Hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng: thừa nhận Việt Nam Cộng hòa

<strong><em><u>Một trong những cách để hóa giải Công hàm Phạm
Văn Đồng</u></em></strong> là lập luận rằng khi ông Đồng gửi
Công hàm đó (ngày 14/9/1958), thì hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc chủ quyền Việt Nam
Cộng hòa chứ không phải thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
và do đó "người ta không thể từ bỏ cái mà người ta không
có thẩm quyền đối với nó" (GS. Monique Chemillier-Gendreau). Sau
năm 1975, theo nguyên tắc kế thừa, nước Việt Nam thống nhất
được hưởng những gì Việt Nam Cộng hòa để lại, trong đó
có cả chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.</b>

<b>Với cách hóa giải này, điểm mấu chốt là chính quyền
Việt Nam bây giờ phải thừa nhận rằng trước năm 1975, đã
tồn tại hai quốc gia: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền
Bắc, và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Nói cách khác, chính
quyền phải công nhận rằng đã có một quốc gia Việt Nam
Cộng hòa, với một chính quyền có tính chính danh, chứ đó
không phải là một triều đại "ngụy", "bù nhìn" do
"Mỹ và tay sai" dựng nên.</b>



<b>Vào năm 2005, một học giả người Úc, giáo sư về công
pháp quốc tế ở ĐH Cambridge – ông James Crawford – đã viết
một cuốn sách nổi tiếng, nhan đề <i>The Creation of States in
International Law </i>(Sự hình thành các quốc gia theo luật quốc
tế). Trong đó, ở phần liên quan đến Việt Nam, ông đã chứng
minh rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là
hai quốc gia riêng biệt và độc lập từ năm 1954 cho đến năm
1975. </b>


<b>Sách được Oxford University Press xuất bản lần đầu năm
2006. Phần <i>Vietnam after 1945 </i>(Việt Nam sau năm 1945) này nằm
trong Chương 10, <i>Divided States and Reunification</i> (Các quốc gia
bị chia cắt và quá trình thống nhất), trong Phần II, <i>Modes of
the Creation of States in International Law </i>(Các hình thức tạo
lập quốc gia trong luật quốc tế).
</b> <b>Xin trích dịch để bạn đọc tham khảo. Xin bạn đọc
lưu ý rằng thừa nhận </b><b >"</b><b >hai quốc gia Việt
Nam</b><b >" độc lập và bình đẳng</b><b > chỉ là một trong
những cách hóa giải Công hàm Phạm Văn Đồng, và không có gì
khẳng định cách nào sẽ hiệu quả.</b>
<b>
</b> <b>Phạm Đoan Trang</b>

* * *

<center> <b>VIỆT NAM SAU NĂM 1945</b></center>



<div class="boxleft300"><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiKkL-UBEGMoJjwF7DcpCJiF-rO0dZaVqn6Gh-5Tryz_sU4f5uQz0FejfvzgCkVj0BqDH9ZKvk_tmPhz0AydpsKJAfYYOjqVrkyT03OKsBEo-qs9UY94a08lkvHtwX0sVeStVQUOShKxFE/s1600/b%C3%ACa+s%C3%A1ch.jpg"
/><div class="textholder"></div></div>Chính quyền bảo hộ của Pháp
ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và chế độ thực dân ở Nam Kỳ – vốn
là một phần của xứ Đông Dương thuộc Pháp – đã bị quân
đội Nhật Bản xâm lược vào năm 1940. Chính quyền Vichy của
Pháp tiếp tục cai quản nơi đây dưới sự bảo hộ của Nhật
Bản cho đến tháng 3/1945, khi nó bị thay thế bởi một chính
thể khác dưới quyền Hoàng đế Bảo Đại. Vào ngày 2/9/1945,
sau khi Nhật rút quân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH)
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh tuyên bố độc lập:
Điều này không được cả Pháp lẫn các nước đồng minh khác
công nhận. Vào ngày 6/3/1945, Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt và
Phụ lục được ký kết, Điều 1 của Hiệp định nêu rõ:
"<i>Chính phủ Pháp công nhận nền cộng hòa Việt Nam là một
quốc gia tự do có chính phủ riêng, quốc hội riêng, quân đội
và tài chính riêng, và hình thành nên một phần của Liên minh
Đông Dương và Liên hiệp Pháp</i>".

Hiệp định được coi là sơ bộ, trước khi khai cuộc đàm
phán đầy đủ về "quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với
nước ngoài (…) địa vị tương lai của Đông Dương, và (…)
các lợi ích kinh tế và văn hóa Pháp ở Việt Nam". Trong một
hành động rõ ràng là vi phạm Hiệp định này, chính quyền
Pháp dấn tiếp bằng Hiệp ước Pháp-Nam Kỳ ngày 3/6/1946,
thiết lập một chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Pháp
ở Nam Kỳ. VNDCCH phản đối, và vào ngày 14/9/1946, một bản
tạm ước (<i>modus vivendi</i>) với mục đích điều tiết các
vấn đề giữa VNDCCH và Pháp trên cơ sở bình đẳng<b> [1]</b>.
Tuy nhiên, sự thù địch đã không được kiểm soát và sẽ còn
tiếp tục đến tháng 12/1946. Vào tháng 6/1948, thêm một bên
thứ ba tham gia vào xung đột: Pháp thiết lập "Chính phủ Lâm
thời Việt Nam" theo Thỏa thuận Vịnh Hạ Long. Điều 1 của
Thỏa thuận quy định:

"<i>Pháp trân trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam,
mà sau đây nhiệm vụ tùy ý thực hiện việc thống nhất đất
nước sẽ thuộc về nước Việt Nam đó. Về phần mình, Việt
Nam tuyên bố trung thành với Liên hiệp Pháp, với tư cách một
quốc gia thuộc Liên hiệp. Nền độc lập của Việt Nam không
bị hạn chế gì ngoài những giới hạn mà họ phải chịu vì
sự gia nhập Liên hiệp Pháp</i>".

Người đứng đầu chính phủ được xác lập đó là Hoàng
đế Bảo Đại. Chính phủ của ông được trao toàn quyền
kiểm soát quốc nội, ít nhất là trên nguyên tắc, nhưng riêng
các vấn đề ngoại giao và quân sự thì phải để cho Liên
hiệp Pháp quyết định. [Nhưng] Chính quyền này đã không làm
được việc thống nhất Việt Nam như dự định. Thay vì thế,
VNDCCH được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công nhận vào ngày
18/1/1950, và được Liên Xô công nhận vào ngày 30/1/1950. Ngày
7/2/1950, Liên hiệp Vương quốc Anh quyết định công nhận
"<i>địa vị của Việt Nam, Lào và Campuchia, là các quốc gia
trực thuộc Liên hiệp Pháp</i>"; và Hoa Kỳ, vào cùng ngày, ban
hành bản "<i>công nhận ngoại giao đối với chính quyền của
nước Việt Nam, vương quốc Lào và vương quốc Campuchia</i>"
<b>[2]</b>. Do đó, năm 1950, có tới hai chính quyền Việt Nam cùng
tuyên bố và cùng thực thi một mức độ kiểm soát ít nhiều
đối với toàn bộ lãnh thổ; mỗi bên đều được công nhận
bởi một số nhà nước khác nhau. Vào giao đoạn này, dường
như chẳng bên nào có đủ tư cách để làm chính quyền của
một nước Việt Nam độc lập. VNDCCH chưa củng cố được
quyền kiểm soát thực tế trên toàn lãnh thổ. Việt Nam Cộng
hòa (VNCH) không có được sự độc lập về danh nghĩa vì họ
trực thuộc Liên hiệp Pháp, và họ cũng không có cả sự độc
lập trên thực tế hay độc lập thật sự.

<div class="boxleft300"><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiBGN7EQ_kho_bpzlNN6OPVNL8go3lLnJnSvx-gGP5-FrsFwo1-BVh5wtHZDAefSgztcllTyZGPcI1hrZ4afUGYM0MCx0FJH5nju9oUbQ-O8zAGyqUMX73pRhsnkT3U5_EIL0kUluCoXhc/s1600/James.jpg"
/><div class="textholder"></div><center>GS. James R. Crawford</center></div>
Năm 1952, cả VNCH và VNDCCH đều làm đơn xin gia nhập Liên Hiệp
Quốc. Đơn của VNCH bị Liên Xô phủ quyết; đơn của VNDCCH
bị bác, chỉ có mỗi Liên Xô bỏ phiếu ủng hộ. Sau đó,
Đại Hội Đồng LHQ ra nghị quyết: "<i>Việt Nam là (…) một
quốc gia yêu chuộng hòa bình, theo nghĩa của Điều 4 trong Hiến
chương LHQ, Việt Nam có thể và sẵn sàng thực thi các nghĩa
vụ của họ theo Hiến chương, và vì vậy, nên được thừa
nhận tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc</i>" <b>[3]</b>.
Vào ngày 7/5/1954, căn cứ của Pháp ở Điện Biên Phủ, miền
Bắc Việt Nam, bị quân đội VNDCCH chiếm được. Ngày 4/6/1954,
một Hiệp ước về Nền Độc lập của Việt Nam và Nhà nước
Trực thuộc, giữa nước Việt Nam mới và Pháp, đã được
khởi động, nhưng chẳng bao giờ được ký kết. Trong khi đó,
Điều 1 Hiệp định Ngừng bắn giữa các lực lượng tham
chiến Pháp và VNDCCH đã thiết lập một "giới tuyến quân
sự tạm thời" (vĩ tuyến 17)… mà ở hai phía của giới
tuyến này, quân đội của cả hai bên có thể được tập hợp
lại sau khi đã rút lui, Quân đội Nhân dân Việt Nam rút về
phía bắc giới tuyến và quân lính Liên hiệp Pháp rút về phía
nam. Điều 6 trong Tuyên bố Cuối cùng của Hội nghị Geneva
"<i>thừa nhận (…) rằng giới tuyến quân sự đó là tạm
thời và, dưới bất kỳ hình thức nào, không thể được
diễn giải là nó 'cấu thành một biên giới chính trị hay
lãnh thổ'</i>".

Tổng tuyển cử được dự kiến tổ chức trước tháng 7/1956
trên toàn Việt Nam. Tuyên bố Cuối cùng được Pháp, Lào, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, Liên hiệp Vương quốc Anh, Liên Xô,
Campuchia và VNDCCH chấp nhận tuyệt đối. Chính quyền VNCH không
chấp nhận Tuyên bố, tuy rằng căn cứ vào những sắp xếp cho
việc thực hiện quan hệ ngoại giao của họ, thì có thể nói
là họ bị ràng buộc bởi sự chấp thuận từ phía Pháp. Hoa
Kỳ tự lãnh trách nhiệm "kiểm soát việc sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để phá Hiệp định". Theo
bản Tuyên bố Cuối cùng thì việc tham vấn (lấy ý kiến)
trước tuyển cử không được tiến hành, mặc dù VNDCCH có
đề nghị. Lý do của việc này không cần phải bàn ở đây:
Những gì xảy ra trên thực tế, trong giai đoạn sau năm 1945,
đã quá rõ ràng – giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai
miền đã trở thành một đường biên giới giữa hai quốc gia,
Bắc và Nam Việt Nam <b>[4]</b>. Việc đó thể hiện, chẳng hạn,
trong những điều khoản của Hiệp định Paris về Hòa bình,
ngày 27/1/1973 – một hiệp định chính thức chấm dứt cuộc
chiến tranh ở Việt Nam ở chừng mực mà Mỹ tham gia. Một
phần hiệp định nêu rõ:

1. Mỹ và tất cả các nước khác tôn trọng chủ quyền độc
lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, như đã
được công nhận trong các Hiệp định Geneva năm 1954 (…).

2. Mỹ sẽ chấm dứt tất cả các hoạt động quân sự nhằm
vào lãnh thổ của VNDCCH (…).

4. Mỹ sẽ không tiếp tục dính líu về mặt quân sự hay can
thiệp vào các vấn đề nội bộ của miền Nam Việt Nam (…).

9. Chính quyền Mỹ và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
có trách nhiệm tôn trọng những nguyên tắc sau đây nhằm thực
thi quyền tự quyết của người dân miền Nam Việt Nam (…).

15. Việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện từng
bước thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở thảo luận
và thỏa thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, không có
sự cưỡng ép hay khống chế của bất kỳ bên nào, và không
có can thiệp từ nước ngoài. Thời điểm thống nhất do miền
Bắc và miền Nam Việt Nam thỏa thuận. Trong khi chờ đến thời
điểm thống nhất

(a) Giới tuyến quân sự giữa hai miền, tại vĩ tuyến 17,
chỉ là tạm thời và không phải là biên giới chính trị hay
biên giới lãnh thổ, như đã được quy định ở Đoạn 6,
Tuyên bố Cuối cùng trong Hội nghị Hòa bình 1954…

Hiệp định Paris 1973 tự nó đã không nhất quán. Một mặt,
nó gán cho VNDCCH một lãnh thổ, gán cho VNCH quyền tự quyết và
quyền tài phán, và cho cả hai bên quyền phủ quyết việc
thống nhất. Mặt khác, nó tiếp tục nhắc lại rằng biên
giới giữa hai bên không chỉ là "tạm thời" (như chúng ta
thấy, điều này là phù hợp với trạng thái tách biệt nhau
của hai thực thể), mà còn hơn thế nữa, không phải là
"biên giới chính trị hay biên giới lãnh thổ". Nhưng thật
khó để nhìn ra hệ quả nào sẽ phát sinh từ sự phủ nhận
đó, ngoài việc tái khẳng định mục tiêu chính trị của
việc thống nhất Việt Nam trong hòa bình. Mỗi thực thể [miền
Nam hay miền Bắc Việt Nam] đều là đối tượng cho các mục
đích sử dụng vũ lực, sử dụng quyền tự quyết, các vấn
đề đối ngoại và đối nội; và mỗi đối tượng như thế
đều có thể được gọi bằng một tên gọi khác, là QUỐC
GIA. <u><b>Hiệp định Paris 1973 dứt khoát, nếu không muốn nói
là rõ ràng, đã công nhận sự tồn tại của hai nước Việt
Nam.</b></u> (ND nhấn mạnh)

<center> <a
href="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4DK3hrA_VQxVEUb_tBjDt9epy57jdIv-EY9IVdkBWUwt-tfcqOsaDtPRB3ZFI4ChyphenhyphenYxxVBPN5MkKLXFs0Axgkc0IfFyK_QrNaqXrq_dxoVux6EK58Iu_2p1pP9wuJUKmsSJkGoOtak7U/s1600/c%C3%B4ng+h%C3%A0m.jpg"
><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEj4DK3hrA_VQxVEUb_tBjDt9epy57jdIv-EY9IVdkBWUwt-tfcqOsaDtPRB3ZFI4ChyphenhyphenYxxVBPN5MkKLXFs0Axgkc0IfFyK_QrNaqXrq_dxoVux6EK58Iu_2p1pP9wuJUKmsSJkGoOtak7U/s1600/c%C3%B4ng+h%C3%A0m.jpg"
width="430"></a>
</center>
Tình trạng của Việt Nam trước năm 1975 khá khác với tình
trạng của nước Đức, nhưng lại giống Triều Tiên ở mức
độ nào đó. Ở cả Triều Tiên và Việt Nam đều có thời gian
tồn tại những chính quyền thực tế nhưng không chính thức
(de facto) và đối đầu nhau: Trong cả hai trường hợp, cuối
cùng đều có một giới tuyến ngừng bắn được thiết lập,
ràng buộc đôi bên, sau thời kỳ xung đột công khai giữa đôi
bên. Giới tuyến đó về sau trở thành biên giới thực sự
giữa hai quốc gia, trong một quá trình công khai và ngấm ngầm
tán thành. Mặc dù hai bên đã từng thống nhất trong thời kỳ
tiền thực dân, nhưng Triều Tiên cũng như Việt Nam, trước khi
chia cắt, đều chưa có một quốc gia thống nhất, độc lập.

Tuy nhiên, bối cảnh Việt Nam có một số điểm đặc thù.
Cụ thể, việc thành lập sớm và thực chất chính quyền VNDCCH
vào năm 1945 và sau đó chính quyền này được Pháp thừa nhận,
dù chỉ một phần, là hoàn toàn không giống như ở Triều
Tiên. Trường hợp Triều Tiên, sự ra đời của chính thể ở
miền bắc rõ ràng là một sự vi phạm những điều ước liên
quan, khiến cho phán quyết cho rằng "Chính phủ Cộng hòa
Triều Tiên, được thành lập dưới sự bảo trợ của Liên
Hiệp Quốc và được công nhận là như vậy nhờ chủ quyền
lãnh thổ có từ trước, là chính quyền trên thực tế của
cả nước Triều Tiên" trở nên hợp lý và chính đáng, ít
nhất cho đến năm 1954. Còn với Việt Nam, VNDCCH đã ra đời
trước đối thủ của họ là VNCH; trên bình diện quốc tế,
sự ra đời ấy không phải là bất hợp pháp theo bất kỳ
nghĩa nào; họ cũng được công nhận ở mức độ nào đấy,
và họ đã có thể tuyên bố một cách chính đáng rằng họ là
đại diện của người dân Việt Nam. Nhưng phải coi việc xác
lập hai miền riêng biệt ở Việt Nam sau đó là việc làm đánh
dấu sự ra đời của hai quốc gia riêng biệt, mà chẳng bên
nào – dù trong luật pháp hay trên thực tế – mở rộng
được ra toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy, tính hợp pháp
của mọi can thiệp nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn
từ 1954 đến 1973 đều dựa vào tiền đề cho rằng tồn tại
hai nước Việt Nam riêng biệt.

Bất chấp quy định của Điều 15 Hiệp định Paris 1973, hoạt
động quân sự vẫn tiếp tục nhằm vào VNCH, và đến ngày
30/4/1975, chính quyền VNCH sụp đổ. Ngày 1/5/1975, một Chính
phủ Cách mạng Lâm thời tuyên xưng ở Sài Gòn – đổi tên
thành Thành phố Hồ Chí Minh. Một Quốc hội bao gồm đại
diện của cả miền Bắc và miền Nam được bầu cử vào tháng
4/1976. Ngày 2/7/1976, miền Nam Việt Nam hợp nhất với miền Bắc
Việt Nam, đưa lại kết quả là "Việt Nam Cộng hòa không
phải chỉ suy tàn; nó đã chết". Một nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, tuyên bố sự trung thành của toàn
thể nhân dân Việt Nam, được công nhận là quốc gia thành
viên của Liên Hiệp Quốc vào năm 1977.

<b>
</b>

<b>Kết luận</b>

Việt Nam có lẽ chưa bao giờ là một quốc gia độc lập
thống nhất trong thời kỳ hậu thuộc địa. Nếu có khi nào
Việt Nam có được một sự thống nhất chính thức, thì đó
là vào giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1956, như là kết quả
của các Hiệp định Geneva và do không có tuyên bố nào từ
phía VNDCCH phân định đất nước thành hai chế độ. Hiệp
định Hòa bình Paris năm 1973, mặc dù mơ hồ, nước đôi, nhưng
cũng đã công nhận sự chia cắt Việt Nam trên thực tiễn thành
hai quốc gia riêng biệt – tuy rằng điều chắc chắn là, sự
chia cắt đó đã chỉ là tạm thời.

<b>----------</b>
<b>
</b> <b>Chú thích:</b>
<b>
</b> <b>[1] </b>Cameron, <i >Vietnam Crisis</i>, tập I, trang 85-89.
Điều 1 quy định: "Công dân Việt Nam ở Pháp và công dân
Pháp ở Việt Nam hưởng các quyền cư trú bình đẳng ở cả
hai nước".

<b>
</b> <b >[2] </b>Cameron, <i>Vietnam Crisis</i>, tập I, trang 146-147. Sự
công nhận của Hoa Kỳ mang tính dè dặt và nước đôi một
cách cố ý: Xem thêm O'Brien và Goebel, "U.S. Recognition Policy"
[Chính sách công nhận của Hoa Kỳ], trang 147-151.

<b >[3] </b>Tuy nhiên, đơn của Việt Nam Cộng hòa lại tiếp
tục bị phủ quyết vào năm 1955 và 1957.

<b >[4] </b>Cộng hòa (miền Nam) Việt Nam được thành lập ngày
28/10/1955, sau một cuộc trưng cầu dân ý và sau khi Bảo Đại
bị phế truất. Hoa Kỳ ngay lập tức công nhận chính quyền
mới này.

<b >----------</b>
<b >
</b> <b ><i>Bài liên quan:</i></b>
<b >
</b> <b ><a
href="http://www.phamdoantrang.com/2014/07/mot-hoc-gia-trung-quoc-tiet-lo-them-ve.html"
target="_blank">Một học giả Trung Quốc tiết lộ thêm về Công
hàm Phạm Văn Đồng</a></b>
<b ><a
href="http://www.phamdoantrang.com/2014/05/cong-ham-phamvan-ong-lam-lung-lay-yeu.html"
target="_blank">Công hàm Phạm Văn Đông làm lung lay yêu sách chủ
quyền của Việt Nam</a> </b>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140917/hoa-giai-cong-ham-pham-van-dong-thua-nhan-viet-nam-cong-hoa),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét