Một câu chuyện cũ về Việt Nam là sau hiệp định Geneva 1954,  
đã có hàng triệu người dân chạy khỏi miền Bắc Việt Nam  
để tìm chốn an cư tại miền Nam. Stanley Karnow, trong cuốn  
<em>Việt Nam: Một Lịch sử</em>, đã viết "một phong trào tị  
nạn khổng lồ từ bắc vào nam." Tạp chí <em>National  
Geographic</em> gọi nó là "một vụ di dân mang tính lịch  
sử."
Sự kiện khởi đầu bởi Điều khoản 14 trong hiệp ước  
trọng tâm đạt được tại Geneva, trong đó yêu cầu hai chính  
quyền Bắc và Nam Việt Nam phải cung cấp những hỗ trợ cần  
thiết cho bất kỳ ai muốn tái định cư. Vấn đề hầu như  
không bao giờ được đề cập đến là tầm mức của công tác  
nhân đạo này đã bị ràng buộc vào cuộc chiến tranh ý thực  
hệ chống lại chủ nghĩa cộng sản do Tổng thống Dwight D.  
Eisenhower khởi xướng.
Tại trận địa Điện Biên Phủ, điểm đỉnh giao chiến của  
cuộc chiến tranh Pháp-Việt, lực lượng chính của các đơn  
vị thuộc Tập đoàn Viễn chinh Pháp đã bị đánh bại và  
phần còn lại bị lực lượng cộng sản Việt Minh của Hồ  
Chí Minh bắt giữ. Nước Pháp mệt mỏi vì chiến tranh muốn  
thương lượng một tình trạng ngưng bắn quân sự tại Geneva,  
trong đó bao gồm một điều khoản là lực lượng của hai bên  
sẽ rút về lại hai phía Bắc và Nam Việt Nam. Các vấn đề  
chính trị sẽ được giải quyết bằng một cuộc bầu cử hai  
năm sau hiệp ước.
Chính phủ Mỹ đề xuất một yêu cầu - một khái niệm đơn  
giản nhưng khó thực hành trên thực tế - di tản khí tài từ  
nguồn cung cấp quân sự của Mỹ cho Tập đoàn Viễn chinh, binh  
lính Pháp và những đồng minh người Việt từ khu vực châu  
thổ sông Hồng ở Bắc Kỳ. Việc cạnh tranh ý thức hệ đã  
khiến cho vấn đề thuần tuý về hậu cần mang đậm màu sắc  
chính trị. Chính phủ Eisenhower muốn dùng việc di tản này  
nhằm chứng tỏ rằng người Việt đã "đi bầu bằng đôi chân  
của mình" để chống lại chủ nghĩa cộng sản. Điều xảy ra  
sau đấy là đụng độ khởi đầu trong cuộc chiến tranh của  
Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Các quan chức cao cấp nhất của Mỹ bàn luận việc di tản  
khỏi Bắc Kỳ từ tháng Giêng 1954, trước cả khi trận chiến  
Điện Biên Phủ bắt đầu. Vào thời điểm ấy, Tham mưu   
Trưởng Liên quân Hoa Kỳ, Đô đốc Arthur Radford F., nói với  
Tổng thống Eisenhower và Hội đồng An ninh Quốc gia rằng một  
vài năm trước đó, khi Radford còn là tư lệnh khu vực Thái  
Bình Dương khu vực, ông được lệnh thảo luận vấn đề này  
với Tư lệnh Tập đoàn Viễn chinh Pháp là Thống chế Jean De  
Lattre và vị này đã xem đó là một ý tưởng ngớ ngẩn. De  
Lattre nói trước khi những việc này có thể hoàn tất, nhóm  
người cuối cùng đợi chờ sơ tán sẽ bị tàn sát.
Đến tháng Hai, khi một quan chức cao cấp  của Eisenhower gặp  
gỡ hoàng đế Việt Nam Bảo Đại, vị quan chức Mỹ này đã  
xem đấy là một kế hoạch thiếu cơ sở khi Bảo Đại cho  
rằng lực lượng quân đội có thể tìm được hỗ trợ trong  
việc chống Việt Minh tại châu thổ Bắc Kỳ bằng cách di  
chuyển bốn triệu người dân quê đến các tỉnh miền trung và  
Cao nguyên Việt Nam. Bảo Đại cũng vận động kế hoạch này  
với những người Mỹ khác, trong đó có cả đại sứ Donald  
Heath, nhưng ông không nhận được một khuyến khích nào dù là  
rất nhỏ. Sau thất bại tại Điện Biên Phủ, vị hoàng đế  
thay đổi quan điểm của mình và phản đối bất kỳ kế  
hoạch sơ tán khỏi Bắc Kỳ nào, mặc dù một quan chức Hoa Kỳ  
là Robert McClintock dự kiến sẽ có "một đề nghị Hoa Kỳ giúp  
đỡ di tản đường biển tương tự như ở  Dunkirk (Trận  
chiến Dunkirk giữa Đồng minh và Đức trong Chiến tranh Thế  
giới II - ND) vào phút cuối." Khi thủ tướng cuối cùng của  
Bảo Đại là Ngô Đình Diệm gặp McClintock lần đầu tiên vào  
cuối tháng Sáu, không bao lâu sau khi ông đến Sài Gòn, ông đã  
đưa vấn đề di tản khỏi Bắc Kỳ và tin rằng cần thiết  
phải có một hành động nhanh chóng để ngăn chặn Việt Minh  
phân tán dân chúng.
Tuy thế, Hoa Kỳ vẫn thảo ra một kế hoạch di tản sau cuộc  
trò chuyện giữa Radford và De Lattre. Việc này đã mất đến  
cả năm và hoàn thành vào đầu năm 1952, cần đến một chiến  
dịch đổ bộ khổng lồ. Kế hoạch này dự tính là cần phải  
di chuyển 80 nghìn lính chính qui Pháp, 40 nghìn lính Việt và 10  
nghìn dân thường.
Kế hoạch này là một trọng tâm của cuộc thảo luận giữa  
các quan chức của Bộ Tổng tham mưu và Bộ Ngoại giao tại  
một cuộc họp ngày 7 tháng Năm 1954, ngày Điện Biên Phủ thất  
trận. Giữa phiên họp thì họ nhận được tin người Pháp  
bại trận. Những ý tưởng di tản dựa trên việc người Pháp  
bảo vệ thành công một phần của khu vực đồng bằng. Tổng  
thống Eisenhower cũng đã phải tuyên bố một tình trạng khẩn  
cấp quốc gia để có đủ quyền hạn chuyển hướng các tuyến  
vận tải đường biển để hỗ trợ kế hoạch sơ tán.
Vào cuối tháng Sáu, kế hoạch được điều chỉnh. Cơ quan  
Tình báo Trung ương Hoa Kỳ dự tính chỉ ở Hà Nội, phải cần  
có khoảng 600 chuyến bay chuyên chở quân cụ. Ngành Hải quân  
dự kiến sẽ di chuyển 10 nghìn xe và 382 khẩu pháo, cùng với  
110 nghìn thường dân. Không có số lượng về nhân viên quân  
sự, nhưng CIA dự tính có khoảng 83 nghìn binh lính ở đồng  
bằng, cùng với 65 tiểu đoàn chính qui và 19 tiểu đoàn hạng  
nhẹ của Pháp hoặc Bảo Đại. Nếu các đơn vị có đúng số  
quân, các con số trên cho thấy tổng số lực lượng quân sự  
vào khoảng 150 nghìn người. Việt Minh cũng sẽ trao trả gần  
hơn 9.600 tù nhân, đa số còn ở Bắc Kỳ.
Vào thời điểm giới ngoại giao ký kết hiệp định Geneva vào  
ngày 21 tháng Bảy, một bộ trưởng của Diệm dự tính con số  
người tị nạn từ Bắc Kỳ có tiềm năng lên đến 700 nghìn.  
Diệm cho rằng nó có thể từ một đến hai triệu. Bộ trưởng  
Pháp đặc trách các quốc gia Đông Dương là Guy La Chambre ước  
tính có khoảng từ 500 nghìn đến một triệu người tị nạn
Tổng Tư lệnh Pháp, tướng Paul Ely đưa ra con số 200 nghìn.  
Nhưng trong một cuộc họp với các nhà ngoại giao Mỹ, Ely lại  
nói rằng việc "tuyên truyền mạnh mẽ" của Diệm có thể lôi  
kéo đến một triệu người rời miền Bắc vào Nam Việt Nam.  
Khi trò chơi phỏng đoán này tiếp tục, vấn đề người tị  
nạn trở nên quan trọng hơn. Lúc ấy có 11 triệu người đang  
sống tại miền Bắc Việt Nam.
Hoa Kỳ bắt đầu tham gia vào ngày 28 tháng Bảy khi các quan  
chức của chính phủ mới của Nam Việt Nam nói với các nhà  
ngoại giao Mỹ họ cần 2 nghìn chiếc lều lớn ngay lập tức  
nếu không chương trình tị nạn sẽ thất bại ngay trước khi  
nó bắt đầu. Và rồi vào ngày 4 và 5 tháng Tám, bộ trưởng  
ngoại giao Sài Gòn và sau đó đích thân thủ tướng Diệm yêu  
cầu người Mỹ trợ giúp. Đến lúc ấy người ta vẫn cho  
rằng Pháp vẫn nắm hoàn toàn quyền kiểm soát. Trên thực tế  
thì tướng Ely đã bắt đầu rút các đơn vị tham chiến ra  
khỏi Bắc Kỳ để củng cố miền trung Việt Nam vào ngày hiệp  
định Geneva được ký kết.
Tuy nhiên giờ đây, các quan chức Sài Gòn lại cảnh báo rằng  
Pháp chỉ có thể vận chuyển 80 nghìn người trong tháng Tám,  
trong khi đã có 120 nghìn người Việt chạy vào các khu vực do  
Pháp kiểm soát với hi vọng được tản cư. Ngày 5 tháng Tám,  
cơ quan Quản lý Ngoại vụ của Hoa Kỳ thông báo rằng Hoa Kỳ  
sẽ tham gia trợ giúp. Người Pháp ngay lập tức yêu cầu có  
đủ tàu để di chuyển 100 nghìn người. Washington đã thành  
lập một nhóm công tác liên ngành về Đông Dương để quản  
lý chiến dịch này.
Tham mưu Trưởng Hải quân, Đô đốc Robert B. Carney ra lệnh cho  
tư lệnh khu vực Thái Bình Dương là Đô đốc Felix B. Stump  
chuẩn bị đáp ứng những yêu cầu về tàu bè. Lệnh cung cấp  
tàu được đưa ra vào ngày 7 tháng Tám. Washington mệnh danh nó  
là Chiến dịch Đường đến Tự do (Operation Passage to Freedom.)  
Chiến dịch này sẽ được Lực lượng Đặc nhiệm 90 tiến  
hành dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Lorenzo S. Sabin,  
tư lệnh lực lượng đổ bộ Tây Thái Bình Dương.
Đô đốc Sabin bay đến Hải Phòng vào ngày 10 tháng Tám để  
sắp xếp với người Pháp, họ sẽ cung cấp các dịch vụ bến  
cảng và dẫn đường. Chiếc tàu Mỹ đầu tiên, tàu vận tải  
<em>Menard</em>, đã đến từ Hồng Kông trong cùng ngày, nhưng Đô  
đốc Sabin ra lệnh cho nó nằm ngoài khơi cho đến khi các tàu  
khác có mặt để tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ về sự  
đóng góp của Mỹ. Chiếc <em>Menard</em> bắt đầu chuyển  
người lên tàu tại bờ biển Đồ Sơn vào ngày 16 tháng Tám.
Sân bay Đồ Sơn, nằm trên một ngôi làng trên bờ biển phía  
nam Hải Phòng, từng là căn cứ của một toán lính cơ khí của  
Không quân Hoa Kỳ chuyên giúp Không quân Pháp trùng tu lại các  
máy bay trong chiến tranh. Giờ đây nó trở thành điểm sơ tán  
đầu tiên của phe bại trận trong cuộc chiến. Trong khi đó, hai  
tàu vận tải khác <em>Montrose</em> và <em>Telfair</em> cùng với hai  
tàu vận tải đổ bộ, <em>Montague</em> và <em>Algol</em>, hợp  
thành đoàn tiến vào Hải Phòng. Vào thời điểm này, ước  
tính có khoảng 132 nghìn người tị nạn tại Hải Phòng đang  
chờ được chuyển đi.
Ngày 18 tháng Tám, chiếc <em>Menard</em> chở hơn 1.900 người  
Việt vào Nam, ba ngày sau đã đến Sài Gòn. Các đại diện cơ  
quan Chữ Thập Đỏ đã đến thăm tàu và tặng mỗi ngưòi tị  
nạn một túi hàng nhu yếu phẩm. Lúc ấy, chính quyền Diệm  
vừa mới bắt đầu dựng trại đầu tiên trong năm trại tiếp  
nhận được dự định xây ở Sài Gòn. Trại này mới chỉ  
cất được ba mươi căn lều. Hồ Quan Phước, nhân viên đặc  
trách của chính quyền Sài Gòn chỉ mới nhận công việc này  
trong ba ngày với vỏn vẹn ba nhân viên.
Vấn đề này đã không được đề cập với các phóng viên  
của các hãng truyền thông NBC, CBS và United Press khi họ được  
đưa đến để đợi quay cảnh chiếc tàu vận tải kế tiếp  
là <em>Montrose</em> cập bến. Chiếc tàu này đã được Đô  
đốc Stump đón chào. Ngày 22 tháng Tám, Tổng thống Eisenhower  
đã đưa ra một thông cáo báo chí tán dương nỗ lực sơ tán.  
"May mắn thay, Việt Nam Tự do là một đất nước với tài  
nguyên đất đai phong phú cho việc tái định cư của bất kỳ  
số lượng người dân Việt Nam nào muốn thoát khỏi ách thống  
trị của Cộng sản," Eisenhower nói.
Đến ngày 28 tháng Tám, theo tài liệu của Pháp, đã có 65.706  
người rời khỏi Bắc Kỳ bằng máy bay và 81.074 người đi  
bằng tàu thuỷ.
Vì thông điệp của  Ike (bí danh của Tổng thống Eisenhower - ND)  
muốn cho thế giới xem việc tản cư là một sự kiện chính  
trị, số lượng người tị nạn trở nên quan trọng hơn bao  
giờ hết. Đột nhiên nó trở thành hợp lý trong việc tạo  
thêm luồng người tị nạn, và Cơ quan Tình báo Trung ương  
nhập cuộc. Frank G. Wisner, phó giám đốc phòng kế hoạch và  
đồng thời là giám đốc các hoạt động bí mật đã kêu gọi  
cần một nỗ lực nán lại Hà Nội trong quá trình sơ tán để  
tạo chia rẽ Việt Minh và Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc. CIA đã  
gửi một toán nhân viên đến đấy dưới quyền chỉ huy của  
Edward G. Lansdale, hoạt động bí mật dưới vỏ bọc của một  
đại tá Không quân Hoa Kỳ. Toán tình báo của Lansdale bắt tay  
ngay vào các hoạt động tuyên truyền và phá rối ở miền  
Bắc.
Mặc dù Lansdale đến Sài Gòn từ tháng Sáu, nhưng mãi đến  
tháng Tám đa số các thành viên trong đơn vị của ông, Phái  
bộ Quân sự Sài Gòn (Saigon Military Mission - SMM) mới có mặt.  
Lansdale gửi Thiếu tá Lục quân Lucien Conein, một chuyên viên  
kỳ cựu về Đông Dương và bạn của vị tư lệnh quân đội  
Nam Việt Nam tại Bắc Kỳ chỉ huy nhóm hoạt động tại Hà  
Nội. Nhóm SMM bắt đầu các chiến dịch phao tin đồn tại Hà  
Nội, tin đầu tiên nhắm vào một báo cáo giả rằng một đơn  
vị cộng sản Trung Quốc đã tiến vào miền Bắc và thảm sát  
thường dân người Việt. Một thủ đoạn chiến tranh tâm lý  
khác là một chiến dịch tranh áp phích dữ dội nói rằng Việt  
Minh đang lộng hành ngoài vòng kiểm soát. Một bức áp phích  
vẽ bóng những người lính Việt Minh che phủ đường phố Hà  
Nội với một cụm khói bom hạt nhân phía sau họ.
Có khoảng 6 nghìn thường dân Pháp tại Hà Nội và toàn bộ  
khoảng 24 nghìn ở Bắc Kỳ. Sẽ là một thảm hoạ về mặt  
tuyên truyền nếu họ quyết định ở lại dưới chế độ  
Việt Minh. Một thủ đoạn khác dưới dạng một tờ truyền  
đơn vẻ ngoài trông như một bản qui định chính thức của  
Việt Minh về việc chiếm quyền kiểm soát, trong đó liệt kê  
những qui định hà khắc về cải cách tiền tệ, tịch thu tài  
sản và một chỉ thị rằng các công nhân có thể nghỉ lễ ba  
ngày để đón mừng Việt Minh trở về. Các tài liệu của  
Lansdale cho thấy số người đăng ký di tản tăng gấp ba sau  
ngày tờ truyền đơn được phân tán.
Khi cuộc di tản bắt đầu, hãng Hàng không Vận tải Dân sự do  
CIA độc quyền (Civil Air Transport - CAT, sau này đổi thành Air  
America) yêu cầu SMM giúp để có được hợp đồng tham gia.  
Lansdale đồng ý. Các chuyến bay của CAT sau đấy đã trở thành  
phương tiện để ông đưa người và tài liệu ra miền Bắc.  
Conein đã tạo ra những thủ thuật tài tình đa dạng chống  
Việt Minh. Ông tuyển mộ một quan chức công an cao cấp của Hà  
Nội để giúp trả tự do cho những người bên ông bị bắt khi  
làm nhiệm vụ. Nhưng việc này đã bị phản tác dụng khi  
người công an này cương quyết muốn giúp phân phát những tờ  
truyền đơn giả dạng qui định của Việt Minh. Vị quan chức  
này đã bị Liêm phóng Pháp bắt giữ sau một cuộc truy đuổi  
tốc độ vào nửa đêm giữa trung tâm Hà Nội và bị bắt giam  
với tội là tay chân cho Việt Minh. Đài phát thanh Việt Minh bác  
bỏ nội dung những truyền đơn, nhưng chỉ trong vài ngày,  
đồng tiền của họ đã bị mất hết nửa giá. Mạng lưới  
tình báo của Conein cũng làm ô nhiễm các trạm cung cấp xăng  
dầu của một hãng xe buýt địa phương khiến cho máyu xe của  
họ bị hư, họ cũng phối hợp với một nhóm CIA từ Nhật  
để gài đặt chất nổ trên tuyến đường sắt Hà Nội-Hải  
Phòng khi người Pháp rút khỏi thủ đô Bắc Kỳ vào đầu  
tháng Mười.
Viên sĩ quan quân y, Trung uý Thomas A. Dooley III tại căn cứ quân  
sự Hoa Kỳ ở Yokosuka được bố trí làm việc tạm thời từ  
trên chiếc tàu vận tải <em>Montague</em>. Là một bác sĩ, Dooley  
ban đầu làm việc như là một sĩ quan quân y và thông dịch  
viên. Vào tháng Tám, ông được gửi đến Hải Phòng trong một  
đơn vị cấp cứu và phòng ngừa y tế do Đại uý Julius Anderson  
thành lập. Không bao lâu, đơn vị này bắt đầ`u nghiên cứu  
phía bên kia. Nó bắt đầu đảm trách các lĩnh vực bệnh  
truyền nhiễm, ký sinh trùng và thông tin y tế lẫn việc tẩy  
chấy rận cho những người dân Việt Nam đang đợi sơ tán về  
miền Nam. Cuốn sách quá cách điệu của Dooley về những sự  
kiện này, <em>Đưa Ta Đến Tự Do</em>, có thể đã được viết  
bởi một trong những chuyên gia tuyên truyền trong nhóm tình báo  
CIA của Ed Lansdale, và nhà xuất bản cuốn sách này cũng nhận  
tiền hỗ trợ của CIA. Kể từ tháng Mười một, Doodley trở  
thành viên sĩ quan đặc trách đơn vị tại Hải Phòng.
Một số kỹ thuật tác động tâm lý cũng được vận dụng  
trên các con tàu tị nạn. Các sĩ quan Mỹ cho rằng người Việt  
là những người chân chất dễ bị thuyết phục. Vào cuối  
tháng Tám, trên chiếc tàu vận tai <em>Bayfield</em> một số hành  
khách Việt khăng khăng xem những người Mỹ như những linh mục  
và toàn bộ 320 thuỷ thủ trên tàu đều được xem như là  
những thầy tu thuần thành. Các sĩ quan Mỹ không tìm cách bác  
bỏ ý nghĩ trên, tin rằng nó có ích trong việc giữ gìn trật  
tự trên tàu. Đô đốc Sabin ủng hộ phương pháp này. Cũng như  
chiếc <em>Bayfield</em>, trên chiếc <em>Mountrail</em>, các thuỷ  
thủ Mỹ đã hết lòng giúp đỡ các hành khách vốn đa phần  
cảm thấy tuyệt vọng.
Trong khi ấy, chương trình sơ tán đã đạt đến mức tối đa.  
Pháp đã chuyển được khoảng 3.400 người mỗi ngày bằng  
đường không, cộng thêm khoảng 20 nghìn người mỗi tháng  
bằng đường thuỷ. Mặc dù người Anh cũng đã cho mượn  
chiếc hàng không mẫu hạm HMS <em>Warrior</em>, Toán Đặc nhiệm  
90 của Đô đốc Sabin vẫn là lực lượng chủ lực của kế  
hoạch di tản đường biển. Các tàu đổ bộ của Hải quân và  
của Dịch vụ Vận tải Quân sự đường Biển đã gánh vác vai  
trò khá nặng nhọc. Kế hoạch của Sabin dự kiến sử dụng  
bốn tàu há mồm (Dock Landing Ship - ND), bốn tàu vận tải đổ  
bộ, tám tàu vận tải thường, và mười tám tàu đổ bộ chở  
tăng (Tank Landing Ship - ND). Theo yêu cầu của Pháp, vào giữa  
tháng Chín, ngành Hải quân lại bổ sung một tàu bệnh viện  
để di chuyển những binh lính Liên hiệp Pháp bị thương. Tổng  
cộng đã có hơn năm mươi tàu tham gia.
Thời điểm cao nhất là vào tháng Chín khi 10 nghìn người cập  
bến Sài Gòn trong một ngày. Trong tháng này có gần 101 nghìn  
người được vận chuyển bằng đường biển. Ngày 2 tháng  
Mười, người di tản thứ 400 nghìn đã rời khỏi Bắc Kỳ. Sau  
đấy con số này bắt đầu giảm đều đặn - 75.000 trong tháng  
Mười, 46.500 trong tháng Mười một và 24.500 trong tháng Mười  
hai. Có thêm 82 nghìn người được sơ tán trong ba tháng đầu  
năm 1955.
Nỗ lực vận chuyển bằng đường hàng không bị khó khăn khi  
các lực lượng vận tải của Không quân Pháp rút đi. Cầu  
hàng không đã đạt thuận lợi hơn so với đường biển trong  
tháng Tám 1954, khi hơn 72 nghìn người rời khỏi miền Bắc  
bằng máy bay. Trong tháng Chín, có hơn 54 nghìn người được  
vận chuyển bằng hàng không. Số lượng di dân bằng máy bay  
từ tháng Mười đến tháng Mười hai chỉ đạt mức trung bình  
15 nghìn người mỗi tháng. Từ tháng Giêng đến tháng Ba 1955,  
hàng không đã vận chuyển khoảng 15.600 dân di cư.
Đường biển vận chuyển gần gấp đôi số người so với  
đường hàng không, cho đến năm 1955 cách biệt này càng tăng  
hơn nữa. Trong tháng Mười hai, đường biển đã chuyển 17.517  
chiếc xe và 171.625 tấn khí tài, cộng thêm 185 nghìn tấn vật  
dụng của chính phủ và tư nhân. Thêm vào đó, gần 45 nghìn  
người đã vào Nam bằng đường bộ, vượg qua đường ranh  
giới quân sự tạm thời trên vĩ tuyến thứ 17, sau này được  
gọi là Khu Phi Quân sự.
Tổng thống Eisenhower xem xét lại chương trình Đường đến  
Tự do với Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 22 tháng Mười.  
Nhóm này được thứ trưởng Ngoại giao Herbert Hoover, Jr.
Vẫn còn nhiều thường dân cần được di tản. Những người  
đã được di chuyển vẫn còn ở trong những trại định cư  
tạm thời trong khu vực Sài Gòn. Cần phải tái định cự cho  
khoảng 250 nghìn người dân tại miền Nam Việt Nam.
Hoa Kỳ đã chi 40 triệu Mỹ kim cho chiến dịch Đường đến  
Tự do, tính ra số tiền chi cho mỗi người tị nạn còn cao hơn  
cả thu nhập bình quân hàng năm cho mỗi người Việt lúc ấy.  
Bất chấp những khó khăn nghiêm trọng về hậu cần được  
đề cập trong báo cáo của Hoover, Hội đồng An ninh Quốc gia  
đã dành toàn thời gian để thảo luận về những khó khăn về  
chính trị và quân sự của người Mỹ, người Pháp và Diệm  
ở Sài Gòn.
Bên cạnh những khó khăn về lịch trình và hậu cần trong vận  
chuyển, khó khăn lớn nhất trong việc tản cư khỏi Bắc Kỳ  
là con người - trong trường hợp này là một lượng lớn  
người Công giáo ở hai vùng Phát Diệm và Bùi Chu về phía tây  
nam Hà Nội. Ngay sau khi Điện Biên Phủ thất trận, Tướng Ely,  
tổng tư lệnh Pháp đã dự định tái tập hợp quân của ông  
ở Bắc Kỳ nhằm bảo vệ một hành lang giữa Hà Nội và Hải  
Phòng. Điều này có nghĩa là sẽ bỏ rơi các tỉnh Công giáo  
về tay Việt Minh.
Phát Diệm và Bùi Chu từng là những vùng trung thành nhất với  
người Pháp. Họ đã tuyển mộ các lực lượng dân quân Công  
giáo, đôi khi do các cha xứ chỉ huy. Nhiều người Việt tin  
chắc rằng sẽ bị Việt Minh trả thù và cầu xin người Pháp  
ở lại. Khi Ely bắt đầu kế hoạch rút quân bằng một chiến  
dịch quân sự với bí danh Auvergne, đã có những sự cố xảy  
ra trong đó dân làng và cả dân quân thân Pháp doạ sẽ bắn  
vào quân Pháp nếu họ rút lui. Trong vài lần, các nhân viên  
tình báo CIA của Lansdale phải can thiệp để ngăn chặn hệ  
quả xấu xảy ra. Trong một trường hợp, họ đã chặn đứng  
những nữ dân quân đang nôn nóng muốn quăn lựu đạn vào lính  
Pháp đứng canh một nhà kho. Trong một trường hợp khác, các  
tình báo viên Mỹ đã thuyết phục dân quân tấn công một đơn  
vị pháo binh để đoạt lấy đại bác nhằm chống lại Việt  
Minh.
Chiến dịch Auvergne đã tiến triển trong thời gian hội nghị  
Geneva xảy ra. Nhà lãnh đạo mới của Sài Gòn là Ngô Đình  
Diệm cùng người em trai đầy quyền lực Ngô Đình Nhu đã lo  
sợ cho người dân ở các vùng Công giáo. Diệm đã nhiều lần  
kêu gọi các nhà ngoại giao Mỹ giúp đỡ. Vào tháng Bảy, Diệm  
đến thăm các tỉnh và sau đó đến gặp người Mỹ. Nhưng vì  
Việt Minh sắp tiếp quản Bắc Kỳ, người Mỹ không thể làm  
gì được. Tuy nhiên, tại Phát Diệm và Bùi Chu, Ed Lansdale đã  
tìm thấy lượng khán giả lý tưởng cho việc tuyên truyền về  
những điều kinh hoàng của chính quyền Việt Minh tương lai.
Người Pháp hiểu rõ hoàn cảnh của dân Công giáo, nhưng  
người dân ở những khu vực này chẳng thấy được các biện  
pháp mà họ đưa ra tại Geneva. Các nhà ngoại giao Pháp đã  
thương lượng thêm một bổ sung trong hiệp ước Geneva trong đó  
hai phía có nghĩa vụ công nhận quyền tự do đi lại của  
những ai muốn tái định cư. Điều khoản này đã không được  
áp dụng cho đến tháng Tám khi Việt Minh chiếm quyền kiểm  
soát các tỉnh. Nhận thức rõ ảnh hưởng chính trị từ những  
hành động của mình, Việt Minh đã có những nỗ lực đặc  
biệt nhằm chiếm lòng tin các linh mục và giáo dân Công giáo.  
Nhưng có vẻ họ không chịu nỗi sự chiếm đóng của Việt  
Minh. Tuy thế, theo phong tục Việt Nam, tình nghĩa gắn bó với  
quê cha đất tổ khiến nhiều người muốn ở lại.
Cuối cùng, ngay cả với chiến dịch tuyên truyền của CIA,  
những áp lực từ niềm tin Công giáo cũng như việc kêu gọi  
của người Pháp, khoảng phân nửa dân số ở Bùi Chu và Phát  
Diệm quyết định ở lại. Tuy nhiên, người dân vẫn đều  
đặn xin giấy thông hành. Nhiều người bị từ chối - chỉ có  
khoảng 15 nghìn người di tản vào Nam được Việt Minh chính  
thức cấp giấy phép.
Tướng Ely tìm cách phát động một cuộc sơ tán đặc biệt  
từ các khu vực Công giáo trong tháng Mười và tháng Mười một  
1954, khi người Pháp rời bỏ Hà Nội và tự cô lập mình trong  
một khu vực chung quanh Hải Phòng. Dự định rằng người dân  
có thể chèo thuyền ra biển để được cứu vớt bởi các tàu  
Hải quân Pháp, chủ yếu là những tàu đổ bộ có thể đưa  
họ đến các tàu lớn hơn.
Một số sự kiện đã xảy ra trong những chiến dịch này. Vụ  
nổi tiếng nhất xảy ra tại Trà Lý và Ba Lạt. Ở Trà Lý,  
quân Việt Minh dùng vũ lực để giải tán hầu hết đám đông  
khoảng 10 nghìn người tị nạn. Một số dân làng đã chạy  
trốn tại những doi cát ngoài khơi và bị mắc kẹt khi thuỷ  
triều lên cao. Pháp yêu cầu Uỷ ban Kiểm soát Quốc tế  
(International Control Commission - ICC) gửi những toán lưu động  
đến Trà Lý, nhưng Việt Minh đã ngăn cản sự đi lại của ICC  
và đã hoàn tất việc làm của mình trước khi toán ICC đến.  
Các sĩ quan hải quân Pháp tại hiện trường báo cáo rằng  
Việt Minh đã xả súng bắn vào người dân ở những đụn cát.
Tại Ba Lạt vào tháng Mười hai, Việt Minh bắt giữ những  
người đứng đầu dân tị nạn khi họ liên lạc với một tàu  
Pháp. Việc này khiến dân làng đụng độ với binh lính, giết  
chết một và bắt giữ ba người trước khi cố thủ trong nhà  
thờ. Quân Việt Minh xông vào nhà thờ và giải tán những  
người dân, bắt giữ vài trăm. Người xã trưởng và một linh  
mục bị Toà án Nhân dân truy tố và bỏ tù.
Một chủ đề khác liên quan đến quân Việt Minh và những  
người Việt muốn ra miền Bắc. Liên Xô và Ba Lan cung cấp tàu  
để chuyên chở họ. Nhiều người cũng được đưa lên những  
chiếc tàu của Pháp đang quay lại Hải Phòng để đón những  
nhóm người tị nạn mới. Hầu hết những người ra Bắc đã  
đi bằng tàu của Pháp hoặc Ba Lan. Khoảng 90 nghìn lính Việt  
Minh và 40 nghìn thường dân đã ra bắc bằng đường biển.  
Khoảng 12 nghìn người đã vượt qua Vĩ tuyến 17 bằng đường  
bộ.
Như trong những lĩnh vực khác của cuộc chiến trính trị,  
những người lính tâm lý chiến của CIA cũng  đã hoạt động  
trên mặt trận này. Nhóm tình báo của Lansdale đã tìm cách  
kích thích bạo động giữa những người đi ra bắc và phao tin  
đồn đãi rằng những chiếc tàu ra bắc thật ra đang chở họ  
đến những trại cưỡng bức lao động ở Nga.
Và cũng có những trò chơi về những con số. Chính quyền Diệm  
nói rằng có 2.598 người ra Bắc và đề nghị ICC cũng như  
chính phủ Anh sử dụng con số này. Một phóng viên của tạp  
chí <em>National Geographic</em> theo dõi quá trình sơ tán ra Bắc  
vào năm 1955 viết rằng "những ước tính đáng tin cậy"  cho  
biết con số thường dân ra bắc vào "khoảng 40". Cơ hội  
chính trị đã được tận dụng bằng cách tối đa hoá dòng  
người hướng về Nam và tối thiểu hoá số người đi ra bắc.
Với sự hiện diện của Pháp ở miền Bắc đã rút gọn lại  
khu vực Hải Phòng và nhiều người đã được di tản, Hoa Kỳ  
đã điều chỉnh thái độ của mình trong việc tham gia. Đến  
giữa tháng Mười một, Lực lượng Đặc nhiệm 90 đã rút dần  
những tàu đổ bộ, bất chấp việc Pháp yêu cầu giữ lại  
các tàu đổ bộ chở tăng để hoàn tất quá trình di chuyển  
các trang thiết bị của Pháp khỏi Hải Phòng vào tháng Giếng  
1955. Một tàu chở quân được giữ lại hoạt động cho đến  
tháng Mười hai. Bốn tàu vận chuyển quân sự đường biển do  
dân sự điều khiển và chiến hạm chính của Đô đốc Sabin  
vẫn hoạt động. Sabin ra lệnh chỉ để một tàu duy nhất hỗ  
trợ cho chiến dịch di tản Đông dương. "Kinh nghiệm cho tôi  
thấy," ông viết trong một công văn đề ngày 9 tháng Giêng,  
"rằng dự đoán về một dòng người tị nạn khổng lồ đã  
không xảy ra."
Vì thế, bất chấp chiến dịch tâm lý của CIA do Lansdale chủ  
mưu, số kinh phí lớn được chính quyền Eisenhower cung cấp và  
tất cả những lý do mà người Pháp có thể viện dẫn để  
kêu gọi người dân vào Nam, Chiến dịch Đường đến Tự do  
đã không thành công như dự kiến. Không phải là hai triệu -  
thậm chí chưa đến một triệu người hưởng ứng lời kêu  
gọi. Con số cuối cùng là dưới 800 nghìn người. Ngay cả con  
số này cũng bao gồm 190 nghìn người Pháp và binh lính  Sài  
Gòn, cộng thêm các tù nhân được trả về, khoảng 43 nghìn  
thân nhân quân đội, từ 15 đến 25 nghìn người dân tộc Nùng  
hợp tác với quân đội, khoảng 25 đến 40 nghìn công dân Pháp  
và khoảng 45 nghìn cư dân gốc Hoa. Nó còn bao gồm vài nghìn  
người từng làm việc cho chính phủ Pháp và Việt tại miền  
Bắc.
Bởi thế con số người Việt thật sự tự ý chọn lựa việc  
"bầu bằng đôi chân" rốt cuộc chỉ vào khoảng 450 nghìn.  
Và con số này vẫn chưa kể đến số người quyết định đi  
ra Bắc. Đương nhiên, những con số này cũng cho thấy một dòng  
người tị nạn khổng lồ. Nhưng nó ít hơn phân nửa con số  
được nhắc đến trong huyền thoại của cuộc chiến Việt Nam,  
và cuộc phân tán này không phảI là cơn di tản của những  
người nông dân chân chất mà nó được miêu tả. Một lần  
nữa, quan điểm chung về Việt Nam lại bị hiểu nhầm nhất  
trong hoàn cảnh này.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận  
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140922/john-prados-bao-nhieu-nguoi-da-di-cu-vao-nam-nam-1954),  
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời  
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân  
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc  
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây  
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây  
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)  
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress  
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),  
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp  
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để  
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét