Tạ Chí Đại Trường - Lời tựa cuốn sách "Thần và người đất Việt"

Tại sao lại là "Bản mới"?

Bản cũ in ra năm 1989 từ lúc chúng tôi còn ở trong nước, theo
lời Nhà xuất bản Văn Nghệ, vẫn còn chất đầy kho, trong
garage của ông chủ và bạn bè. Tình trạng đó thật ra cũng
chẳng có gì đáng nói nếu nhìn chung về tình hình xuất bản
sách khoa học nhân văn ở các nước và riêng trong tình trạng
lèo tèo của nhóm người Việt di tản so với số người đọc
tiếng Việt đông đảo nằm ở chính quốc. Ông Văn Nghệ đã
làm một công việc đầy can đảm và thiện chí khi nhận chịu
in sách nghiên cứu tung ra giữa những người đồng hương đang
cuống quýt lo ổn định đời sống nơi đất lạ quê người,
còn sách thì không có cơ hội nào trở về dưới mắt đồng
bào quê cũ, trừ vài bản lạc loài lén lút đến tay những
người tò mò bằng một cách nào đó. Hơn mười năm qua đầu
óc tác giả cũng chẳng mới thêm được chút nào. Vậy thì
tại sao lại có "bản mới"?

Chẳng ai viết một quyển sách mà có can đảm tự nhận mình
đã làm một công việc hoàn hảo. Và khi nói ra những thiếu
sót thì cũng không thể bị coi là để phân trần, bào chữa.
Công việc của chúng tôi ở đây cũng vậy. Ai cũng biết, và
bây giờ vẫn có thể hình dung lại được tình hình ở Miền
Nam sau 1975 về cuộc sống vật vờ cơm áo, hoảng loạn tinh
thần của một lớp người giữa tiếng ồn ào la hét, mắng
mỏ chửi bới của một lớp người khác. Trong tình trạng đó
thì thường tình là im lặng né tránh nếu có thể được,
đừng nói đến chuyện mầy mò nghiên cứu! Tuy nhiên im lặng
né tránh lại làm phát hiện một chốn riêng tư không quyền
lực nào có thể chen vào xoi mói được, nhất là đối với
những người may mắn không phải đắm chìm lâu năm trong sự
khủng bố của quyền lực để biến cái sợ trở thành tự
giác, sợ hãi cả vào lúc không còn cái gì để mà sợ –
không phải, không dám phát sinh ra hung dữ phản kháng mà êm êm
lịm dần, lịm dần, hành xử theo phản ứng chính trị đã
được khuôn nắn tận trong tì vết tâm hồn.

May mắn cũng đến với chúng tôi khi vừa học xong thì phải đi
lính, trong gần mười một năm lêu bêu cận kề mà lại bên
lề khói lửa, đã sử dụng những thì giờ rảnh rỗi hiếm hoi
để tò mò tìm kiếm những chất liệu thêm vào sách vở cũ.
Câu "Tái ông thất mã" chận một khúc đầu của chuyện
kể, sao lại không thể áp dụng để cho đời sống có chút ý
vị lạc quan? Vậy là những tích trữ đó có chỗ sử dụng
trong cõi riêng tư mà cuộc sống bên lề sau 1975 đã giúp chúng
tôi khỏi bị ràng buộc vào nền học thuật chính thống đang
được rao giảng tận tình đến thành "chân lí không bao giờ
/ không thể nào thay đổi". Những năm vào trại cải tạo
giúp chúng tôi có thực tế để suy ngẫm về những gì vừa
xảy ra, đang xảy ra trước mắt mà không bị tràn ngập bởi
sách vở trùng trùng lẫn tiếng la hét đe doạ của những tay
thư lại mới, bởi sức nặng kiến thức của các học giả
Tây Phương thừa phương tiện và đầy uy tín quốc tế. Sách
vở cũ thoát cơn mối xông sáu năm, còn lại hai quyển Việt
điện u linh tập và Lĩnh Nam chích quái, bản dịch của ông Lê
Hữu Mục; bản dịch Toàn thư lần đầu của Hà Nội, mua
được hai tập I và II ở chợ trời Đặng Thị Nhu (Hồ Văn
Ngà cũ), tập III, IV là của chợ trời Hà Nội, tất cả mất
bìa long gáy – nhưng còn chữ là được rồi! Cũng chợ trời,
hè phố cung cấp vài tập Khảo cổ học, Nghiên cứu lịch sử.
Người nghiêm túc theo trường phái Đại học có thể chê là
làm việc theo trường phái Bạ-đâu-vơ-đó, nhưng đây cũng là
một cơ hội thoát khỏi sức nặng của kinh điển để cho trí
óc được bay bổng. Sao lại không coi là một trường hợp
"Tái ông thất mã" nữa? Vậy là bắt tay vào việc, bắt
đầu "làm việc" sau những giờ làm việc mệt nhọc hay
thời gian trống rỗng ngồi cà- phê-ghế dựa lưng vào tường
nhìn người, xe qua lại hỗn độn sát mặt.

Bây giờ ngồi nghĩ lại, chẳng hiểu tại sao đã có những ý
nghĩ như đã được viết ra. Đúng là có sự tích tụ của
kiến thức cũ từ nhà trường, trong sách vở, ngoài hiện
trường. Nhưng trong sâu thẳm hẳn là có sự phản kháng với
thân phận mình trong cơn lốc lịch sử, với đám học giả núp
bóng quyền uy chính trị, ngang ngược trước mắt. Chuyện Thánh
Gióng bình thường thì cũng đã nghe từ nhỏ đủ để trí óc
mơ mộng nâng cao, nhưng nghe mãi... gì mà "anh hùng dân tộc hay
anh hùng bộ lạc", đi theo với hình ảnh viên thiên tướng
cỡi ngựa sắt như mụ phù thuỷ Tây cỡi chổi xẹt qua xẹt
lại, không phải chỉ lẫn lộn truyền thuyết và sự thật khoa
học mà còn muốn lấy khoa học biện minh cho truyền thuyết, sao
mà thấy... ngứa quá!

Vậy là có bài viết đầu tiên theo cách nhìn trần tục nói
về chân dung Thánh Gióng được người Việt vẽ ra trong tiến
trình lịch sử (Những bài dã sử Việt, Thanh Văn xuất bản
1997.) Như thế không phải lỗi của mình khi lôi các ông Cao
Lỗ, Trương Hống, Trương Hát, Lí Phục Man, Triệu Quang Phục,
các tướng của vua Hùng, Hai Bà... cho trở về vị trí của
thần tinh gỗ đá, ma da ... ráo trọi. Từ lúc cầm quyển vở
học thuộc lòng những bài lịch sử vẫn thấy có những điều
gì không ổn, rồi khi đối chiếu với những nhân vật lịch
sử lớn nhỏ trước mắt, sự cách biệt giữa thực tế và lí
thuyết đem lại hoài nghi đã làm vỡ ra bức màn ngăn cách quá
khứ và hiện tại mà những điều học được bảo phải nhìn
lịch sử theo thực tế trần trụi, đương thời đã bừng sáng
lên trong trí óc. Cầm trong tay quyển Thế kỉ Mười – Những
vấn đề lịch sử của Hội nghị lịch sử nhóm họp tại Hoa
Lư (1982), trích những tham luận xuất sắc chứa đựng hẳn là
tinh tuý của tầng lớp người (chiến thắng) tự phụ là tinh
hoa của dân tộc, nhưng chỉ thấy những lời trau chuốt văn
từ, tán rộng lịch sử dưới lớp vỏ bọc tư tưởng "hiện
đại và dân tộc" mà bài viết "hiện đại" là của một
anh nguỵ luồn lọt được vào vì bàn "đúng hướng", lại
nổi bật chỉ vì anh nguỵ viết theo sách ít nhiều gì cũng là
của bọn Xét lại, còn các học giả sử quan mới thì không
dám nhúc nhích khỏi chữ của Thánh hiền (mà lại được dịch
ra theo một thứ chữ Việt ngô nghê, có in ấn hẳn hoi).

Sinh sống ở một vùng ngoại vi trong tiến trình lịch sử dân
tộc Việt chắc cũng giúp chúng tôi thoát khỏi những thành
kiến tuy làm nên sức mạnh chung nhưng cũng trì níu nhiều vào
quá khứ, để cảm tính che lấp lí trí, nhất là vào một
thời đại tràn trề sôi động những khẩu hiệu cao vời không
cần suy nghĩ, dưới những áp lực kìm giữ chưa từng thấy,
không chừa chỗ cho những đường lối lệch hướng. Đất
nước của các vương triều cố cựu trở nên to rộng hơn, do
đó chừa chỗ cho các luồng tư tưởng sinh hoạt rộng đường
di chuyển giúp chúng tôi nhìn thấy Bà Chúa Xứ thuần chất
trong cung Lí Trần và pha tạp chuyển biến trong các dòng đạo
Nội, điện phủ của thời cận đại, đem lại sự công bình
lịch sử: Một dân tộc – dân tộc Chàm – tưởng gần bị
diệt vong đã tái sinh dưới hình dạng hoà nhập với người
chiến thắng, không phải sống vật vờ, hời hợt mà vững
mạnh, sâu và xa. Có thể nói nữa đến ông họ Tái không?

Cứ thế mà đi tới. Với ông Bạch Mã Thái Giám xuất thần
hiển hiện nối kết sách vở với chuyến đi thực địa, lại
là bên lề của một buổi đi tìm tiền cổ. Cứ thế mà đi
tới gặp Cao Đài, Hoà Hảo, những giáo phái đầy tính năng
động nhưng thường vẫn được nhìn với tính cách dè bỉu,
hoặc ngại ngần sợ hãi, trong đó có ẩn giấu sự miệt thị
"nội hoá", địa phương – chỉ có học giả ngoại quốc
mới xem đó là một hiện tượng văn hoá đáng để ý. Cứ
thế mà...

Và rốt lại quyển sách đi tìm tâm thức dân tộc phải chứa
đựng một cách nhìn mới về lịch sử Việt Nam của thời văn
minh, hiện đại, thực sự, đáng hãnh diện, không cần phải
trốn nấp sau những lời huênh hoang ồn ào – lại chỉ để
nói với nhau theo kiểu "mẹ hát...". Một quyển sử như thế
còn là một mong ước...

Chúng tôi đành phải bằng lòng với những gì đã có. Để
trở lại với lúc đầu: Tại sao lại là "bản mới" trong
lúc chẳng có gì mới hơn? Đã nói, không phải là một lời
phân trần nhưng tập sách viết vào lúc ấy, ngoài cái hoàn
cảnh chung ai cũng biết, còn có những điều riêng mà nay mới
có dịp chấn chỉnh lại. Viết sau những giờ lăn gỗ, xúc
bột giấy, theo xe áp tải ngơ ngơ không biết hối lộ để anh
chàng công an đuổi:"Đi cho được việc!" Viết trong thời
gian chưa có điện Trị An, ngọn đèn 60w trở thành đèn ngủ
đành đánh một giấc, đổi giờ làm việc thành nửa khuya về
sáng. Viết vào lúc không mong gì xuất bản, chỉ để tuôn ra ý
tưởng thấy là mới mẻ, đánh máy trên giấy rơm đen điu,
rồi chuyền cho bạn bè người quen đọc, chưa kịp thấy nỗi
nguy hiểm của cách phát biểu "chui" như thế. Một bản
liều lĩnh đi ra nước ngoài – cũng chỉ mong người quen đọc
– được hỏi: "Đăng không? Muốn kí biệt hiệu gì?" –
"Chữ nghĩa chính quy, ai lại phải cần giấu giếm!" Trả
lời thí-mạng-cùi trong lúc chưa biết đến cái án mươi năm
của Doãn Quốc Sỹ – Hồ Khanh. Bản thảo vào tay ông chủ Văn
Nghệ trong tình trạng điếc không sợ súng như thế đó. (Và
rồi được đằng chân lân đằng đầu, bài "Việt Nam nhìn từ
bên trong" được đòi hỏi phải in trước khi tác giả ra đi).

Vì thế khi cầm quyển sách gởi chuyền vòng vèo qua Pháp, qua
một nhà ngoại giao [2011: Yoshiharu Tsuboi]có lẽ kiếm chuyện vào
Sài Gòn để đưa tận tay tác giả, thật vừa thấy vui mừng
vừa thất vọng. Lỗi của người thì ít mà lỗi của mình thì
nhiều, không thể đổ thừa tại, bởi, bị... Phải sửa thôi.
Và cũng nhân dịp sửa mà thêm vào một ít kiến thức minh
chứng thấy được về sau, mớ bằng cớ nôn nóng không dừng
được đã cho chen vào những bài viết ở Mĩ. (Những bài văn
sử, Văn Học xuất bản 1998.) Lại ở một quyển sách nghiên
cứu thì theo "tục lệ" không thể thiếu được phần Sách
dẫn, điều mà tác giả không đủ khả năng làm được – có
làm cũng phải mất nhiều thời gian mầy mò. May mắn thay, một
anh bạn trẻ ái mộ đã có lòng giúp cho theo với khả năng đã
trở thành thông thường của lớp người mới, của tương lai.

Các ý tưởng nòng cốt vẫn còn đó. Và tuy người làm việc
riêng biệt, khoa học không cần để ý nhiều đến những phản
ứng của định kiến đã thành hình – cứ "nói theo" thì
chẳng có khoa học – nhưng thiết tưởng cũng phải có lời
dàn-hoà với số đông. Một người trong nước khi cầm quyển
sách đọc đã gay gắt: "Viết sử gì như thế này!" Thật
dễ hiểu và đã lường trước được: Chúng tôi đã động
đến khôngphải chỉ kiến thức mà là tâm cảm của số đông
hiện tại, đã cho các nhân vật lịch sử "anh hùng anh thư
dân tộc" trở thành thần gần hết, đã cho vua Hùng chỉ trở
thành chính thống theo một tiến triển hợp lí dẫn đến thời
Lê sơ nửa sau thế kỉ XV chứ không phải sẵn sàng mũ áo
rồng phượng từ bốn ngàn năm trước đó...Cũng như lời
giải thích về cái đình làng động đến niềm kiêu hãnh địa
phương núp dưới dấu hiệu bản sắc quốc gia dân tộc. Phản
ứng đó cũng thấy ở vài người thân quen hay xa lạ ở hải
ngoại – thân thì nhăn nhó, sơ thì gầm gừ. Trong đời sống
thông thường, một thói quen vẫn không dễ gì gạt bỏ. Nhưng
mà ở thời đại tự do văn minh, người ta không dễ gì lấn
lướt kẻ khác, nhất là chỉ bằng chữ nghĩa. Quan niệm
"chữ của thánh hiền" còn rơi rớt khiến người ta còn quá
coi trọng mấy dòng viết, in khiến cho các "tác giả" tự coi
mình là đã làm việc "để đời", còn nhà cầm quyền thì
lo canh giữ các anh, tưởng chừng họ sắp cướp mất công cứu
nước trị dân của mình vậy. Hãy coi chữ-nghĩa như một trò
chơi kiến thức trong một sân chơi còn rộng, còn chỗ cho ăn
nhậu, nói thánh nói tướng, xem tivi, nghe radio, đĩa CD, vào
casino... để có thái độ rộng rãi với nhau hơn. Mặt khác,
cách nhìn chê bai những thành kiến, theo hướng tiêu cực khi cho
rằng mình đứng trong quan điểm mới, cũng không phải là thái
độ đúng của sử gia. Ông Lạc Vương có vẻ chính danh hơn
ông Hùng Vương nhưng không có tác động trên dân Việt thời
cận hiện đại bằng ông vua Hùng. Ông vua Lạc đã mất chỗ
đứng ở nước Việt từ thời đại có Hồ Tông Thốc, Ngô Sĩ
Liên lên tiếng, chỉ còn rơi rớt trong sách vở của người
ngoài. (An Nam chí của người Minh.) Đối tượng của sử học
không phải là cái giả định mà là cái đã xảy ra, dù nguyên
nhân được gán cho là từ những người không phải thật, từ
một thời điểm lệch. Cho nên có đẩy ông vua Hùng tụt xuống
bốn ngàn năm, cho ông Triệu Quang Phục chẳng hạn lên ngồi
lại ngai thần, sử gia không phải đã xoá thân xác họ trong
lịch sử mà là chú ý tìm hiểu tác động đến lịch sử của
các nhân vật đó như những người thật. Một ý tưởng như
thế đã có trong lời đề-từ năm 1988 đòi "lí trí dõi theo
tìm dạng thần, hồn người trên đất Việt."

Có vẻ như thế cũng đã là cạn lời rồi vậy.

<center>* * *</center>

<em>"Dù đứng ở phe phái nào đi nữa, là người Việt, ai cũng
phải công nhận rằng từ 1945, nước Việt Nam đã hiện diện
trên bản đồ thế giới, lần này không phải với danh nghĩa
một phiên thần của Trung Quốc hay một thuộc địa của
người Pháp mà là một nước độc lập, tự chủ, muốn đứng
ngang hàng với các dân tộc khác trên toàn cầu. Ấy thế mà qua
bao nhiêu xương máu đã đổ ra, kết quả thật là tệ hại,
không thể nào tự bào chữa được. Có vẻ qua bao nhiêu nguyên
nhân được dẫn ra, nguyên nhân chính là người Việt chưa tự
biết mình rõ và đúng. Trong đó có lịch sử quốc gia dân
tộc.

Người Việt vẫn thường hiểu lịch sử đất nước, dân tộc
qua một vài quyển sử được tán rộng, theo một đầu óc
hồng hoang với nước sơn khoa học, thật đúng với thực
trạng hiện tại thừa hưởng của quá khứ.

Thần, người và đất Việt, như tựa đề, không chỉ nói về
thần mà đi tìm hiểu tâm linh người Việt qua dòng thời gian,
dựa trên một cái khung lịch sử xác thực, có bằng cớ như
bất cứ một người nào của thời đại khoa học có thể
nhận ra sau khi đè nén được lòng tự ái, sự kiêu căng trong
hoang tưởng. Và cái khung lịch sử ấy có thể mở rộng ra
để có thể có được một quyển sử Việt chân xác, dồi dào
không để người ngoài giành lấy, viết giùm".</em>

Những hàng chữ nhỏ trên là viết vào cuối năm 1999, nhưng
đến khi in thì thay thế bằng các dòng sau, ở trang bìa 4:

<em>"Hãy tự biết rõ mình", lời nhà hiền triết Hi Lạp
của 2 500 năm trước là một tự vấn đòi hỏi một cách nhìn
khách quan về bản thân mình, về tập đoàn mình. Biết để
sống được, sống hợp lí với mình, với người chung quanh.
Hơn nửa thế kỉ qua, dân tộc Việt Nam xuất hiện trên thế
giới đã gây nhiều xôn xao, trong đó có những ca tụng ngút
người rồi tiếp theo là lời chê trách, sự thất vọng não
nề có vẻ chưa thấy ngày chấm dứt. Giống như ta đang chứng
kiến một thứ lên đồng tập thể mãi đến cơn hồi tỉnh
vẫn còn choáng váng miên man. Như dấu vết của một cuộc
sống trong thời đại khoa học mà chưa thoát khỏi những
vướng víu nặng nề của quá khứ, trì níu tương lai.

Thần, người và đất Việt phân tích tâm thức ấy của quá
khứ không dựa trên những lời tán rộng mà căn cứ trên
những tài liệu xác thực, các tài liệu sờ sờ trước mắt
không phải chỉ với người cùng nước đang huênh hoang mà cả
sử gia bên ngoài cũng chưa kịp nhận ra. Do đó, Thần, người
và đất Việt còn là căn bản cho một quyển sử Việt Nam
mới, hợp với thời đại khoa học, cũng là một cách giải
quyết vấn đề "tự biết mình" để theo kịp trào lưu thế
giới, nếu muốn".</em>

<a href="www.vietnamvanhien.net/thannguoidatviet.pdf">>> DOWNLOAD SÁCH TẠI
ĐÂY</a>

<strong><div class="rightalign">Tạ Chí Đại Trường</div></strong>
<strong><div class="rightalign">Nguồn: <a
href="https://www.facebook.com/pages/Phia-Truoc/133851249205">Facebook Tạp
chí Phía Trước</a></div></strong>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140711/ta-chi-dai-truong-loi-tua-cuon-sach-than-va-nguoi-dat-viet),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét