"<strong>Người dân càng biết rõ sự thật, đất nước càng  
an toàn</strong>" – George Washington
Gần đây, quyền tự do thông tin, và đặc biệt quyền tiếp  
cận thông tin được lưu giữ bởi giới cầm quyền đã thu hút  
được nhiều sự chú ý. Trong 5 năm qua, một lượng kỷ lục  
những nước trên thế giới, bao gồm Cộng hòa quần đảo Fiji,  
Nhật Bản, Ấn Độ, Nam Phi, Trinidad và Tobago, Vương quốc Anh  
và một vài nước phương Tây, đã bắt đầu luật hóa quyền  
tự do này và cho nó có hiệu lực. Bằng việc đó, họ đã gia  
nhập những nước đã tuyên bố những luật tương tự trước  
đó, như Thụy Điển, Mỹ, Phần Lan, Hà Lan, Úc, Canada. Một vài  
cơ chế liên quốc gia đã bắt đầu dồn sự chú ý cho vấn  
đề này,đặc biệt là những chuyển biến tại Liên Hợp Quốc  
(LHQ) hay Khối thịnh vượng chung.
Tầm quan trọng của quyền tự do thông tin, với tư cách một  
quyền căn bản, là không có gì phải nghi ngờ. Tại hội nghị  
đầu tiên của Liên Hợp Quốc vào năm 1946, Hội đồng đã  
chấp thuận nghị quyết 59, tuyên bố: "Tự do thông tin là  
một quyền căn bản và… là tiêu chuẩn của mọi sự tự do  
mà Liên Hợp Quốc cống hiến cho nó". Abid Hussain, báo cáo  
viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tự do ý kiến và  
biểu đạt, nhận định trong bản báo cáo năm 1995 tới Ủy ban  
nhân quyền rằng:
« Quyền tự do sẽ mất mọi sự hiệu lực nếu như con người  
không được tiếp cận thông tin. Tiếp cận thông tin là điều  
căn bản cho đời sống của nền dân chủ. Bởi vậy, ý đồ  
chiếm giữ thông tin từ người dân nói chung phải bị kiểm tra  
một cách mạnh mẽ »
Mức độ quan trọng của tự do thông tin có thể được nêu  
nổi bật trong những tóm tắt sau đây: tự nó quan trọng cho  
sự tự do, bảo vệ và thực hiện mọi quyền tự do khác, và  
là cây cột trụ của nền dân chủ.
Có thể, cái ý nghĩa cây cột trụ của nền dân chủ là quan  
trọng nhất. Những thông tin đang bị giữ bởi giới cầm  
quyền không thể chỉ phục vụ lợi ích của các nhân viên  
hành chính hay các chính trị gia, mà phảithuộc về toàn xã  
hội. Trừ khi có một lí do tốt đẹp nào đó giải thích việc  
chiếm giữ những thông tin như vậy thì mọi người đều có  
quyền tiếp cận nó. Quan trọng hơn nữa, tự do thông tin là  
chìa khóa tạo nên một chính phủ minh bạch và có tính trách  
nhiệm. Nó giữ một vai trò quan trọng trong việc giúp mọi công  
dân nhìn rõ những việc đang diễn ra bên trong chính phủ, và  
phát hiện những vụ việc tham nhũng và điều hành tồi. Một  
chính phủ minh bạch cũng là điều tối quan trọng nếu những  
người bầu cử có thể đánh giá tài năng của những chính  
khách được bầu và mọi người có thể thực hiện quyền dân  
chủ của họ một cách hiệu quả, ví dụ qua việc phản đối  
những dự luật mới đúng lúc.
Việc chính phủ có nghĩa vụ phải đưa ra những hành động  
thực tế, bao gồm thông qua luật pháp hóa để đưa lại hiệu  
lực cho quyền tự do thông tin càng ngày càng được thừa  
nhận. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại một cái gì đó không rõ  
ràng cho lắm, dù có thế nào, thì cái gì là nền tảng của  
việc bắt buộc đó. Các cơ quan luật pháp của cả hai cấp  
quốc gia và thế giới đều tồn tại những sự mập mờ,  
những khái niệm nền tảng rất đa dạng về nghĩa vụ của  
chính quyền trong quyền tự do biểu đạt, quyền bảo vệ đời  
sống riêng tư, hay quyền tự do tư tưởng. Trong bài viết này,  
tôi sẽ giới thiệu một số lượng những bằng chứng để  
củng cố ý tưởng rằng Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm cho  
công dân quyền tự do thông tin. Tôi cũng sẽ chứng minh rằng  
lí do dễ nhận thấy nhất của trách nhiệm này là đảm bảo  
quyền tự do ngôn luận. Cuối cùng, tôi sẽ phác thảo ĐIỀU  
19: nguyên tắc về tự do luật pháp hóa thông tin.
Trong 3 trường hợp chínhdưới đây, Tòa án châu âu về quyền  
con người đã đưa ra phán quyết Điều 10 của Hiệp định  
châu âu về bảo vệ nhân quyền và tự do căn bản bảo vệ  
tự do ngôn luận, « ngăn cấm chính phủ cản trở một người  
tiếp nhận thông tin từ một người khác muốn hoặc tự  
nguyện truyền đạt cho người đó ». Trong trường hợp này,  
Điều 10 đã không bao gồm trách nhiệm của chính phủ phải  
truyền đạt thông tin cho mọi cá nhân ». Tuy nhiên, nó cũng có  
nghĩa rằng trong cả 3 trường hợp chính, việc không cung cấp  
thông tin được cho là can thiệp vào đời sống riêng tư hay gia  
đình, vì vậy Chính phủ có trách nhiệm chủ động bảo vệ  
việc tôn trọng những quyền này. Trong hai trường hợp gần  
đây nhất của 3 trường hợp chính, Tóa án cho rằng việc  
khước từ tiếp cận thông tin không thể được biện hộ và  
do đó nó đồng nghĩa với việc vi phạm vào trách nhiệm bảo  
vệ nhân quyền của Nhà nước. Trong vụ việc của Gaskin ở  
Anh, Tòa án phán quyết rằng một cá nhân có quyền được  
tiếp cận bản ghi chép về khoảng thời gian sống trong hệ  
thống cha mẹ nuôi tạm thời của anh ta, được lưu giữ bởi  
các chính quyền địa phương. Và trường hợp gần nhất, vụ  
việc của Guerra ở Ý, Tòa án còn đi xa hơn khi cho rằng chính  
phủ có trách nhiệm cung cấp những thông tin về môi trường  
cho những người định tại khu vực nhiều rủi ro ngay cả khi  
chính phủ chưa thu thập được thông tin đó.
Có vẻ như là Tòa án rất khó khăn thông qua luật nghĩa vụ  
này và đặc biệt nghĩa vụ cung cấp sự tiếp cận thông tin,  
trong khung của điều 10, để đảm bảo quyền tự do ngôn  
luận. Lí do cho việc này không rõ ràng. Có thể là Tòa án vẫn  
còn khá bảo thủ trong cách giải quyết vấn đề, có thể lo  
lắng về việc sẽ liên quan đến truy cứu quyền tiếp cận  
thông tin của cơ quan công quyền. Cũng có thể là Tòa án hoàn  
toàn không hiểu được sự liên quan của nghĩa vụ này với  
tự do biểu đạt và tính cần thiết tiếp cận đầy đủ  
thông tin như một cây cột trụ cho nền dân chủ.
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do ý kiến và biểu  
đạt đã đi xa hơn cả sự tiến bộ trong cách giải quyết  
vấn đề. Trong nhiều bản báo cáo liên tục hàng năm tới Ủy  
ban Nhân quyền của LHQ, báo cáo viên đặc biệt đã nhận  
định rõ ràng quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan công  
quyền được bảo vệ trong Điều 19 Công ước quốc tế về  
quyền dân sự và chính trị, phần trích đoạn sau đây từ  
bản báo cáo cuối cùng vào năm 1999 chỉ rõ:
« Báo cáo viên đặc biệt biểu đạt lần nữa quan điểm của  
mình, nhấn mạnh rằng mọi người đều có quyền tìm kiếm,  
tiếp nhận, truyền đạt thông tin và bắt buộc các Nhà nước  
phải đảm bảo việc tiếp cận thông tin, đặc biệt là những  
thông tin lưu giữ bởi Chính phủ bất kể phương tiện bảo  
quản gì và hệ thống lưu giữ như thế nào: bao gồm phim ảnh,  
tấm vi phim, các công cụ điện tử, video và tranh ảnh – và  
chỉ phải chấp hành những giới hạn được quy định rõ trong  
điều 19, đoạn 3, Quyền công ước thế giới về quyền dân  
sự và chính trị »
Quan điểm này được chào đón bởi Ủy ban nhân quyền LHQ gồm  
53 thành viên.
Đối với khối Thịnh vượng chung, cũng đã có nhiều bước  
đi thừa nhận tính quan trọng của tự do thông tin. Ban thư ký  
khối Thịnh vượng chung đã tổ chức một cuộc họp mặt nhóm  
chuyên gia vào tháng 3 năm 1999 để thảo luận về tầm quan  
trọng của luật pháp hóa quyền tự do thông tin. Nhóm đã thông  
qua Văn bản cuối cùng thiết lập một số những nguyên tắc  
điều hành việc tự do thông tin, trong đó, điều đầu tiên  
là:
« Tự do thông tin phải được bảo vệ như là một quyền hợp  
pháp có tính hiệu quả thực tế cho phép mỗi cá nhân thu thập  
hồ sơ và thông tin lưu giữ bởi các cơ quan hành pháp, lập  
pháp, tư pháp của nhà nước, cũng như bất kỳ các công ty nào  
thuộc sở hữu của chính phủ và bất kỳ các cơ quan nào khác  
đang thực hiện nhiệm vụ công. »
Văn bản cuối cùng đã được chứng thực bởi các Bộ  
trưởng Luật Pháp Hội nghị và tháng 5 và sau đó bởi những  
người đứng đầu khối Thịnh vượng chung của cuộc nhóm  
họp chính phủ tháng 11 năm 1999.
Tòa án quốc gia tại nhiều nước, đặc biệt tại châu Á, đã  
ra quyết định rằng việc tiếp cận thông tin lưu giữ bởi  
các cơ quan công quyền là quyền tự do căn bản. Như là trước  
đây vào năm 1969, Tòa án tối cao Nhật Bản củng cố nguyên  
tắc, trong hai trường hợp gây nhiều sự chú ý, rằng việc  
bảo đảm quyền tự do ngôn luận trong điều 21 Hiến pháp  
Nhật Bản có bao gồm « quyền được biết ».
Trong một phán quyết cơ bản, Tòa án tối cao Ấn độ cho  
rằng, « Khái niệm về một chính phủ cởi mở là sự bắt  
nguồn trực tiếp từ quyền được biết tiềm ẩn trong quyền  
tự do ngôn luận và biểu đạt… cởi mở về thông tin đặc  
biệt là việc hoạt động của chính phủ phải là một quy  
luật và việc giữ kín ngoại lệ chỉ hợp lí khi sự đòi  
hỏi khắt khe nhất của lợi ích công cộng cần đến nó ».  
Trong trường hợp này, Tòa án tối cao chỉ trích việc không  
bổ nhiệm một thẩm phán hỗ trợ cho một kỳ tại chức mới,  
sự giống nhau giữa Bộ trương Tư pháp, Chánh tòa án tối cao,  
Nhà nước chính phủ và Chánh án Ấn Độ phải được bộc  
lộ ra.
Trong một diễn biến được kể lại gần đây, Tòa án tối cao  
Srilanka chú thích quyền tự do thông tin không nhất thiết  
được bao gồm trong việc đảm bảo tự do phát ngôn, thì «  
việc được nghe, nói đọc, viết phải được bình đẳng »  
có thể là một phần đảm bảo tự do tư tưởng và quan  
điểm. Trong một trường hợp gây tranh cãi, việc hủy bỏ  
đột ngột một chương trình phát đi hàng ngày bởi truyền  
hình nhà nước, Tập đoàn truyền thông Srilanka, có kể đến  
các tư liệu chỉ trích chính phủ. Bên tố cáo đã tuyên bố  
rằng quyền tự do ngôn luận của anh ta như là người nghe đã  
bị vi phạm bởi việc ngăn cấm được coi như Chính phủ đã  
cản trở quyền việc tiếp cận thông tin của anh ta. Tòa án  
chú thích rằng « thông tin là nguồn nguyên liệu dinh dưỡng  
của tư tưởng, và rằng quyền về thông tin, tuyệt đối, là  
kết quả tất yếu của tự do tư tưởng »
Có rất nhiều ví dụ thuyết phục – cả thực tiễn lẫn trên  
nguyên tắc – giải thích tại sao quyền về tự do thông tin  
nên được đặt trong việc đảm bảo tự do biểu đạt, ít  
nhất như nó đã được nêu ra trong Điều 19 Công ước quốc  
tế về quyền dân sự và chính trị. Theo nguyên văn, Điều 19  
khác với nhiều sự đảm bảo được thi hành bởi Tòa án nhân  
quyền châu Âu và các tòa án quốc gia được nêu ra ở trên vì  
nó bao gồm « tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi  
dạng thông tin và ý tưởng ». Chúng ta có thể biện luận  
rằng tự do tiếp nhận thông tin ngăn ngừa các cơ quan công  
quyền làm gián đoạn sự truyền tải thông tin tới các cá  
nhân và rằng quyền tự do truyền đạt thông tin cũng được  
áp dụng cho việc giao tiếp bởi các cá nhân. Những điều này  
có ý nghĩa để giải thích việc đưa thêm về tự do tìm kiếm  
thông tin, đặc biệt chung với quyền được tiếp nhận nó,  
đặt cho chính phủ một nghĩa vụ là cung cấp sự tiếp cận  
thông tin mà chính phủ giữ.
Tuy nhiên, quan trọng hơn, cái cốt lõi của tự do thông tin là  
để tạo dựng cơ sở cho tự do ngôn luận. Tầm quan trọng  
của tự do ngôn luận có thể được giải thích theo ba nghĩa:  
tính nhân bản con người, công cụ hữu hiệu nhất để tìm  
hiểu sự thật, và là cây cột trụ cho nền dân chủ. Tự do  
thông tin giữ vai trò quan trọng trong cả 3 ý nghĩa đó nhưng  
quan trọng nhất vẫn là khía cạnh về tính dân chủ. Nền dân  
chủ không thể phát triển nếu chính phủ hoạt động trong bí  
mật, không quan trọng bao nhiều cuộc đàm thoại hay tranh luận  
được cho phép. Trên thực tế, tính tự nhiên và chất lượng  
của những cuộc đàm thoại công được nâng cao một cách có  
ý nghĩa nếu không có sự nuốt trọn nguồn thông tin của các  
cơ quan công quyền. Để bảo đảm tự do ngôn luận mà không  
bao gồm tự do thông tin thì cũng chỉ là sự thi hành về mặt  
hình thức, từ bỏ cả hai mặt hiệu quả của ngôn luận trong  
thực tế và vai trò mà tự do ngôn luận mong muốn phục vụ.
Ở một mức độ tính nguyên tắc cao hơn, nền dân chủ đảm  
bảo chính phủ hoạt động dựa theo ý chí của người dân.  
Sự tin tưởng rõ ràng là không thể trừ khi chính phủ hoạt  
động trong sự cởi mở, hình thức mình bạch, bao gồm cho phép  
người dân tiếp cận thông tin mà họ nắm giữ. Nhưng nền dân  
chủ cũng bao gồm cả trách nhiệm của chính phủ đối với  
người dân và tư tưởng rằng công chức nhà nước phải thực  
sự phục vụ nhân dân. Nó bao gồm cả ý nghĩa là các cơ quan  
công quyền không có quyền giữ thông tin từ người dân, trừ  
khi có một lí do nào đó cao hơn lợi ích công cộng hợp lí  
hóa nó.
Vào tháng 6 năm 1999, Điều 19 đã công bố, Quyền được biết  
của người dân: những nguyên tắc về luật pháp hóa tự do  
thông tin, đặt ra một vài quy định cho lĩnh vực này, có ảnh  
hưởng cho việc thi hành từ cấp quốc gia cho đến quốc tế.  
Mục tiêu đầu tiên của văn bản này là thúc đẩy sự tiến  
bộ và một bộ luật quyền tự do thông tin hiệu quả, đặc  
biệt là đối với những nước đang trong quá trình phát triển  
những bộ luật tương tự. Điều 19 được tán thành bởi  
nhiều cá nhân và các tập thể và hi vọng rằng Báo cáo viên  
đặc biệt của LHQ về quyền tự do tư tưởng và phát biểu  
sẽ khuyến nghị văn bản này tới Ủy ban nhân quyền của LHQ  
trong năm 2000.
Điều đầu tiên, quy chế nền tảng của luật pháp hóa quyền  
tự do thông tin phải được dẫn dắt bởi nguyên tắc cởi mở  
tối đa, thiết lập những bộ khung rõ ràng mà các cơ quan công  
quyền nhà nước phải tôn trọng. Hai nguyên tắc cơ bản nhấn  
mạnh tính bắt buộc đối với cơ quan nhà nước trong lĩnh  
vực này. Thứ nhất là công bố những thể thức tài liệu ngay  
cả khi không có sự đòi hỏi đặc biệt. Điều quan trọng ở  
đây là thông tin về sự vận hành và những quyết định của  
các cơ quan công quyền và các loại thông tin được nắm giữ.  
Điều thứ hai là chủ động thúc đẩy một chính phủ cởi  
mở, bao gồm thông qua nền giáo dục công và đào tạo các công  
chức viên.
Một vài những nguyên tắc liên quan đến việc yêu cầu tiếp  
cận thông tin, bao gồm những trường hợp ngoại lệ, quá trình  
yêu cầu và chi phí. Yêu cầu chỉ có thể bị từ chối dựa  
trên luật pháp và chỉ khi nhà cầm quyền chứng minh rằng  
việc bộc lộ những thông tin này đặt ra một mối nguy thật  
sự cho việc bảo vệ quyền lợi công chúng. Ngay cả trong  
trường hợp đó, thông tin phải được minh bạch hóa cho công  
chúng vì lợi ích của việc này còn cao hơn cả sự thiệt  
hại. Bất kỳ một sự từ chối của cơ quan công quyền cũng  
sẽ là khởi nguồn cho những lời kêu gọi về một cơ chế  
hành chính độc lập với quyền lực cân bằng để thúc đẩy  
sự tôn trọng luật pháp và tòa án. Chi phí yêu cầu phải ko  
được quá đắt hoặc ngăn cản những yêu cầu hợp pháp.
Những nguyên tắc khác giải quyết những vấn đề về các  
cuộc họp mặt mở (chính phủ dưới ánh nắng mặt trời: ám  
chỉ sự minh bạch), bảo vệ cho những người tố giác và mối  
quan hệ giữa luật về tự do thông tin tới bất kỳ bộ luật  
kín đáo nào khác. Về nguyên tắc, luật về tự do thông tin  
phải đưa ra một bộ khung tổng hợp những ngoại lệ và  
những bộ luật không được phép vượt qua giới hạn đó.
Điều quan trọng của một quyền tự do thông tin hiệu quả,  
bất kể là cho nó hay cho nền dân chủ và việc tôn trọng  
những quyền con người khác, không còn có gì để nghi ngờ và  
nó đã có những nền tảng vững chắc trên thế giới và trong  
luật về quyền con người. Nhiều tòa án khác nhau đã tập  
trung vào những nền móng khác nhau cho quyền này, nhưng điểm  
logic lớn nhất luôn quyền tự do biểu đạt như đã được  
bảo vệ trong Điều 19 Công ước quốc tế về quyền dân sự  
và chính trị. Để hỗ trợ thảo lượng kỹ lưỡng nội dung  
của quyền này, Điều 19 đã xuất bản một tập về Những  
nguyên tắc luật pháp hóa tự do thông tin. Chúng tôi chào đón  
mọi lời nhận xét về những nguyên tắc này và mong muốn  
người đọc sử dụng chúng để vận động chính phủ chấp  
thuận một bộ luật tự do thông tin hợp lý.
Toby Mendel
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận  
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140716/toby-mendel-tu-do-thong-tin-quyen-con-nguoi-duoc-bao-ve-tren-toan-the-gioi),  
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời  
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân  
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc  
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây  
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây  
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)  
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress  
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),  
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp  
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để  
gửi bài viết cho Dân Luận!
 
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét