Trương Đình Trung - Cuộc xung đột Israel-Palestine

Cuộc xung đột Israel-Palestine đã và đang diễn hơn 60 năm rồi,
đã có vô số sách báo, tài liệu viết về nó. Tuy nhiên do sự
không cân bằng trong việc phổ biến và giải thích tin tức
của giới truyền thông, vẫn có không ít những ngộ nhận đây
đó trong dư luận về tính chất của cuộc xung đột cũng như
lập trường của các bên liên quan; đặc biệt là về mối quan
hệ Mỹ-Israel và ảnh hưởng của người Mỹ gốc Do Thái lên
các chính sách của Mỹ quanh cuộc xung đột. Bài viết vắn
tắt này là một nỗ lực khiêm tốn nhằm góp phần tim hiểu
thêm về mối quan hệ và ảnh hưởng đó.

<h2>Sơ lược lịch sử Israel-Palestine</h2>

Các thư tịch khảo cổ cho thấy rằng tổ tiên người Do Thái
(Hebrews, Jews, hay Israelis) đã hiện diện trên vùng đất có tên
là Canaan (gồm Israel, West Bank và một phần Jordan ngày nay) từ
khoảng 1800 năm trước Công Nguyên (BC). Cực thịnh là vương
quốc Do Thái (Israelite kingdom) dưới thời vua David khoảng 1000
năm trước CN với Jerusalem là thủ đô.

Nhưng rồi sau đó, vương quốc Do Thái lần lượt bị các đế
quốc Assyrians (720 BC), Babylonians (khoảng năm 580 BC), Ba-Tư và
Hy-Lạp (khoảng năm 320 BC) xâm chiếm. Nhiều người Do Thái bị
lưu đày ra khỏi vùng đất Canaan.

Đến khoảng năm 200BC, người Do Thái lại phục hồi được
vương quốc quanh vùng Palestine ngày nay với Jerusalem làm thủ
phủ. Sự tự trị này chấm dứt năm 61BC khi đế quốc Roma
đến xâm chiếm, trục xuất người Do Thái ra khỏi Jerusalem.
Đế quốc Roma cai trị vùng này cho đến khoảng năm 320 sau Công
Nguyên (320 AD). Chính dưới thời cai trị của Roma mà tên
Palestine ra đời. Sau đế quốc Roman, đến lượt đế quốc
Byzantine của Syrian chiếm cứ và cai trị vùng Palestine cho đến
khi bị Hồi Giáo đánh đuổi.

Qua thế kỷ thứ 7AD thì các đế quốc Hồi Giáo bắt đầu
làm chủ phần lớn Trung Đông và các bán đảo Arabs, trong đó
có cả vùng Palestine. Trong hàng chục thế kỷ tiếp theo, Hồi
Giáo và Thập Tự Quân (Crusaders) thay nhau làm chủ khu vực.
Jerusalem trở thành vừa là thánh địa của Do Thái Giáo
(Judaism), Ky-tô Giáo, và cả của Hồi Giáo (Islam).

Đế quốc Ottoman của người Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục toàn bộ
Trung Đông năm 1517 và tồn tại cho đến khi Đệ Nhất Thế
Chiến kết thúc năm 1918.

Như vậy, kể từ năm 61AD trở đi vương quốc Do Thái đã
biến mất trên bản đồ Trung Đông, dân Do Thái lưu tán ra
khắp nơi, và không còn là cư dân chính của vùng Palestine trong
hàng ngàn năm. Đến cuối thời đế quốc Ottoman, năm 1918, số
lượng người Jews sinh sống ở vùng Palestine còn lại rất ít,
chừng khoảng 30,000 trên tổng số gần 500,000 dân cư.

Người Palestinians xuất hiện cùng thời với người Do Thái,
nhưng ở dọc theo duyên hải giữa Địa Trung Hải và vùng sông
Jordan. Thời xưa họ còn được gọi là người Philistine, không
thờ cùng God với người Do Thái, nhưng thờ các thần khác.
Người Palestinians là một trong những chiến sĩ đầu tiên biết
xử dụng binh khí bằng sắt trong những cuộc chiến chống lại
King David của người Do Thái. Thời La Mã cai trị, Kitô giáo
được truyền bá rộng rãi và có nhiều người Palestinians theo.
Sau đó, dưới sự cai trị của đế quốc Ottoman, Hồi Giáo
lại là tôn giáo chính của đa số người Palestinians.

Đệ I Thế Chiến bùng nổ, Thổ đứng về phe Tam cường Liên
Minh Đức-Áo-Thổ (Triple Alliances) chống lại phe Tam Cường
Đồng Minh Anh-Pháp-Nga (Triple Entente). Anh Quốc rất quan tâm
đến vùng Trung Đông, xem đó là vùng chiến lược vì là nguồn
dầu hỏa, là đầu cầu dẫn vào Ấn Độ, thuộc địa quan
trọng và béo bở nhất của đế quốc Anh, và kênh đào Suez.
Để củng cố lực lượng của mình trong vùng, Anh Quốc bèn
hứa với dân Arabs là sẽ giúp họ thoát khỏi sự cai trị của
đế quốc Ottoman của Thổ để được độc lập một khi
chiến tranh kết thúc. Một mặt khác Anh Quốc, do nỗ lực vận
động của Zionist Organization, một tổ chức của người Jews
(DoThái) có khuynh hướng bài Nga thân Đức, cũng hứa với
người Jews, qua tuyên bố Balfour (Balfour Declaration) năm 1917, sẽ
giúp họ thành lập một quốc gia trên vùng Palestine. [1]

Khi Đệ I Thế Chiến kết thúc, Anh quốc không giữ lời hứa
trao trả độc lập cho người Arabs. Trái lại, Anh-Pháp trước
đó đã ký mật ước Sykes-Picot (George Picot, phiá Pháp và Mark
Sykes, phía Anh) chia phần với nhau, theo đó Pháp kiểm soát một
phần Turkey, Syria, Bắc Iraq, và Lebanon; trong khi Anh cai quản Nam
Iraq, Jordan và vùng phía Bắc Israel ngày nay. Ngoài ra, trên danh
nghĩa, Anh được Hội Quốc Liên (League of Nations) trao quyền Uỷ
trị (mandate) vùng Palestine. Kể từ đó người Jews (Do thái) từ
các nơi trên thế giới, với sự che chở của Anh quốc, bắt
đầu về định cư ở vùng Palestine. Ngay ở giai đoạn này, sự
định cư của người Do Thái đã gây ra nhiều sự chống đối
từ người Palestinians là dân cư ngụ ở đó từ lâu đời. Năm
1922 khi người Anh làm thống kê dân số vùng Palestine thì có
khoảng 84,000 người Do Thái, chừng 670,000 người Palestinians
trong đó có hơn 70,000 người theo Kitô Giáo.

Năm 1947, Liên Hiệp Quốc tùy tiện phân chia vùng Palestine, trao
cho người Do Thái hơn một nửa lãnh thổ Palestine để lập
quốc; chừa lại hai vùng West Bank, nằm gần sông Jordan và Gaza,
nằm dọc biển Địa Trung Hải, cho người Palestinians. Hai vùng
West Bank và Gaza nằm hai bên lãnh thổ của Israel, cách nhau
chừng hơn 40km.

<h2>Quan hệ Israel-Mỹ</h2>

Có thể nói ngay rằng quan hệ Israel-Mỹ là một quan hệ song
phương đặc biệt có một không hai trong chính trường quốc
tế trong hơn nửa thế kỷ qua. Israel là quốc gia nhận nhiều
viện trợ kinh tế quân sư nhất từ Mỹ.Trung bình mỗi năm Mỹ
viện trợ trực tiếp cho Israel chừng 3 tỉ dollars, với dân số
chỉ hơn 6 triệu người, mức viện trợ như vậy tính ra mỗi
người dân Israel được hưởng gần 500 dollars/năm! Theo Green
Book của USAID (US Agency for International Development) thì tính cho
đến năm 2003, Mỹ đã viện trợ tổng cộng lên đến 140 tỉ
dollars cho Israel [2]

Đặc biệt hơn nữa là trong khi các quốc gia khác nhận viện
trợ theo từng tam cá nguyệt, Israel được nhận trọn gói ngay
từ đầu năm. Về viện trợ quân sự, các quốc gia nhận viện
trợ chỉ được phép xử dụng tiền viện trợ ngay trên đất
Mỹ; nghĩa là phải mua lại quân trang, quân dụng, vũ khí từ
các công ty Mỹ. Trong khi đó Israel lại được quyền xử dụng
25% tài khoản viện trợ quân sự để tài trợ cho kỹ nghệ
quốc phòng của riêng mình, đồng thời không cần báo cáo cho
phía Mỹ cách thức chi tiêu ngân khoản viện trợ quân sự
Israel đã nhận. Mỹ cũng ưu tiên tài trợ cho Israel trong việc
chế tạo các loại vũ khí tối tân, được tham khảo bản vẽ
các loại vũ khí mới, như bản vẽ phi cơ trực thăng Blackhawk
hoặc phản lực cơ F16 chẳng hạn. Nổi bật nhất là Mỹ đã
làm ngơ cho Israel nghiên cứu và chế tạo thành công bom nguyên
tử [3], đã tìm cách ngăn cản không cho khối Arabs đưa vấn
đề nguyên tử của Israel ra trước Cơ quan Năng lượng Nguyên
tử Quốc tế (International Atomic Energy Agency).

Về mặt ngoại giao, tính đến nay, Mỹ đã dùng quyền phủ
quyết (veto) 40 lần tại Hội Đồng Bảo An LHQ để bảo vệ cho
Israel trước những nghị quyết bất lợi của Hội Đồng này
[4]. Mỹ cũng luôn đứng về phiá Israel trong tất cả các cuộc
xung đột từ trước đến nay giữa nước này và các quốc gia
Arab và dân Palestine. Mỹ cũng ngay cả ủng hộ Israel trong việc
chiếm đóng, một cách bất công và trái phép, West Bank và Gaza
strip, của người Palestien trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967.

<h2>Lý do công khai của việc Mỹ ủng hộ Israel</h2>

Một cách chính thức, các giới chức và dư luận báo chí Mỹ
thường đưa ra các lý do sau đây để giải thích cho mối quan
hệ đặc biệt Mỹ-Israel:

1 - Israel là Đồng minh Chiến lược: Đây là lý do đầu tiên
được chính giới Mỹ viện dẫn nhiều lần, nhất là các
nghị sĩ, dân biểu trong Quốc Hội. Trong suốt thời Chiến Tranh
Lạnh, Israel là một đồng minh quan trọng trong việc ngăn chận
sự lan tràn ảnh hưởng của Liên Sô vào Trung Đông. Trong cuộc
chiến tranh 6 ngày năm 1967, Israel với sự viện trợ của Mỹ
đã chiến thắng Egypt và Syria do Liên Sô hậu thuẫn. Cuộc
chiến này là một nỗi nhục nhã cho các nước Arabs, đồng
thời làm sút giảm uy tín của Liên Sô trong vùng.

Israel cũng là một nguồn tình báo quan trọng cho Mỹ trong việc
theo dõi các hoạt động quân sự của Liên Sô.

Uỷ ban American-Israel Publich Affair Committee (AIPAC) đã từng cho
rằng:" <em>Mỹ và Israel đã hình thành một sự hợp tác đặc
thù để đáp ứng với những đe dọa chiến lược đang gia
tăng ở Trung Đông… Nỗ lực hợp tác này mang lại những lợi
ích quan trọng cho cả hai bên </em>" (The US and Israel have formed a
unique partnership to meet the growing strategic threats in Middle East…
This cooperative effort provides significant benefits for both US and
Israel)[5] Điều đó ám chỉ về vai trò vị trí tiền tiêu của
Israel trong thế chiến lược của Mỹ ở Trung Đông giữa khối
dân Arabs đông đảo.

2 – Ủng hộ một nước nhỏ bị bao vây giữa các nước lớn
ở chung quanh, một dân tộc đã bị bách hại nặng nề trong
Đệ Nhị Thế Chiến dưới chế độ Đức Quốc Xã. Dư luận
Mỹ luôn đem so sánh mối tương quan Israel-Arabs với thế đối
địch bất cân xứng giữa chàng tí hon Davis và người khổng
lồ Goliath trong Cựu Ước Kinh. Cuộc tàn sát, có tên là
Holocaust, theo đó chế độ Hitler được báo cáo là đã giết 6
triệu người Jews, đã được các học giả Mỹ xử dụng như
là nền tảng đạo đức của việc phục hồi và bảo vệ
nước Israel cho người Do Thái.

(Một chi tiết nhỏ cần lưu ý là ở Mỹ và các nước Âu
Châu, một người có thể công khai tuyên bố tại nơi công
cộng là: "không có Chúa, hay Thượng Đế!" mà không gặp
bất cứ một rắc rối pháp lý nào cả. Nhưng nếu tuyên bố
rằng: "không hề có Holocaust!" là chắc chắn sẽ bị phiền
phức, phải ra toà và không chừng còn bị tù. Không hiểu tại
sao như vậy?)

3 – Ủng hộ một chế độ Dân chủ: Một lý do chính trị
khác trong việc Mỹ hậu thuẫn cho Israel là vì dư luận Mỹ cho
rằng Israel là chế độ dân chủ tiến bộ, mẫu mực nhất ở
Trung Đông, cần phải bảo vệ cho chế độ ấy tồn tại giữa
sự bao vây của các chế độ chuyên chế trong vùng.

4 - Người Jews là một dân tộc hiếu hoà, thông minh, có một
lịch sử lâu đời. Do Thái Giáo có mối quan hệ rất gần gũi
với các tôn giáo lớn của Tây Phương như Công Giáo, Tin Lành,
v.v… Trong khi đó dưới mắt dư luận Mỹ, các dân tộc Arabs
thường hiếu chiến, bạo động, có khuynh hướng khủng bố,
kém ý thức dân chủ, và nhất là theo Hồi Giáo; một tôn giáo
có một lịch sử lâu dài đối địch với Ki-tô Giáo.

Trên đây là những lý do mà chính khách, học giới và truyền
thông Mỹ, từ suốt mấy chục năm qua, thường dùng để công
khai biện minh cho mối quan hệ hữu nghị có một không hai
Mỹ-Israel. Tuy nhiên, phân tích kỹ, người ta không khỏi không
thấy những điểm gượng gạo trong các lý do trên.

Chẳng hạn, vai trò đồng minh chiến lược có thể ít nhiều
có giá trị trước đây khi khối Cộng Sản Liên Sô còn tồn
tại. Nhưng, ngay ở điểm này cũng cần phải chú ý rằng Israel
không phải là yếu tố duy nhất ngăn chận sự lan rộng ảnh
hưởng của cộng sản trong Vùng; chính là vai trò văn hoá và
tôn giáo của khối Ả rập đã làm cho chủ thuyết
Marxist-Leninist không xâm nhập được. Hơn nữa, nay Chiến Tranh
Lạnh đã kết thúc, khối Liên Sô đã sụp đổ gần hai thập
niên rồi, không còn một đối thủ nào dòm ngó, uy hiếp ảnh
hưởng của Mỹ ở Trung Đông nữa, vậy tại sao sự gắn bó
Israel-Mỹ vẫn không thay đổi?

Về chế độ Dân chủ ở Israel thì cũng có nhiều vấn đền
chưa được giới truyền thông Mỹ phân tích sâu rộng và vô
tư. Đối với nhiều người, nói đến Dân Chủ là nói đến
sinh hoạt chính trị có hơn một đảng trở lên, có các cuộc
phổ thông đầu phiếu để người công dân bầu lên người
đại diện của mình.

Tuy nhiên, một nền Dân chủ đúng nghĩa không chỉ dừng lại
ở cơ cấu đảng phái và quyền đầu phiếu. Những đòi hỏi
khác quan trọng không kém và là nền tảng cho sinh hoạt chính
trị dân chủ là sự bình đẳng giữa các thành viên trong xã
hội, là những nhân quyền căn bản được tôn trọng. Nhiều
báo cáo của các tổ chức quốc tế như Hội Ân Xá Quốc Tế
(Amnesty International) hay Uỷ ban về các quyền Kinh tế, Xã hội
và Văn hoá của Liên Hiệp Quốc (UN Committee on Economic, Social and
Cultural Rights) cho thấy ở Israel không có sự bình đẳng xã
hội. Những ai đã quen với xã hội hợp chủng ở Mỹ chắc
sẽ rất ngạc nhiên và bất bình trước tính cách kỳ thị
chủng tộc mạnh mẽ trong xã hội Israel[6]. Chỉ có người Jews
chính gốc dựa trên nguyên tắc huyết hệ (the principle of blood
kinship) mới thật sự là công dân Israel được hưởng đầy
đủ mọi quyền lợi và sự che chở của Nhà Nước. Ngay cả
những người Arabs kết hôn với người Israeli cũng không
được trở thành công dân Israel và cư trú ở đó. Người
Arabs, hiện có đến chừng 1.3 triệu ở Israel, và các dân
thiểu số khác ở Israel, chỉ là công dân hạng hai, không
được hưởng những quyền sỡ hữu về đất đai ngang với
những người Jews. Các thăm dò dư luận giữa dân Israel cho
thấy có đến hơn 57% người Jews không chấp nhận sự bình
đẳng với các sắc dân khác và chỉ muốn trục xuất tất cả
người Arabs ra khỏi lãnh thổ Israel.

Ngoài ra, một báo cáo của Thông Tín Viên Đặc Biệt của Liên
Hiệp Quốc (UN Special Rapporteur) ghi ngày 25/8/2008 về tình hình
nhân quyền của người Palestine ở trong những vùng Israel chiếm
đóng từ cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, cho thấy rằng chính
phủ Israel đã có những vi phạm trầm trọng luật nhân quyền
quốc tế đối với người Palestine trong vùng lãnh thổ chiếm
đóng, nhất là ở vùng West Bank và Gaza. Cuộc chiếm đóng 40
năm của Israel đã tước đi hầu hết những dân quyền căn
bản của người Palestine về pháp lý, giáo dục, y tế, kinh tế
và văn hoá, gây những hậu quả xã hội nghiêm trọng và lâu
dài cho người Palestine.[7]

Những sự kiện trên đây cho thấy rằng dân Jews, hay Israeli,
không là dân tộc hiếu hoà, như giới truyền thông Mỹ đã
luôn quảng bá. Đúng là họ có một lịch sử lâu dài và rất
thông minh, nhưng họ cũng rất hiếu chiến và không kém phần
độc ác so với bất kỳ dân Arabs nào khác. Trong những ngày
đầu mới thành hình, các tổ chức Zionists của người Jews
cũng đã xử dụng sự khủng bố (terrorism) làm phương cách
hoạt động để đạt các mục đích của mình, giết hại
nhiều thường dân vô tội, hay ngay cả như ám sát Hoà Giải
Viên của Liên Hiệp Quốc, kể cả Quận Công Folke Bernadotte năm
1948, chẳng hạn, chỉ vì ông này đề nghị Quốc tế hoá thành
phố Jerusalem. Từ ngày lập quốc năm 1948, Israel đã gây ra
nhiều cuộc chiến tranh, nhiều trăm ngàn người Palestine đã
bị giết, hàng triệu người khác đã bị tước đoạt hết
đất đai, sống tha phương trong các trại tị nạn, nhiều ngàn
nhà thờ Hồi giáo trong Vùng đã bị phá huỷ.

Ngoài ra, cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, và sau này cuộc
chiến tranh Yom Kippur (tên một ngày lễ của Israel) năm 1973 cho
thấy rằng Israel đối với các nước Arabs không phải là một
chàng Davis nhỏ nhắn trước một anh khổng lồ Golliah. Sự so
sánh đó chỉ đúng trên phương diện dân số và diện tích
đất đai lúc đầu vào năm 1948. Nhưng xét trên bình diện khả
năng quân sự thì Israel không phải là một nước yếu nhược
đứng trước các cường quốc. Trái lại, Israel là một cường
quốc nguyên tử với kinh tế phát triển, hoả lực và vũ khí
tối tân luôn luôn áp đảo các nước Arabs với vũ khí thô sơ
và kinh tế kém phát triển. Điều này trái ngược với lý do
thứ 2 nêu ở trên rằng Mỹ phải ủng hộ Israel vì nước này
yếu đuối đứng trước sự đe doạ của khối Arabs đông
đảo và ở thế mạnh.

Tóm lại, những lý do thường được công khai viện dẫn cho
các chính sách của Mỹ đối với Israel là không phù hợp với
thực tế, không giải thích được một cách thỏa đáng câu
hỏi căn bản về mối quan hệ đặc biệt của hai quốc gia.
Trái lại những phân tích khách quan các sự kiện lịch sử cho
thấy có hai khía cạnh khác, sâu xa và kín đáo hơn, ít được
công luận biết đến, của mối quan hệ Mỹ-Israel, đó là:

1- Mỹ muốn chế ngự Trung Đông và kho dầu lửa của nó, và
để đạt mục đích đó, Mỹ đã xử dụng con bài Israel trong
chiến lược cân bằng quyền lực từ xa (off-hand balance of
powers); chiến lược này ít ra đã áp dụng được cho đến khi
chiến tranh Iraq xảy ra năm 2003, khi Mỹ phải trực tiếp can
thiệp.

2 – Do tham vọng tái lập một nước Isreal Lớn, người Do
Thái đã nỗ lực vận động hành lang (Jewish Lobby) để hướng
dư luận và chính sách của Mỹ vào mục tiêu đó.

<h2> Khống chế Trung Đông</h2>

Động lực chính yếu khiến Mỹ luôn xem trọng và quyết tâm
duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Israel, đó là độc tôn
khống chế nguồn dầu lửa ở Trung Đông. Đó cũng là nền
tảng trong chính sách của đế quốc Anh trong thập niên đầu
của thế kỷ 20 đối với khối Arabs trong Vùng. Vì động cơ
đó, Mỹ cần đến Israel như một căn cứ tiền tiêu trong việc
chống lại các trào lưu quốc gia (nationalism) của các nước
Arabs, gây xáo trộn, làm suy yếu và chia rẽ giữa các quốc gia
này, kìm hãm đà phát triển kinh tế, ngăn cản họ đoàn kết
chặt chẽ lại thành một khối trên căn bản tôn giáo chung,
Muslim, để bảo vệ nguồn tài nguyên dầu hỏa, là máu của
nền văn minh thế giới hiện đại. Sự hùng mạnh và đoàn
kết của các nước Arabs theo chủ nghĩa quốc gia bị xem là
mối đe doạ nghiêm trọng cho sự khống chế của Mỹ đối
với chính tình và nguồn dầu lửa ở Trung Đông.

Đệ nhị thế chiến đã làm cho Âu Châu, ở cả hai phe, suy
sụp hoàn toàn. Vị thế bá chủ của đế quốc Anh cũng dần
dà biến mất, nhường chỗ cho siêu cường đang lên là Mỹ.
Cuộc chiến đã làm cho Anh quốc gần như phá sản, mắc một
số nợ lớn; trong lúc Mỹ lại trở thành chủ nợ hầu như
của tất cả các cường quốc của khối Đồng Minh. Anh đành
phải nhường dần điạ vị của mình cho Mỹ. Cùng với việc
phát hiện ra Arab Saudi và mối quan hệ đặc biệt giữa Tổng
Thống Mỹ Roosevelt và vua Abdul Aziz Saud, Mỹ đã khống chế
được một vựa dầu lớn. Trong số 7 công ty dầu hỏa lớn
nhất thế giới từ trước đến nay, người ta còn gọi là "7
chị em" (seven sisters), thì Mỹ đã chiếm hết 5. Đó là Mobil,
Exxon, Texaco, Chevron và Gulf Oil. Hai công ty kia là BP (British
Petroleum) and Shell của Anh. Dầu hỏa, như vậy, mang dấu ấn
rất nặng của văn minh Anglo-Saxon. Những công ty dầu hỏa này
đôi lúc còn được gọi là Big Oils, kiểm soát hầu như toàn
bộ dầu hoả rẻ tiền của Trung Đông, cung cấp dầu cho toàn
thế giới.

Sau Đệ nhị Thế chiến, với kế hoạch Marshall, 5 công ty dầu
của Mỹ trở thành độc quyền cung cấp dầu cho Âu châu. Các
quốc gia Âu châu, trái lại không được dùng tiền của kế
hoạch để xây dựng nhà máy lọc dầu riêng cho mình. Sự độc
quyền đó đã giúp cho Big Oils thu được những lợi nhuận
khổng lồ. Điều này đóng góp vào sự cực thịnh của kinh
tế Mỹ trong thập niên 1950s. Nhờ vào giá dầu quá rẻ mà hệ
thống xa lộ liên bang ra đời dưới đạo luật National Defense
Highway Act. Cùng với hệ thống giao thông là kỹ nghệ xe hơi
bùng phát với những công ty xe hơi lớn có ảnh hưởng rất
quan trọng đối với kinh tế Mỹ, đến độ bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ, ông Wilson, đã có câu nói bất hủ: "<em>Cái gì
tốt cho General Motors thì cũng tốt cho nước Mỹ"</em> (What's
good for General Motors is good for America) (General Motors là một hãng
chế tạo xe hơi lớn của Mỹ).

Bảo vệ nguồn dầu hỏa Trung Đông, như vậy, là rất quan
trọng, trở thành sợi chỉ xuyên suốt lịch sử chính sách
đối ngoại của Mỹ ở Trung Đông trong hơn nửa thế kỷ nay.
Có thể tìm thấy rất nhiều dấu vết của động cơ ấy qua
chính sách của Mỹ trong thời gian ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến
đối với Iran, phản ứng trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967,
cuộc chiến Iran-Iraq, cuộc chiến vùng Vịnh 1991, cuộc chiến
Iraq 2003 và trong quá trình cuộc xung đột Israel-Palestine.

Quan điểm của Mỹ về Trung Đông được tóm tắt trong học
thuyết Carter. Vị TT này từng tuyên bố năm 1980: "Bất cứ
toan tính của một lực lượng bên ngoài nào nhằm kiểm soát
vùng Vịnh sẽ bị coi như là một hành động tấn công vào
quyền lợi sống còn của Mỹ, sẽ bị đẩy lùi bằng mọi
phương cách cần thiết, kể cả bằng quân sự".

(<em>Any attempt by any outside force to gain control of the Persian Gulf
region will be regarded as an assault on the vital interest of the US. It
will be repelled by use of any means necessary including military
force</em>).

Thượng Nghị Sĩ Dân Chủ Henry Jackson cũng từng nói rằng:
"Những đe doạ đối với sự liên tục của dòng dầu hỏa
từ vùng Vịnh là hết sức nguy hiểm cho nền kinh tế của Tây
Phương và Nhật Bản đến mức có thể gây ra đại chiến"
(<em>Threats to the continuous flow of oil through the Gulf would so much
endanger to the Western and Japanese economies as to be grounds for general
war).</em>

1 – Đối với Iran: Lúc đầu Iran và Israel được xem là hai
đồng minh chính của Mỹ ở Trung Đông. Anh Quốc kiểm soát
vựa dầu của nước này qua công ty Anglo-Iranian Oil Company. Nhưng
rồi, đến năm 1953, thủ tướng Mohammed Mossadegh, do dân Iran
bầu lên, muốn tìm cách quốc hữu hoá, có bồi thường thoả
đáng, công ty dầu hoả đó để có vốn phát triển kinh tế
Iran. Kế hoạch của Mossadegh gặp phải phản ứng dữ dội của
Anh-Mỹ. CIA liền tìm cách lật đổ Mossadegh, vu cáo ông này là
Cộng Sản, và tái lập chế độ quân chủ của vương triều
Peacock Throne, đưa vua Shah trở lại cầm quyền Iran. Khi cầm
quyền, việc đầu tiên của Shah là ký nhượng việc mua bán
dầu cho các công ty dầu hoả Tây Phương, trong đó các công ty
Mỹ chiếm 40%, với những điều kiện rất dễ dàng. Chế độ
cai trị của Shah độc đoán, hà khắc, lòng dân Iran rất oán
hận. Shah tồn tại được 26 năm chỉ nhờ một chỗ dựa duy
nhất, đó là sự hậu thuẫn của Mỹ. Điều này giải thích
vì sao năm 1979, khi phong trào Hồi Giáo Căn Để (Islamic
Fundamentalism) do Ayatollah Khomenei lãnh đạo lật đổ Shah, lập
nên chế độ Hồi giáo ở Iran, chính quyền của Khomenei đã
bắt giam con tin Mỹ trong hơn một năm, làm mất thể diện của
Mỹ trước cộng đồng quốc tế, làm sút giảm uy tín của Mỹ
ở Trung Đông. Từ đó Iran và Mỹ-Israel trở nên thù địch cho
đến nay.

2 – Chiến tranh 6 ngày: Tháng 6 năm 1967, Israel, áp dụng chiến
lược "tấn công ngăn ngừa" (preventative attack), bất thần
tấn công Egypt, Syria và Jordan. Với ưu thế tuyệt đối về
tình báo, không quân và hoả lực, chỉ trong 6 ngày Israel đã
gây thương vong cho hơn 10,000 lính Arabs, phá huỷ 340 máy bay.
Ngược lại phía Israel chỉ chết hơn 300 lính và khoảng 30 phi
cơ bị bắn hạ. Israel chiếm cao nguyên Goland của Syria, bán
đảo Sinai của Egypt, dải Gaza và vùng West Bank tiếp giáp với
Jordan. Lãnh thổ của Israel đã tăng gấp 3 lần sau cuộc chiến
6 ngày này, dồn đuổi hơn 220,000 người Palestinians ra khỏi nơi
cư trú của họ.[8]

Mỹ đã làm tất cả để hậu thuẫn cho Israel trong cuộc
chiến này: cung cấp tin tức tình báo, viện trợ các loại vũ
khí và máy bay tối tân, ngay cả cho dùng phi cơ không quân Mỹ
hoá trang và phi công Mỹ với passport dân sự trong các phi vụ
tiếp liệu cho Israel, v.v… Quan trọng hơn nữa là chính phủ
Mỹ đã dùng quyền veto để chống lại đề nghị Hội Đồng
Bảo An Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết buộc Israel trao trả các
lãnh thổ đã chiếm đóng.[9]

Một điều quan trọng hơn nữa là đến năm 1967, Israel đã
thành công trong việc sỡ hữu vũ khí nguyên tử với sự giúp
đỡ của công ty NUMEC, và của hai chính phủ Mỹ và Pháp. Tính
đến năm 1969, Israel có tổng cộng chừng từ 12 cho đến 16
đầu đạn nguyên tử. Điều này trái với lời hứa của Thủ
tướng Israel Eshkol đã đưa ra năm 1966, rằng Israel sẽ không là
nước đầu tiên sản xuất vũ khí nguyên tử ở Trung Đông.
Israel không bao giờ ký Hiệp ước Hạn chế Phổ biến Nguyên
tử (Nuclear non-proliferation Treaty) cũng không hề chấp thuận cho
việc thanh tra nguyên tử đối với đất nước của họ.

Lập trường của Mỹ trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967 giữa các
nước Arabs và Israel như trên không được xem là một thành
công về mặt ngoại giao. Khối Arabs từ đó càng nghi ngờ chính
sách của Mỹ hơn, dư luận Arabs càng ngày càng trở nên chống
Mỹ. Không khí thù địch giữa Mỹ-Israel và khối Arabs, cứ qua
mỗi biến cố chiến tranh, lại càng gia tăng hơn, làm thất
bại mọi nỗ lực kiến tạo một sự ổn định lâu dài cho
Trung Đông hoặc giúp giải quyết số phận đau khổ của hàng
triệu người Palestine đang sống trên đất của họ cũng như
những người đã và đang sống trong tình cảnh tị nạn trong
hơn nửa thế kỷ qua ở rải rác khắp các nước Egypt, Syria,
Jordan, Lebanon, v.v…

3 – Kế đến là cuộc chiến Iran-Iraq (1980-1988). Iraq và Iran
đã từng xung đột nhau nhiều lần trong lịch sử. Từ sau khi
Ayatollah Khomeini lên cầm quyền, Iran đã ngấm ngầm xúi dục
dân Iraq thuộc hệ phái Shiite nổi lên chống lại sự cầm
quyền của hệ phái Sunni. Saddam Hussein cũng có tham vọng biến
mình thành lãnh tụ của Arabs đầu tiên đánh bại người
Persians, chiếm lại vùng lãnh thổ Shatt-al-Arab.

Khi chiến tranh bắt đầu vào năm 1980, bề ngoài Mỹ đứng
trung lập, nhưng bên trong ngấm ngầm khuyến khích Saddam Hussein.
Cả hai chính phủ Mỹ, Carter và Reagan, đều tìm cách giúp đỡ
Iraq của Saddam về nhiều mặt: cung cấp tin tình báo, kể cả
không ảnh về sự bố trí của quân Iran; cung cấp hàng tỉ
dollars tín dụng; bí mật viện trợ vũ khí hoá học; viện trợ
lương thực; ủng hộ các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc lên
án Iran; nhiều chính khách Mỹ kêu gọi phong toả hải lộ Iran.
Tháng 7 năm 1988, hải quân Mỹ ngay cả bắn hạ một phi cơ
thương mãi của Iran, giết chết 290 thường dân![10]

Cuộc chiến kết thúc, Iran bị tàn phá nặng, suy kiệt về
mọi mặt. Iraq cũng kiệt quệ về kinh tế, nợ nần chồng
chất, nhưng lại có một đội quân hùng mạnh nhất trong khối
Arabs với kho vũ khí khổng lồ, đặc biệt là vũ khí hoá học
do Mỹ trang bị. Vừa để giải quyết vấn đề nợ nần,
đồng thời tận dụng lực lượng quân đội hùng mạnh cho tham
vọng trở nên cường quốc Arabs số một, Saddam Hussein đã làm
một điều dại dột ở quy mô chiến lược, đó là xâm chiếm
Kuwait, khơi mào cho cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất
tháng 8/1990.

Theo William Engdahl, thì Mỹ đã gài bẫy cho Saddam Hussein tấn
công Kuwait. Một tuần trước khi khởi binh, Saddam Hussein đã
triệu Đại sứ Mỹ, là ông April Glaspie, đến để hỏi về
lập trường của Mỹ đối với vụ tranh chấp Iraq-Kuwait và
được ông Glaspie khẳng định là Mỹ không can thiệp.[11] Sự
kiện này được ghi lại trong hồ sơ của chính phủ Saddam
Hussein.

Các cơ quan tình báo Mỹ nắm vững tin tức về kế hoạch tấn
công Kuwait của Saddam và vì vậy đã báo động trước cho hoàng
gia nước này thoát thân an toàn cùng với toàn bộ trương mục
tài chánh khổng lồ của mình. Iraq của Saddam đã hoàn thành
điều mà Mỹ mong mỏi là làm suy yếu Iran; nay đến lúc Mỹ
lại cần một lý do chính đáng để làm cho Iraq, đến lượt
nó, cũng phải kiệt quệ. Bằng việc tấn công Kuwait, Saddam
Hussein đã cho TT George Bush cơ hội tốt để thành đạt mục
đích đó, đồng thời vận động sự hậu thuẫn quốc tế cho
mưu đồ riêng của mình trong việc thực hiện một New World
Order, là một trật tự mà Ông đã xướng ra ngay sau khi bức
tường Berlin sụp đổ.

<h2>Sự vận động hành lang của người Jews ở Mỹ (Jewish
lobby)</h2>

Tổ chức vận động hành lang mạnh nhất của người Jews ở
Mỹ là American-Israeli Public Affair Committee (AIPAC). Tổ chức này
có ảnh hưởng mạnh hơn cả công đoàn AFL-CIO và Hiệp Hội
Súng trường Quốc gia (National Rifle Association). Ngoài ra, hỗ
trợ cho AIPAC còn có các nhóm Phúc Âm Kitô giáo (Christian
Evangelicals) khác như Garry Bauer, Ralph Reed, Pat Robertson, Tom Delay,
v.v… Những nhóm này tin rằng sự hồi sinh quốc gia Israel là
phù hợp với lời tiên tri trong Kinh Thánh và là Thánh Ý Chúa.
Cả nhóm Tân Bảo Thủ (neo-conservatives) cũng là những người
vận động đắc lực cho Israel, như John Bolton, cựu Đại sứ
tại LHQ, Paul Wolfowitz, cựu Thứ trưởng Quốc phòng, Jeanne
Kirpatrick, Henry Kissinger, v.v…

Nỗ lực vận động hành lang của người Israelis tập trung vào
hai mặt chính: Ảnh hưởng lên lập trường và chính sách của
các nhà lập pháp và viên chức chính phủ ở Washington, để
các lập trường, chính sách đó luôn đi theo chiều hướng ủng
hộ Israel. Thứ hai là tìm cách ảnh hưởng đến công luận
Mỹ, phô bày những nét tích cực của Israel và những gì tiêu
cực của phía Arabs, tìm cách kiểm soát các cuộc tranh luận
về các vấn đề Trung Đông, hạn chế hoặc vô hiệu hoá
những lời phê bình bất lợi cho Israel.

Uỷ Ban Công Vụ Mỹ-Do Thái (American-Israel Public Affair Committee
– AIPAC) có ảnh hưởng rất mạnh lên Quốc Hội. Uỷ Ban này
có những mối quan hệ đặc biệt đối với các nhân viên tham
mưu (staffers) của các Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nhiều nhân viên
tham mưu này hoặc là người Mỹ gốc Do Thái hoặc là thân
Israel, hay hưởng bổng lộc của AIPAC; chính bộ phận tham mưu
này là những người soạn thảo chính sách, dự luật cho Quốc
Hội. Bản thân AIPAC đôi khi còn giúp cho các nhân viên tham mưu
QH trong việc soạn thảo các báo cáo nghiên cứu, các chính
sách, tổng kết số liệu thống kê, hay ngay cả viết diễn
văn.

Đối với bên Hành Pháp cũng vậy. Một ví dụ là thời TT Bill
Clinton, chính sách Trung Đông đã được soạn thảo bởi những
nhân vật thân Israel, hoặc có quan hệ gắn bó với những tổ
chức pro-Israel, như Martin Indyk, trước kia là Phó Giám đốc
nghiên cứu của AIPAC, đồng thời là sáng lập viên cơ quan
Washington Institute for Near East Policy (WINEP) – một tổ chức ủng
hộ Israel. Một nhân vật khác cùng soạn thảo chính sách Trung
Đông thời Clinton là ông Dennis Ross, sau khi rời khỏi chính
quyền đã làm việc cho WINEP. Nhân vật thứ 3 tham dự việc
hình thành chính sách Trung Đông là ông Aaron Miller là người
thường xuyên sinh sống ở Israel.

AIPAC tìm cách tưởng lệ cho những Dân Biểu, Nghị Sĩ nào có
những chủ trương, đường lối có lợi cho Israel; ngược lại
vận dụng mọi biện pháp để trừng phạt những người có
quan điểm bất lợi cho Israel. Khi cần AIPAC có thể lập ra cả
một chiến dịch rầm rộ nào biểu tình, thư hay điện thoại
khiếu nại, hoặc dùng truyền thông để chỉ trích những chính
khách nào có vẻ có thái độ thiếu thân thiện với Israel.
Đôi khi chỉ một lời tuyên bố hớ hênh bất lợi cho Israel
cũng đủ gây rắc rối lớn cho một chính khách.

Chẳng hạn, trường hợp của Howard Dean. Năm 2004, khi ra tranh
cử TT, Howard Dean kêu gọi Mỹ nên xử sự "đồng đều"
(even-handed role) hơn trong cuộc tranh chấp Israel-Arabs. Vậy là
ngay lập tức TNS Joseph Lieberman công kích Dean cho rằng ông này
là "vô trách nhiệm" và bán rẻ Israel. Một số đông Dân
Biểu của đảng Dân Chủ ký chung thư phản đối lời tuyên
bố của Dean. Đồng thời hàng trăm ngàn thư từ, e-mails từ
các nơi gởi đến các tờ báo lớn của Mỹ kêu gọi tẩy chay
Dean, cho rằng Dean là điều không tốt cho Israel. Cho đến hôm
nay, tuy từng ở cương vị chủ tịch đảng Dân Chủ, có công
lớn trong việc giúp Obama thắng cử, nhưng Howard Dean cũng không
nắm được một ghế Bộ Trưởng nào trong chính phủ mới cả.
Nhiều người cho rằng chỉ vì Dean đã lỡ lời trước đây khi
bàn về chính sách đối với Israel-Arabs.

Ảnh hưởng của Jews Lobby cũng ghi những dấu ấn lớn lên các
chính sách của chính phủ George W. Bush đối với Iraq và Iran.
Các nhân vật neo-conservatives thân Do Thái như Paul Wolfowitz,
William Kristol, Richard Perle, Donald Rumsfeld, Charles Krauthammer, Robert
Kagan, đã cùng với WINEP, JINSA (think tanks Do Thái) tích cực vận
động cho chiến tranh Iraq ngay từ thời TT Bill Clinton, và từ
những ngày đầu của TT Bush. Các cơ quan tình báo Israel đã
đóng góp rất tích cực trong việc thiết lập hồ sơ chuẩn
bị cho việc tấn công Iraq, và về sau này những tin tức liên
quan đến chương trình nguyên tử của Iran. Chiến tranh Iraq và
việc kiềm chế Iran, trước hết và trên hết, là những bảo
đảm an ninh lớn lao cho Israel, chứ không phải cho chính công
dân Mỹ. Người được lợi lớn nhất trong chiến tranh Iraq là
Israel; nhưng người hứng chịu gánh nặng tài chánh và nhân
mạng lại là taxpayers Mỹ!

Một ví dụ khác nổi bật nhất về ảnh hưởng của Jewish
Lobby lên chính sách của Mỹ là trường hợp TT George W. Bush.
Vào khoảng cuối năm 2001, Bush tuyên bố ủng hộ sự thành hình
quốc gia Palestine và đề nghị phía Israel gặp Chủ tịch
Palestine Yasser Arafat để đàm phán. Ngay lập tức, Thủ tướng
Israel là Sharon liền tố cáo là Bush "<em>tìm cách làm đẹp
lòng Arabs bằng cách bán rẻ chúng ta</em>" và cảnh cáo rằng
"<em>Israel sẽ không giống với Tiệp Khắc</em>" (tried to
appease the Arabs at our expense và Israrel will not be Czechoslavia) (ý
Sharon muốn ám chỉ rằng việc Bush nhượng bộ Arabs và bỏ rơi
Israel cũng như trước kia Thủ tướng Neville Chamberlain đã
nhượng bộ Hitler và hy sinh Tiệp).

Lời tuyên bố của Sharon, theo phát ngôn viên White House là
"<em>unacceptable</em>" và làm George W. Bush giận lắm. Nhưng
rồi có đến 89 vị Thượng Nghị Sĩ Mỹ đồng ký tên yêu
cầu Bush không nên thương lượng với Yasser Arafat và không nên
kiềm chế việc Israel trả đũa người Palestine, mà nên bày tỏ
mạnh mẽ sự hậu thuẫn cho Israel. (Bức thư của các TNS là
kết quả của cuộc họp giữa các lãnh tụ của Cộng Đồng
người Mỹ gốc Do Thái với các Nghị Sĩ chính trong Thượng
Viện). Vậy là Bush đành nuốt giận.

Chưa hết, đến tháng 4 năm 2004 khi quân đội Do Thái (Israel
Defense Force) ào ạt tấn công, chiếm đóng nhiều vị trí ở
West Bank của người Palestine, gây công phẫn dư luận quốc tế,
TT Bush vì uy tín của Mỹ, đã lên tiếng công khai yêu cầu
Israel rút quân "<em>halt the incursion and begin withdrawal without
delay".</em>

Thay vì làm theo lời Bush, Israel và Jews Lobby đã ráo riết vận
động Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho chính sách của Israel, vượt
qua phản ứng của Hành Pháp. Hạ Viện bỏ phiếu 352/21 và
Thượng Viện 94/2 thông qua Nghị Quyết kêu gọi đoàn kết và
cấp thêm 200 triệu dollars cho Israel để chống khủng bố!
Người ta chưa thấy Quốc Hội đạt được sự đồng thuận
cao như vậy trong bất kỳ một biểu quyết ngân sách hay dự
luật nào khác. Sau này Cố vấn An Ninh Quốc Gia Brent Scrowcroft
đã nói rằng Thủ Tướng Sharon của Israel "đã<em> nắm
được chóp chài của Bush</em>" (Sharon has President Bush wrapped
around his finger)![12]

Một vũ khí khác của AIPAC là đóng góp trong các chiến dịch
tranh cử. Tờ Washington Post đã có lần ước tính rằng các
ứng viên đảng Dân Chủ nhận đến gần 60% tiền vận động
tranh cử từ các ủng hộ viên gốc Do Thái. Chính phủ Bill
Clinton và cả bà Hillary Cliton đều nhận sự ủng hộ lớn lao
của AIPAC và các tổ chức pro-Israel khác. Vì vậy, tuy TT Barack
Obama nói nhiều về Thay Đổi (Change), và nhấn mạnh đến mặt
trận ngoại giao, nhưng việc trao Bộ Ngoại Giao cho bà Hillary
Clinton làm cho nhiều người tin rằng chính phủ mới sẽ không
có những đổi thay lớn trong chính sách đối với cuộc tranh
chấp Israel-Palestine; một chính sách đã từng khiến cho một
nhà thương thuyết Palestine, trong cuộc hoà đàm tại trại David
năm 2000, than phiền rằng: "<em>phải thương thuyết một lúc
với hai phái đoàn Israels: một mang cờ Do Thái và một mang cờ
Mỹ</em>" (negotiating with two Israel teams: one displaying an Israeli
flag, and one an American flag)[13]

<h2>Ảnh hưởng lên công luận Mỹ</h2>

Ngoài ra người Do Thái còn ảnh hưởng lên dư luận Mỹ thông
qua các phương thế sau đây:

1 - Think Tanks: Các think tanks đóng một vai trò rất quan trọng
trong sự định hình các luồng tư tưởng của công luận cũng
như trong việc hoạch định các chính sách trên thực tế. Think
Tanks – nơi quy tụ các học giả, chính khách, chuyên gia, chiến
lược gia, phân tích gia thượng thặng của các lãnh vực khoa
học, kinh tế, chính trị, xã hội – là một sản phẩm đặc
trưng của Mỹ xét cả về quy mô lẫn mức độ ảnh hưởng
lên chính quyền và giới truyền thông. Tại Âu Châu và Á Châu
ngày nay tuy cũng có think tanks, nhưng chẳng qua cũng chỉ là một
sự bắt chước theo Mỹ, ở quy mô khiêm tốn, mà thôi.

Kể từ khi RAND Corporation, think tank đầu tiên ra đời năm 1946,
đến nay có tổng cộng lớn nhỏ chừng hơn 1,500 think tanks trên
toàn nước Mỹ, trong số đó có chừng 15 think tanks lớn và có
ảnh hưởng nhất đặt bản doanh ở Washington, DC. Những think
tanks quen thuộc là: Amerian Heritage, Brookings Institution, Center for
Strategic and International Studies, Center for Security Policy, Foreign
Policy Research Institute, Jewish Institute for National Security Affairs
(JINSA), American Enterprise Institute, The Heritage Foundation, Cato
Institute, The Carnegie Endownment for International Peace, The Council on
Foreign Relations, Washington Institute for Near East Policy (WINEP), Hudson
Institute, v.v… Trung bình những think tanks này có ngân sách
thường niên chừng 25 triệu dollars trở lên.[14]

Trong các think tanks trên thì WINEP được lập ra năm 1985 do nỗ
lực của Jewish Lobby. Các think tanks khác như JINSA, Heritage
Foundation, Hudson Institute, The Institute for Foreign Policty Analysis và
Brooking Institution đều chịu ảnh hưởng rất nặng, hoặc về
nhân sự hoặc về tài chánh, hoặc cả hai, của giới vận
động hành lang Do Thái (Jewsish Lobby).

2 – Các trường đại học

Jewish Lobby cũng tìm nhiều phương cách để gây ảnh hưởng
đến những cuộc thảo luận tại các trường đại học liên
quan đến vấn đề Trung Đông và quốc gia Israel; nỗ lực tạo
ra những hình ảnh và dư luận tốt đẹp về Israel, đồng
thời tìm mọi cách giảm thiểu những phê bình đối với các
chính sách của nước này. Nhiều nhóm hoạt động, như Caravan
for Democracy, gởi các diễn giả đến các trường đại học
lớn giải thích các chính sách của Israel cho sinh viên Mỹ, tổ
chức các sinh hoạt ngoại khoá tuyên truyền cho Israel. Họ còn
tổ chức việc theo dõi những bài giảng của các giáo sư để
phát hiện sớm, và tìm cách đối phó, những bài có nội dung
bất lợi cho Israel, lập ra những black lists các giáo sư có quan
điểm "chống Israel" rồi vận động sinh viên và phụ huynh
lên án hoặc cô lập hay tẩy chay các giáo sư đó, hay ngay cả
vận động để các trường đại học không mướn những vị
giáo sư hay học giả đó. Một ví dụ là trường hợp học
giả Trung Đông nổi tiếng Rashid Khalidi. Khi trường đại học
Columbia mời ông về giảng dạy, lập tức có hàng ngàn lá thư
gởi đến văn phòng viện trưởng của Trường để phản đối
với lý do là ông Khalidi có quan điểm chính trị không thích
hợp. Vài năm sau, đến lượt trường đại học Princeton cũng
gặp tình cảnh tương tự khi trường này định mời ông Khalidi
đến giảng dạy ở trường.

3 – Giới truyền thông: truyền hình, báo chí, nhà xuất
bản…

Chính trong lãnh vực truyền thông Mỹ mà ảnh hưởng của
Jewish Lobby là gần như vô tiền khoáng hậu. Sơ lược sau đây
là một số những tổ hợp truyền thông lớn ở Mỹ, trong đó
người Do Thái hoặc làm chủ hoặc nắm quyền kiểm soát tuyệt
đối:

Time Warner: Tổ hợp truyền thông lớn nhất này là sự kết
hợp giữa Warner và AOL, có doanh thu hằng năm chừng 50 tỉ
dollars. Warner được người Do Thái lập ra vào thế kỷ trước,
trở nên một trung tâm quyền lực của người Do Thái ở
Hollywood. Giám đốc điều hành (CEO) hiện nay là Gerald Levin,
một người Do Thái.

Tổ hợp này bao gồm nhiều hãng phim như Warner Brothers Studio,
Castle Rock Entertainment, New Line Cinema; nhà xuất bản như Time-Life
Books, Book of the moth Club, Little Brown, v.v…; dịch vụ internet như
AOL; và cả hệ thống truyền hình CNN với hàng trăm triệu khán
giả.

Disney: Tổ hợp truyền thông khổng lồ thứ hai này có doanh
thu hàng năm chừng 35 tỉ dollars, cũng là của người Do Thái,
hiện nay do Michael Eisner làm giám đốc. Tổ hợp này cũng bao
gồm nhiều công ty truyền hình, phát thanh, nhà xuất bản: hệ
thống truyền hình ABC, ESPN, NBA, NFL, A&amp;E, Life Time TV, Disney
Radio Network, Walt Disney Company Book Publishing, Miramax Books, v.v…
Đáng chú ý nhất là Disney Publishing Worldwide xuất bản sách báo
bằng 55 ngôn ngữ khác nhau, đến 74 quốc gia trên khắp thế
giới, có hơn trăm triệu độc giả hàng tháng!

Viacom: Với doanh thu đồng niên chừng 30 tỉ dollars, Viacom là
tổ hợp lớn thứ 3 nằm dưới sự kiểm soát của người Do
Thái, đứng đầu là Sumner Redstone và Melvin Karmazin. Viacom cung
cấp các chương trình truyền hình, sỡ hữu mạng truyền hình
CBS với khoảng 39 đài truyền hình, và hàng trăm đài phát thanh
khác trên nhiều vùng. Hệ thống MTV, Country Music Television, và
The Nasville Network Cable Channels cũng thuộc về Viacom.

Ngoài ra, kênh truyền hình Fox News Channel cũng nằm dưới sự
kiểm soát của người Do Thái. Cùng với Fox Television Network, 20
th Century Fox Film và nhà xuất bản Harper Collins, nó thuộc về
tập đoàn News Corporation, chuyên vận động cho các chủ trương
cuả nhóm Tân Bảo Thủ (neoconservatives) trong chính phủ của TT
Bush, đứng đằng sau các nỗ lực tuyên truyền cho cuộc chiến
Iraq. Tờ The Weekly Standard với cây bút nổi tiếng William Kristol
cũng thuộc về News Corporation và nằm trong tầm tay điều khiển
của người Do Thái.

Như vậy, về mặt truyền thông, người Do Thái ở Mỹ đã
trực tiếp nắm trong tay nhiều cơ sở quan trọng, có mức độ
ảnh hưởng vô cùng lớn lao lên công luận Mỹ. Những nhận
định sau đây trong một bài nghiên cứu của nhóm National
Vanguard Books có thể ít nhiều nói lên tầm mức của những
ảnh hưởng như vậy:

"<em>Không có một quyền lực nào trong thế giới ngày nay
lớn hơn quyền lực đạt được bởi những người uốn nắn
công luận Mỹ. Chưa hề có một ông vua, một vị giáo hoàng
thời xưa, một ông tướng bách chiến hay một vị giáo chủ
nào đã từng hành xử một quyền lực sánh được với quyền
lực của chừng vài chục người đang kiểm soát các phương
tiện giải trí và truyền thông đại chúng của Mỹ</em>".
(there is no greater power in the world today than that wielded by the
manupulators of public opinion in America. No king or pope of old, no
conquering general, or high priest ever disposed of a power even remotely
approaching that of the few dozen men who control Amerca's mass media of
news and entertainment)[15].

Truyền thông vận dụng nhiều phương cách để nhào nặn
(manipulating) dư luận một cách tinh vi và thấu đáo. Trước
hết là cách quản lý việc đưa tin. Chỉ nội một việc sắp
xếp cách thức tin tức được đưa ra, thời điểm và khung
cảnh đưa tin, thời lượng cho từng phần tin, giọng điệu khi
đọc tin, hình tượng đi kèm theo tin, cách thức đối chiếu
các bản tin, từ ngữ xử dụng, cách chạy các hàng tít,
v.v…Rồi còn những chọn lựa dựa theo bối cảnh văn hóa,
chủng tộc, lịch sử, tôn giáo và đặc điểm tâm lý của
từng bộ phận độc, khán, thính gỉa, để rồi từ đó có
phương cách phổ biến tin tức cho phù hợp.

Chẳng hạn, cách mà báo chí Tây phương, nhất là báo chí Mỹ,
miêu tả về hành động của hai bên Israel-Palestine. Bất kỳ khi
nào Isarel có một hoạt động nào đó đối với người
Palestine, hoặc là dùng phi cơ ném bom, hay xua chiến xa tấn công
vào các vùng của người Palestine, giết hại hàng chục, hàng
trăm thường dân, kể cả đàn bà trẻ em, thì báo chí, truyền
hình Mỹ gọi đó là các hoạt động quân sự (MILITARY MISSIONS).
Nhưng nếu phía người Palestine trả đũa, bất kỳ là bằng
cách nào, kể cả bằng dùng dàn thun bắn đá hay mang bom tự
sát, gây thương vong cho thường dân hay chiến sĩ Israel, thì báo
chí và truyền hình Mỹ đều gọi các việc làm đó là hành
động khủng bố (TERRORIST ACTIONS). Dư luận Mỹ, và cả của
người Việt, không mấy ai thắc mắc về sự khác biệt trong
cách dùng từ ngữ như vậy của giới truyền thông Mỹ đối
với hai bên Israel-Palestine. Người ta mặc nhiên chấp nhận, và
chính sự mặc nhiên chấp nhận đó là kết quả của sự nhào
nặn công luận, một cách tinh vi, của các phương tiện truyền
thông Do Thái-Mỹ. Vì về mặt tâm lý, một cách vô thức,
người nghe sẽ có những phản ứng tình cảm khác nhau đối
với mỗi từ: hoặc là trung lập, kính nể hoặc là thiện cảm
đối với từ MILITARY; ngược lại sẽ khinh chê hoặc căm ghét
đối với từ TERRORIST.

Một ví dụ khác về cách chọn từ ngữ của giới truyền
thông Do Thái-Mỹ là chữ CONFLICT. Báo chí và truyền hình Mỹ
qua hàng mấy chục năm nay luôn dùng từ ngữ này khi nói đến
sự thù địch giữa Israel-Palestine. Nhưng nhiều học giả cho
rằng chữ CONFLICT bao hàm ý rằng hai bên liên hệ, trong sự
tranh chấp hay xung đột, có mức độ bình đẳng (EQUALITY) về
tư thế và về lực lượng; và không nên lẫn lộn giữa
CONFLICT với ANNEXATION, INVASION, hay OCCUPATION. Trong hàng mấy chục
năm qua, sự thật cho thấy người Israelis đã INVADED (xâm
chiếm), ANNEXED (sát nhập) và OCCUPIED (chiếm đóng) đất đai
của người Palestine, chứ không phải là tranh chấp CONFLICTED
giữa hai quốc gia bình đẳng về mặt quốc tế công pháp.
Việc lập đi lập lại từ CONFLICT là có thâm ý che lấp sự
chênh lệch quá xa lực lượng của hai bên và tính chất chủ
động xâm lăng của người Do Thái.

Ngoài việc quản lý tin tức (news management), mặt thứ hai cũng
hết sức quan trọng trong việc uốn nắn dư luận vào một
hướng định trước là việc giải thích và bình luận tin tức
của các nhà bình luận, chuyên gia, trí thức, học giả, v.v…
Về mặt này, người Do Thái, cùng với khả năng khống chế
lớn lao các phương tiện thông tin, là khả năng tài chánh để
thuê mướn các chuyên gia, nhà bình luận, học giả, biên tập
viên, ký giả, v.v…nhằm mớm vào trí óc dân Mỹ những cách
giải thích và bình luận tạo nên những hình ảnh tốt đẹp
về Israel. Người Palestine hầu như không có lấy một diễn
đàn hay một cơ hội để lên tiếng trước công luận Mỹ;
nhưng người Do Thái lại chiếm vai trò độc tôn trong công
việc giải thích và bình luận tin tức liên quan đến cuộc xung
đột Israel-Palestine. Nói đúng hơn là người Do Thái độc
quyền trong việc giải thích mọi vấn đề của cuộc xung
đột, uốn nắn dư luận theo chiều hướng thuận lợi nhất cho
phiá họ.

<h2> Hiện trạng người Palestine</h2>

Ngay khi Liên Hiệp Quốc phân chia vùng Palestine, trao phần lớn
đất đai cho người Israelis lập quốc, số dân Palestinians phải
dồn vào hai vùng West Bank và Gaza, một số lớn khác bị người
Israel xua đuổi, chạy qua tị nạn ở các quốc gia kế cận.
Đó là đợt những người Palestinians tị nạn đầu tiên.

Sau cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Israel chiếm cao nguyên Goland
của Syria, bán đảo Sinai của Egypt, vùng West Bank và Gaza, hàng
triệu người Palestine lại đã phải bỏ quê nhà trốn chạy
lần nữa, tị nạn sang các nước như Jordan, Syria, Lebanon, Egypt
v.v…Hiện nay tổng số người Palestinians tị nạn lên đến
chừng 3 triệu người: nhiều nhất là ở Jordan (1.8 triệu),
Syria và Lebanon mỗi nơi khoảng ½ triệu. Ở West Bank hiện có
khoảng 2,345,000 người Palestinians, trên diện tích khoảng 5,860km
vuông; và ở Gaza chừng gần 1.5 triệu người trên một diện
tích chừng chỉ hơn 360km vuông. Có chừng hơn 1.3 triệu người
Palestinians ở lại trong phạm vi lãnh thổ của người Israel
trước 1967.

Từ năm 1967 cho đến nay, Israel đã lần lượt trả lại bán
đảo Sinai cho Egypt và cao nguyên Goland cho Syria, nhưng đã không
chịu trao trả West Bank và Gaza cho người Palestine. Trái lại,
họ đã lần lượt đưa người Do Thái đến chiếm đất lập
thành những khu định cư trong hai vùng đất đó. Những vùng
gần nguồn nưóc, những vùng đất màu mỡ và trồng trọt
được ở West Bank đều lần lượt rơi vào tay người định
cư Do Thái. Những người định cư này được vũ trang đầy
đủ, trong tình trạng "động vi binh, tĩnh vi dân". Bên ngoài
các khu vực định cư này là các vành đai quân sự của quân
đội Do Thái (Israel Defense Force, IDF) với những Check Points để
kiểm soát sự đi lại của người Palestinians. Người định cư
và lính Do Thái còn tìm nhiều phương cách sách nhiễu làm cho
người Palestinians phải nản lòng và tự rời xa các khu định
cư của người Do Thái.

Những việc làm đó của Israel đã gây ra những biến dạng
lớn trên bản đồ Israel-Palestine từ năm 1948 đến nay. Chẳng
hạn vào năm 1948, bản đồ phân chia Palestine của Liên Hiệp
Quốc qui định thành phố Jerusalem, do tính cách lịch sử của
nó, là địa điểm quốc tế. Nhưng những năm sau này Israel đã
chiếm đóng và sáp nhập Jerusalem vào lãnh thổ của mình.

Những năm gần đây khi giải pháp Hai Quốc Gia được đưa ra,
một số tổ chức quốc tế đã giúp Palestine National Authrority
làm một số thống kê. Số liệu tháng 12 năm 2007 cho thấy dân
số của quốc gia Palestine, đã được 96 quốc gia trên thế
giới chính thức thừa nhận, là 3,770,000 người. Diện tích
của quốc gia Palestine này chỉ chừng 6,020km vuông, gồm trong hai
vùng chính là West Bank và Gaza.

Trong thời gian chiếm đóng West Bank, chính phủ Israel đã lập
ra một mạng lưới các xa lộ để nối các khu định cư
người Do Thái lại với nhau, và trên mạng xa lộ đó, người
Palestinians không được xử dụng và cũng không được đến
gần. Thời gian gần đây, người Do Thái còn xây tường
(security fence) bao bọc, che chắn cho các khu định cư Do Thái ở
West Bank, có chỗ tường cao 10m. Tại nhiều nơi các bức tường
này cắt ngay vào chính giữa những tu viện Kitô Giáo đã có
lịch sử trong cả ngàn năm rồi!

<h2> Một vài con số nói lên tình trạng định cư của ngưòi Do
Thái ở West Bank:</h2>

8,000 người định cư Do Thái chiếm 40% đất canh tác được
và 50% nguồn nước, với sự bảo vệ của 12,000 quân sĩ Do
Thái. Trong lúc chừng 1.3 triệu người Palestinians chiếm 60%
đất khô cằn còn lại và không một ai bảo vệ họ cả![16]

Các cuộc hoà đàm Camp David, Oslo, và nỗ lực đàm phán của
Liên Hiệp Quốc với Geneva Initiative tuy có đưa ra giải pháp HAI
QUỐC GIA: Israel-Palestine, cũng như nhiều đề nghị hoà bình
khác, nhưng cho đến nay vẫn chưa đem lại được một nền hoà
bình thật sự cho người Palestinians. Chính phủ Israel nhượng
bộ rất ít. Chẳng hạn, trước đây họ thừa nhận Phong Trào
Giải Phóng Palestine (PLO) là đại diện của người Palestinians,
sau này họ thừa nhận Palestine National Authority. Phía Do Thái
cũng đồng ý trao lại một số quyền hạn về cảnh sát, giáo
dục cho người Palestine trong hai vùng Gaza và West Bank. Tuy nhiên,
đó chỉ là những nhượng bộ tượng trưng nhằm mục đích
tuyên truyền. Trên thực tế, người Palestinians tại hai vùng
đó hoàn toàn không có một quyền hạn tự trị nào về kinh
tế, thương mãi, thuế khoá hay chính trị trên lãnh thổ của
họ.

Các công, nông sản của người Palestinians ở West Bank và Gaza
không được bán vào lãnh thổ của Israel vì người Do Thái sợ
bị cạnh tranh. Những người công nhân Palestinians hàng ngày vào
làm việc trong các hãng xưởng trên lãnh thổ của Israel phải
trải qua nhiều thủ tục xét hỏi rất rắc rối về an ninh.
Quyền thu thuế ở hai vùng vẫn nằm trong tay người Do Thái.
Các dịch vụ Y tế, Bưu Điện đều hoàn toàn do chính phủ Do
Thái kiểm soát. Ngay cả cơ quan Palestine National Authority của
người Palestinians vẫn phải chịu sự chi phối về tài chánh
của chính phủ Israel. Cựu TT Jimmy Carter, khi được mời quan
sát về các cuộc bầu cử của người Palestinians ở vùng West
Bank, đã kể lại một trường hợp ở Đông Jerusalem, trong vùng
West Bank, tại địa điểm đầu phiếu, nhân viên bưu điện Do
Thái có một danh sách cử tri Palestinians riêng, và những người
Palesinian nào không có tên trong danh sách đó thì nhân viên bưu
điện Do Thái không cho vào bỏ phiếu. Kết quả chỉ tại địa
điểm đầu phiếu đó thôi, đã có hơn 3000 cử tri Palestinians
bị loại. Cuối cùng đích thân Jimmy Carter phải can thiệp với
thủ tướng Israel mới giải quyết được![17]

Điều đáng chú ý ở đây là trong lúc truyền thông Mỹ không
ngớt làm ầm ĩ về các cuộc bầu cử ở Iraq, nhưng lại không
bao giờ có một tường trình đầy đủ nào về ý thức dân
chủ của người Palestinians và các cuộc bầu phiếu của họ
trong tình cảnh bị chiếm đóng ở hai vùng West Bank và Gaza.
Cựu TT George W. Bush luôn đề cao việc truyền bá Dân Chủ qua
Trung Đông, nhưng chính bản thân chính phủ của ông lại không
ngừng tiếp tay cho chính phủ Israel để tìm cách bóp chết
tiếng nói nhân quyền và dân chủ của người Palestinians trong
các cuộc bầu cử cơ quan Palestinian National Council của họ!

Giáo sư Ilan Pappe của trường đại học Haifa, một nhà sử
học Do Thái, đã gọi chính sách của Israel đối với người
Palestinians là chính sách diệt chủng (Ethnic Cleasing of Palestine).
Năm ngoái ông đã xuất bản quyển sách với nhan đề như vậy,
trong đó ông tóm tắt lịch sử của chủ nghĩa quốc gia Do Thái
Zionism, thực chất các chính sách của chính phủ Israel và sự
dối trá của chính phủ đó đối với giải pháp Hai Quốc Gia:
Israel-Palestine. Theo Giáo sư Pappe thì thực chất của chính sách
Israel đối với người Palestinians là sự thực dân và diệt
chủng (colonialism and ethnic cleasing); chính phủ Israel đã biến
Gaza và West Bank thành hai nhà tù khổng lồ, trong đó Palestinians
là tù nhân. Chủ trương căn bản của Zionism bao gồm hai khía
cạnh chính: Địa lý và Dân số (Geography and Demography). Về
Địa lý, Zionists muốn thâu tóm toàn bộ vùng Palestine; về Dân
số, họ muốn người Jews chiếm đa số tuyệt đối, số
người Palestinians phải giảm xuống mức tối thiểu, càng ít
càng tốt! [18]

Với một chủ trương như vậy, người Do Thái không bao giờ
thực lòng chấp nhận giải pháp Hai Quốc Gia Israel-Palestine bình
đẳng như nhiều người mong đợi. Chính phủ Israel đã tìm
cách gây ly gián nội bộ người Palestinians, giữa đảng Fatah
có chủ trương ôn hoà của Mahmoud Abbas và nhóm Hamas cực đoan
của Bác sĩ Mahmoud Ramahi. Khởi đầu, chính phủ Israel không
chịu thừa nhận Phong Trào Giải Phóng Palestine (PLO) và chủ
tịch Yasser Arafat. Đến khi PLO và Yasser Arafat được thế giới
và Mỹ thừa nhận thì Israel lại nại nhiều cớ khác để
không đàm phán với Arafat. Khi Yasser Arafat chết năm 2004, Mahmoud
Abbas lên thay, là một người rất ôn hoà, sẵn lòng thương
lượng cho một giải pháp hoà bình, thì chính phủ Israel lại
tìm cách gây ra nhiều khó khăn cho Abbas, khiến ông này không
làm việc được, mất dần uy tín chính trị với dân chúng;
ngược lại tạo ra những điều kiện thuận lợi cho nhóm cực
đoan Hamas gia tăng uy thế của mình, lấn át Mahmoud Abbas. Nhưng
khi Hamas mạnh lên và có hành động cứng rắn thì Israel lại
vin vào cớ đó để phản ứng mạnh hơn bằng các biện pháp
quân sự.

Việc mới đây Hamas bắn rockets vào lãnh thổ Israel và sau đó
quân đội Do Thái IDF, để trả đũa, trong 3 tuần lễ liên
tiếp đã dùng phản lực cơ ném bom, rồi dùng chiến xa và bộ
binh tấn công vào Gaza giết hơn 1,500 người Palestinians và hơn
3,500 người khác bị thương, trong đó đa số là dân thường,
đàn bà và trẻ em; 1.5 triệu người khác phải sống không
điện và nước uống trong cả tháng trời. Cho đến nay, các
nỗ lực trung gian hoà giải của Egypt và Cộng Đồng Âu Châu
vẫn chưa mang lại được kết quả gì khả quan, quân đội
Israel vẫn tiếp tục phong toả Gaza, tiếp tục oanh kích những
nơi bị nghi ngờ là đường hầm vận chuyển hoả tiễn từ
Egypt qua, và hàng trăm ngàn người Palestinians vẫn phải chịu
đựng cảnh màn trời chiếu đất, thiếu thốn cả thuốc men
lẫn lương thực. Tình cảnh này dường như phù hợp với nhận
định của cựu TT Mỹ Jimmy Carter và của nhà sử học Ilan Pappe
về âm mưu kỳ thị và diệt chủng của chính phủ Israel đối
với người Palestinians.

<h2>Kết luận</h2>

Sự tuyên truyền, giải thích tin tức về cuộc xung đột
Israel-Palestine, trong một thời gian dài, đã gây ra nhiều hiểu
biết lệch lạc, phiến diện trong dư luận do nỗ lực vận
động hành lang của chính phủ Israel và người Mỹ gốc Do
Thái. Đã đến lúc giới truyền thông cần phải tái lập lại
truyền thống thông tin trung thực và khách quan vốn có của
mình, thoát ra khỏi cái "gông" Jewish Lobby, phơi bày sự thật
của cuộc xung đột để mọi người công dân Mỹ nhận chân
được thực trạng, và rồi từ đó đòi hỏi Quốc Hội và
Chính phủ có những chánh sách phù hợp với quyền lợi thật
sự của đất nước này hơn trong tình thế chiến lược mới.

Mặt khác, lịch sử xung đột Israel-Palestine cho thấy rằng
trong chính trị nói chung, và chính trị quốc tế nói riêng,
không có chỗ cho vấn đề đạo đức hay lương tâm. Trong chính
trị quốc tế, đạo đức là đạo đức của kẻ mạnh, của
kẻ thắng trận, của kết quả sau cùng. Quan niệm cho rằng
CHÍNH TRỊ là "<em>sửa sang mọi sự lại cho ngay thẳng</em>",
theo quan niệm Á Đông, hoàn toàn không phù hợp với chính trị
quốc tế hiện đại; một sân khấu chính trị trong đó mỗi
dân tộc vì chính mình trước tiên, và điều căn bản nhất là
phải mạnh lên để bảo vệ quyền lợi của mình. Không có
VƯƠNG ĐẠO, chỉ có BÁ ĐẠO mà thôi. Mục tiêu trên hết của
chính trị quốc tế là QUYỀN LỰC, chứ không phải là Ý THỨC
HỆ. Người Israelis hay người Palestinians tranh đấu, trước
hết và trên hết, cho sự TỒN TẠI, cho sự sống còn, và đó
là một cuộc đấu tranh sinh tồn tàn bạo chịu sự chi phối
của luật đào thải; họ không chiến đấu cho TƯ BẢN hay cho
CỘNG SẢN, chỉ chiến đấu cho chính sự TỒN TẠI. Điều đó
có nghĩa rằng nếu có ý thức hệ thì chỉ có một ý thức
hệ duy nhất; đó là SỰ SỐNG CÒN CỦA TỔ QUỐC. Người Việt
chúng ta cần suy ngẫm về điều này trong mối liên tưởng về
mối-hoạ-truyền- kiếp-Trung-Hoa đang tái hiện.

Sự vận dụng quan hệ ngoại giao Israel-Mỹ của người Do Thái
là một điều khác đáng cho chúng ta so sánh. Quan hệ Mỹ-Việt
trước đây trong khoảng thời gian từ 1954-1975 có những nét
tương tự, nhưng về mặt vận dụng mối quan hệ đó cho quyền
lợi của mình thì người Việt Nam thua kém xa người Do Thái.
Căn bản của sự khác biệt đó bắt nguồn từ ý thức Quốc
Gia-Dân Tộc. Người Do Thái và các lãnh tụ của phong trào
Zionism có ý thức rất vững vàng và mạnh mẽ về quốc gia-dân
tộc của mình, nguyện vọng xây dựng lại một nước Israel
theo khuôn mẫu của vương quốc Judea thấm sâu trong lòng mỗi
người Do Thái. Chính nhờ ý thức quốc gia-dân tộc mạnh mẽ
và sâu xa đó, cộng với sự đoàn kết xây dựng trên nền
tảng huyết hệ và tôn giáo bản xứ đồng nhất – Judaism –
mà người Do Thái đã giữ được tinh thần độc lập của
mình, biết tận dụng mối quan hệ đặc biệt với Mỹ để
phục vụ cho quyền lợi của đất nước và dân tộc họ.

Cách tổ chức và khả năng vận động hành lang (lobby) của
người Do Thái ở Mỹ cũng là một điều đáng được nghiền
ngẫm bởi tất cả những người Mỹ gốc Việt nào còn ưu tư
về tương lai của Dân Tộc và Quê Hương, còn mong muốn chính
trị của quê hương thứ hai mang đến những tác động tích
cực cho quê hương đầu tiên. Ngoài tài tổ chức ra, trong lãnh
vực này người Do Thái cũng không để cho các chính khách Mỹ
lợi dụng họ; trái lại người Mỹ gốc Do Thái đã biết khai
thác tối đa cơ cấu chính trị của nước cư trú để phục
vụ cho quyền lợi tối thượng của quốc gia Israel. Sự nhạy
bén chính trị cũng như nhiệt tình và sự đòan kết của cử
tri Mỹ gốc Do Thái thật là tuyệt vời và đáng cho chúng ta
khâm phục.

<strong>© Trương Đình Trung</strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140722/truong-dinh-trung-cuoc-xung-dot-israel-palestine),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét