<center><img
src="http://nghiencuuquocte.net/wp-content/uploads/2014/10/329295_US-Jews.jpg"
width="600"></center>
<em><strong>Bài liên quan: <a
href="http://nghiencuuquocte.net/2014/10/09/tim-hieu-israel-va-dan-toc-do-thai/">Tìm
hiểu Israel và dân tộc Do Thái</a></strong></em>
Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe
từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là
người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi
sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do
Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị.
Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ,
rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều
người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng,
củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết
thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số
các định kiến một chiều, phiến diện.
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm
hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới,
nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian,
hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ
số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với
chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ
chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có
IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
2. Phải chăng người Do Thái có "gien" thông minh hơn người
và "gien" này được lưu giữ và truyền từ đời này qua
đời khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên
cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái
lại "bác bỏ" điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái
thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải
nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi
với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
3. Nếu như có "gien" Do Thái như vậy thì "gien" này
được "lưu giữ" và phát triển ra sao từ thời "Cụ
Tổ" của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị
ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông
Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo
gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên
tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn
dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và
đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác
để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do
Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do
Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có
một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn
Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung
Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế
ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
4. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel,
Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía
Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết
liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu
vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma,
Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven
biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với
Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người
Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm
lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn
giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng
của mình.
Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị
đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại
"thoát" được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải
qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập
thể trong quá khứ)? Vậy họ đã "thoát" bằng cách nào?
5. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và
tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời?
Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh
vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công
nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết
biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do
Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người
bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu
chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số.
Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần
như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên
tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học
này là "ngành khoa học Do Thái".
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện
học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam,
cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công
đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa
để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt
đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski
và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại
là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm
được chuyện đó?
6. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất,
sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc,
tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái
không?
7. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do
Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói
quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy
trì tập tục, bản sắc và "nòi giống" Do Thái?
8. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công
và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại
không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia
khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?
9. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ "Phục
quốc" năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc
gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel,
họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất
nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu
trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4
dân số) trở về "cố quốc". Mỹ, Australia, Canada cũng là
quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng
kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ
dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ
nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái
không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập
vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực
hiện ra sao?
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là
mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm
bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số "thói hư, tật
xấu" của người Do Thái) có thể học được không và áp
dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế,
đất nước…)?
<strong>Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc</strong>
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số
20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel
rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy
nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền
nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên
phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa
học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ
công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản
xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ
rất cao. Có lẽ dùng từ "nông dân" đối với họ là không
chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự
kết hợp chặt chẽ giữa 4 "Nhà", gồm: (i) Nhà nước; (ii)
Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. "Nhà nông" ở
đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia
trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông
nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ.
Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo
thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử
dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc,
nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất
nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo
đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy
trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc,
sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m;
(iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước
khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv)
Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất
nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư)
để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy
nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và
quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ
thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới.
Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm
xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các
đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng
khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa
qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới,
lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ
sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư
nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn
phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn
trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây
trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt..) là những loại cây trồng có
năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện
thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh
nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây
tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất
sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu
hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất
lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng
chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả
nhiệt đới "trái vụ" khi châu Âu bước vào mùa đông nên
hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển
và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta
cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê
hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung
Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản
xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát
triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực
tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao
động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam
chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia
đình, vợ con, thì khá nhiều "lao động" Thái là các "tình
báo" nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông
trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và
sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức
"khổ nhục kế", âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh
doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho
mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các
bạn trẻ.
<strong>Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng
Hebrew</strong>
Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần
nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không
thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel
El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu
được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ
Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5)
của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ
7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do
Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng
đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển
Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với
động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang,
trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho
tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người
tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng "Khi tôi mới
đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng
1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc
tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà
ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa". Dan ngửa mặt
cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các
cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị
trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu
sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như
một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn
thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh
mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại
giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy
phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của
chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để
"Sếp" cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế
nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK.
Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân
thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do
(free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng
giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là
cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về
nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của
dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn
Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc
và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác
như "gien" và tố chất thông minh của người Do Thái; tính
hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ
chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành
mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng
thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị
xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng
nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được
theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một:
<em>Thứ nhất,</em> Israel là đất nước duy nhất trên thế
giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái
là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái,
và (iv) Đất nước Do Thái.
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi
nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra
đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách
đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên
Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra
đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ
1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy
nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ
trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho
rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh
được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng
điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo
của họ "dân chủ" hơn do không bị phân tán, mất bớt
quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5
tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do
Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền
đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và
khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều
này, tin vào "sứ mạng" được Chúa giao phó. Đây có lẽ là
động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt
đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ
"dẫn dắt" nhân loại như họ nghĩ đã được "Chúa lựa
chọn". Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ
thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ
không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có
của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ
không phải mục đích mà họ theo đuổi.
<em>Thứ hai,</em> trong bất kỳ tôn giáo nào, tính "Giáo
điều" đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ.
"Giáo điều" là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh
hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng,
không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại
rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn
Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các
vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các
vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để
suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có
nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm
chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng
tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm
gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong
gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi
trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng
lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.
<em>Thứ ba,</em> các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống
như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các
"Giáo điều". Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7
là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể
cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những
ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái
(Sabbath) được xem là ngày "nghỉ tuyệt đối", theo đó Chúa
khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau,
cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng "yêu" nhau, gia đình
cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi
người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có
nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn "đi làm") và
ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang
máy trong các cao ốc cũng để "chế độ Sabath", tức người
Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của "làm việc"),
mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng
một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà.
Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều
ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm
việc trong tuần theo tuần tự là các ngày "sáng tạo", chứ
không phải ngày "đi làm".
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
<ul> <li>Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động
cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm
hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau
này;</li> <li>Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên
trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và
giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau
đến nhà thờ);</li> <li>Là cơ sở của việc đấu tranh giành
quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau
này, cũng như quyền của động vật;</li> <li>Vợ chồng "sản
xuất" em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa
trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.</li> </ul> <strong>Người Do
Thái coi trọng chuyện học hành</strong>
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ
nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm
đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết
đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một
số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực
hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy
đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ
cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn
mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay,
điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối
cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm
chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống
này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân
khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì
đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do
Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời
cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên,
người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò
nổi trội là các thương gia biết tính toán, "ăn nên, làm
ra" với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á
và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì
được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn
năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo
và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người
Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi
gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà
người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH,
chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do
Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch
sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản
sắc, vừa giúp họ có tương lai:
<em>Một là</em>, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải
đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc
ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ
được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của
mình và được truyền từ đời này qua đời khác.
<em>Hai là</em>, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của
họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương,
nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn
năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó
giải thích tại sao người Do Thái từ "tứ xứ" đổ về,
nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được
tái lập năm 1948.
<em>Ba là</em>, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái
còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên
thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ
từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm
cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ
số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn.
Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì
ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh
tế và khoa học thông thường ở trong đó.
<em>Bốn là</em>, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng
được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu,
làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại
Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay,
truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở
Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do
Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong
đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do
Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ
dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở
người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ
cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng
đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường
nói đến việc "sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem", "hẹn
gặp tại Jerusalem vào năm tới". Do đó, ước nguyện trở về
Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do
Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.
<strong>Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống</strong>
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do
Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien "xấu", lấy và
nhân giống gien "tốt". Thực ra, không chỉ người Do Thái
làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng
có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như
"Trai anh hùng, gái thuyền quyên", "Nữ tuệ tam tài nguyên
thị đối" (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc
chắn đây không chỉ là chuyện "tâm đầu, ý hợp" của trai
gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức "khuyên
răn" thì người Do Thái đã "luật hóa" và "hệ thống
hóa" được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn
lọc tự nhiên, vô thức để "hoàn thiện" và "phát
triển" gien của mình:
<em>Một là</em>, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là
những người được chọn từ những người thông minh nhất.
Các Rabbis là người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng
lượng nhất, duy trì các giá trị "chính thống" và được
xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis
vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có
rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng
chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là
con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con
các nhà buôn.
<em>Hai là</em>, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do
Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì
hãy tìm cách cho con cái của mình lấy con gái của các học
giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho
rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế
lại có các "phanh hãm" đối với người nghèo, người ít
học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện
kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo,
người ở tầng lớp thấp không "sinh tràn lan", mà sinh có
trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi
trong so sánh tương đối với những người có "gien" tốt,
hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn
năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được
nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.
<em>Ba là</em>, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại
các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại
Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được "bén mảng"
đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc đến
mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày
để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại
được xem là có "quyền năng" tuyệt đối trong việc duy trì
nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được
coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với
một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người
Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người
Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô
con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là "nỗi
nhục" của cả gia đình và dòng họ, và người bố "từ
con" bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình
dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng
Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo "giữ"
được "kỷ cương" khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý
kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu
hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn
giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức
lớn trong quá trình phát triển, đó là:
<ul> <li>Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh,
xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức
tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất
thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi
nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà
dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là "chính thống", còn
những dòng, nhánh khác là "ngoại đạo", cần bị loại bỏ
để làm "trong sạch" Đạo Hồi;</li> <li>"Đồng hành"
cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các
nguyên tắc "cốt lõi" (tức tính chất "chính thống",
mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn
nhiều điều phải bàn);</li> <li>Tránh việc tạo ra một tầng
lớp "tăng lữ" mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy
hoại chính tôn giáo của mình.</li> </ul> Do Thái giáo cũng không
phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các "vấn nạn" ở trên
hơn, do:
<ul> <li>Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có "vấn
nạn", đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các dòng
tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua
đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải
chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để
"hướng đạo" hạy chọn những người có khả năng nhất
trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa
đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni.
Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí
không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và
không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những
người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do
Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.</li> <li>Trong hệ
thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha
tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như
Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn
(commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các "bản án"
tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và
nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại
trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và
điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã
hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút "Phép
thông công" (excommunicate) – tương đương với một bản án
tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua
đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên
Thiên đàng.</li> <li>Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và
tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền thống và
nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt
lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản
thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được
hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống
thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người
Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều
nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên
những dòng, nhánh khác.</li> <li>Khác với các Đạo giáo khác là
tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng
nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái
rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất
4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là
"thiên sứ nhà trời", "được chúa chọn" thì chỉ có ít
người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn
lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do
Thái ngay được.</li> </ul> Trong những điều kiện khắc nghiệt
thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để
tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải
cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo
trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản
thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng
đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con
mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn
là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết
truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4
đời họ là người Do Thái.
<strong>Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất
của người Do Thái</strong>
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn
theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc
sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với
người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai
các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc
phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn
Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên
khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới
dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau
được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định
rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một
số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
<ul> <li>Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có
móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các
con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy
có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn
cỏ nhưng không có móng chẻ.</li> <li>Ăn các loài có cánh như
gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như
diều hâu, chim ưng, đại bàng.</li> <li>Ăn các loài cá có vây
và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá
không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc
hến, các loài bò sát, côn trùng.</li> <li>Các thức ăn trung tính
như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật
ong, rượu vang, chè, café.</li> </ul> Về cách ăn đồ Kosher:
<ul> <li>Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa
của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa
và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc
30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng
thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát
nhất thiết phải dùng riêng.</li> <li>Lúa mì, gạo, và một số
loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước
trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam,
quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.</li> <li>Không ăn nội tạng động
vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không
ăn thịt, cá đồng thời.</li> <li>Khi ăn thịt phải lấy hết
sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao
cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra
được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm
miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra
hết máu,</li> <li>Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu
bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị phạt
rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu
vi phạm.</li> </ul> Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào
có kiểu ăn "kiêng, khem" phức tạp và rườm rà như người
Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher
thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy
mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái,
mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC,
THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của
con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít
người theo, nhưng khi khoa học được "phủ" một lớp màu
tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc
và quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
<ul> <li>Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều
có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ
oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị
"quở phạt". Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được
hóa kiếp lên thiên đàng.</li> <li>Khi con vật cắt được tiết
nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú
tính và sự ngu muội của con vật nằm ở "dòng máu", và ăn
thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm
"thú tính" và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi
đến chỗ thoái hóa.</li> <li>Thịt ăn cùng với cá không còn
tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái
cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có
hại cho cơ thể.</li> <li>Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt
cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu
lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không
thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.</li> <li>Trong điều kiện
thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung
Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt
hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng
khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà
ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?</li> </ul> Như vậy, trải
qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái
không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển
bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông
qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho "gien Do
Thái" vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác
với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát
triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo
Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho
Do Thái giáo càng "thuần khiết" càng tốt. Phải chăng những
người được Chúa "chọn mặt gửi vàng" đâu có thể phát
triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên
tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi
ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái
làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối
tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác
và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả
ngàn năm thiên di trước khi "trở về Jerusalem". Điều ngạc
ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ
coi đó là "sự thử thách" của Chúa trời đối với dân
tộc Do Thái!
<em>TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến
lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng
hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác
giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan
điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả
công tác.</em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141011/hoang-anh-tuan-giai-ma-su-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét