng thời là
sự chiến thắng của một nhóm độc-giả-đồng-điệu nào
đó.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141031/nguyen-hung-quoc-viet-cho-ai),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét