Nguyễn Trần Bạt - Nhân tài chính trị: Lời giải cho bài toán phát triển

<strong>6 bài toán lớn cho nhân tài chính trị</strong>

<em>Đến nay, quan niệm của ta về nhân tài tiến bộ hơn và
chứa đựng những đòi hỏi cụ thể hơn, tuy nhiên, cũng mới
chỉ chú trọng đến các nhân tài trong lĩnh vực khoa học tự
nhiên, hay nói cách khác là "<strong>nhân tài công
nghiệp</strong>". Như vậy, nhân tài là ai? Chúng tôi cho rằng,
nhân tài là người nhận ra những yếu tố mà một dân tộc
cần và đáp ứng một cách thông minh nhất. <strong>Cái mà dân
tộc Việt Nam đang cần, do đó, là nhân tài chính
trị.</strong></em>

Vậy thì một nhân tài chính trị cần phải giải quyết những
vấn đề nào? Trong quan điểm của chúng tôi, <strong>nhân tài
chính trị phải giải quyết không chỉ bài toán chính trị cụ
thể của từng giai đoạn lịch sử mà cả những bài toán
chính trị có tính truyền thống của lịch sử</strong>. Phải
hiểu rằng những bài toán chính trị truyền thống bao giờ
cũng chứa đựng trong nó những yếu tố riêng biệt của từng
thời đại và do đó, nhà chính trị buộc phải giải các bài
toán chính trị truyền thống bằng những lực lượng trong
thời đại của mình trên cơ sở tính đến những nhân tố
riêng biệt đó. Trong trường hợp của Việt Nam, một nhân tài
chính trị cần phải giải quyết sáu vấn đề căn bản nhất -
đó là định vị Việt Nam trong tiến trình phát triển của
thế giới, xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam, xây dựng
hệ tư tưởng quân sự Việt Nam, xây dựng chương trình phát
triển kinh tế, chính trị, văn hóa bên cạnh Trung Quốc, xây
dựng tầng lớp thượng lưu và đội ngũ trí thức trong xã
hội Việt Nam và thừa nhận các giá trị phương Tây. Chỉ khi
nào sáu vấn đề này được giải quyết thì chúng ta mới có
thể thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

<strong>1. Định vị Việt Nam trong tiến trình phát triển của
thế giới</strong>

Nhiệm vụ đầu tiên và cũng là nhiệm vụ quan trọng nhất
của nhân tài chính trị là trả lời câu hỏi Việt Nam đang ở
đâu trong tiến trình phát triển của thế giới. Dường như,
câu hỏi này chưa bao giờ được đặt ra một cách nghiêm túc,
hay nói cách khác, chúng ta chưa bao giờ có nhu cầu nhận thức
một cách chính xác về đất nước, tổ quốc và cộng đồng
của mình trên tất cả các khía cạnh. Trong khi Nhật Bản tự
nhận mình là một quốc gia nghèo, khan hiếm tài nguyên và
người Nhật Bản cần phải có những phẩm chất nhất định
để tạo ra sức mạnh dân tộc thì Việt Nam luôn tự ca ngợi
mình như một quốc gia giàu đẹp, rừng vàng biển bạc với
những con người Việt Nam anh dũng, thông minh... <em>Phải chăng
chúng ta có quá nhiều ưu điểm trong trí tưởng tượng của
mình và chính điều đó đã khiến cả một dân tộc nhận
thức sai về tầm vóc cũng như địa vị thực sự của
mình?</em>

<em>Để nhận thức rõ về Việt Nam, trước hết là phải
<strong>nhận thức về con người Việt Nam</strong>. Người Việt
Nam có ưu điểm và nhược điểm gì? Người Việt Nam có những
năng lực và khiếm khuyết như thế nào? Người Việt Nam
được đánh giá ra sao trong quá trình hội nhập hay để hội
nhập thành công, chúng ta còn thiếu những phẩm chất nào?</em>
Hết thảy những vấn đề này cần được nghiên cứu một
cách cụ thể nhằm trả lời câu hỏi con người Việt Nam đang
ở đâu trong tiến trình phát triển của thế giới. Có thể
nói, Việt Nam là dân tộc ít tự giác về con người và các
quyền con người nhất trên thế giới, thậm chí là so với các
quốc gia châu Phi. Tuy đại bộ phận nhân dân châu Phi ở trong
tình trạng lạc hậu về chính trị hơn so với người Việt
Nam, nhưng bộ phận trí thức ở châu Phi lại tiến bộ hơn
rất nhiều so với bộ phận trí thức của Việt Nam. Ở nhiều
tổ chức quốc tế, người châu Phi nắm giữ những cương vị
tương đối quan trọng. Tiêu biểu nhất là tổ chức Liên Hiệp
Quốc, hai đời Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc là người châu
Phi, gồm có các ông Boutros Ghali (1992 - 1996) và Kofi Annan (từ
1997 đến nay). Rõ ràng, các tầng lớp thượng lưu hay đội ngũ
trí thức của các nước châu Phi có vị trí cao hơn đội ngũ
trí thức Việt Nam trên trường quốc tế. Điều đó đồng
nghĩa là cộng đồng người Việt nói chung và tầng lớp trí
thức Việt Nam nói riêng hoàn toàn không phải là cộng đồng
có địa vị cao trong tiến trình phát triển các giá trị con
người trên thế giới. Đội ngũ trí thức Việt Nam, do đó,
cần phải nhận thức về địa vị của mình bởi nếu ngay cả
họ - những người đại diện cho trí tuệ của xã hội Việt
Nam - mà còn không nhận thức một cách rõ ràng về địa vị
của mình thì không bao giờ họ có thể nhận thức được
địa vị của đất nước mình trên trường quốc tế và như
vậy, Việt Nam sẽ không thể xây dựng lộ trình phát triển
bởi chúng ta hoàn toàn không biết mình đang ở đâu.

<em>Thứ hai là phải nhận thức về tài nguyên Việt Nam</em>.
Cần phải có một thái độ khách quan và dũng cảm khi đánh
giá về những ưu thế của Việt Nam để chấm dứt tình trạng
ngộ nhận về những ưu thế không tồn tại hoặc những ưu
thế không còn giá trị trong đời sống hiện đại. Gần đây,
khi xây dựng chiến lược phát triển thành cường quốc, Trung
Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác tài
nguyên biển. Biển trong nhãn quan người Trung Quốc không chỉ
là một thứ tài nguyên kinh tế mà còn là một thứ tài nguyên
chính trị và tài nguyên quân sự. Khi nhận thức về tài nguyên
Việt Nam, chúng ta cũng nên có một cách tiếp cận như vậy
để có thể khai thác một cách hiệu quả những ưu thế của
mình.

<em>Thứ ba là phải nhận thức về những điều kiện địa
chính trị, địa kinh tế, địa quân sự của Việt Nam. </em>Xét
về mặt vị trí địa lý, Việt Nam là một quốc gia mặt
tiền. Tuy nhiên, trong khi nền kinh tế hàng hải, nền kinh tế
viễn dương đã hình thành từ rất lâu, đã tạo ra đế quốc
Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đã tạo ra người
Hà Lan và một hệ thống thuộc địa mà phải mất đến hàng
trăm năm chúng ta mới tạo ra các cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc thì Việt Nam vẫn chưa tham gia vào nền kinh tế hàng
hải, vẫn chưa có hải quân, vẫn chưa có chiến thuyền. Việt
Nam là một dân tộc mở cửa gần như muộn nhất ở khu vực
Đông Nam Á và không có năng lực viễn chinh. Chính điều đó
đã khiến Việt Nam, trong một khoảng thời gian rất dài, trở
thành một bộ phận biệt lập trong các tiến trình quốc tế.

Khi bàn về các yếu tố địa kinh tế, địa chính trị và
địa quân sự của Việt Nam, chúng ta buộc phải phân tích Trung
Quốc như một trong những biến số quan trọng nhất. Hãy thử
quan sát các quốc gia khác bên cạnh Trung Quốc. Nước Nga nằm
phía trên Trung Quốc phát triển hơn Trung Quốc và có cả sức
mạnh lẫn tham vọng của một cường quốc. Nước Mông Cổ,
xét về mặt dân số, chỉ là một nước nhỏ nhưng đã từng
làm rung chuyển cả thế giới. Đội quân gần như bất khả
chiến bại của Thành Cát Tư Hãn đã trở thành ác mộng đối
với cả châu Âu bởi vó ngựa của quân Mông Cổ đi đến đâu
thì thêm một thành trì bị hạ tới đó. Đến thời Hốt Tất
Liệt, ông ta không nuôi ý chí chinh phục thế giới như các
Đại Hãn tiền nhiệm, mà dốc hết khả năng để chinh phục
toàn cõi Trung Quốc trong một chiến dịch dài ngót mười năm.
Năm 1263, ông rời kinh đô về Bắc Kinh. Trong trận hải chiến
cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh Quảng Đông, Hốt Tất Liệt
đã đánh bại nhà Nam Tống. Từ đó, Hốt Tất Liệt cai trị
toàn cõi Trung Quốc, xưng là hoàng đế, lập ra nhà Nguyên
(1280-1367). Hải quân Nhật Bản cũng từng đánh bại Trung Quốc
những năm 1894 - 1895 và làm thế giới sửng sốt với việc
chiến thắng Nga trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật 1904 - 1905.
Nhật Bản cũng từng khiến thế giới phải ngưỡng mộ trước
cái gọi là sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Đến nay,
quốc gia này vẫn tương đối thành công trong việc duy trì và
khẳng định địa vị của mình trên trường quốc tế. Hàn
Quốc cũng xác lập cho mình một vị thế bình đẳng so với
Trung Quốc. Nam Hàn, đến nay, phát triển hơn Trung Quốc cả về
kinh tế lẫn chính trị còn Bắc Hàn, mặc dù là một nước bé
(xét về mặt dân số) nhưng đủ ý chí để biến mình trở
thành kẻ đối thoại bình đẳng với Hoa Kỳ, thậm chí dám
thách đố Hoa Kỳ trong lĩnh vực quân sự. Hồng Kông hay Đài
Loan cũng không phải là những kẻ thất bại trong việc xử lý
vấn đề Trung Quốc. Cả Hồng Kông và Đài Loan đều phát
triển và tương đối độc lập với Trung Quốc, đặc biệt là
Đài Loan vẫn không ngừng nuôi tham vọng trở thành một nước
Đài Loan độc lập. Ấn Độ luôn luôn là một đối thủ đáng
gờm của Trung Quốc và không ít người tin rằng trong tương
lai, Ấn Độ sẽ trở thành một cường quốc châu Á. Rõ ràng,
việc ở gần Trung Quốc không kìm hãm sự phát triển của
chuỗi các quốc gia ấy.

Có thể nói, Việt Nam gần như là nước kém thành công nhất
trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến Trung Quốc. Tại
sao lại như vậy? Có nhiều lý do, trong đó, đầu tiên và quan
trọng nhất là bởi chúng ta không độc lập với Trung Quốc
về mặt văn hóa nói chung và về mặt tư tưởng nói riêng. Khi
viết về Ngô Thì Nhậm, chính em ruột của ông đã viết rằng
"<em>Anh ta lúc xuất thế thì dùng đạo Nho, lúc nhập thế thì
dùng đạo Thiền</em>" - đó là một sự thừa nhận về việc
Việt Nam không có hệ tư tưởng của riêng mình. Hệ tư tưởng
của Việt Nam, xét về mặt bản chất, là một sự vay mượn
chủ yếu các tư tưởng Trung Quốc, trong đó nổi bật là Nho
giáo. Trong một khoảng thời gian rất dài, người ta đã quan
niệm rằng, tinh hoa trong hệ tư tưởng Trung Quốc chính là Luân
lý Nho gia - cái mà một số quốc gia châu Á, trong đó có Việt
Nam vin vào để tự hào về những giá trị châu Á của mình.
Tâm lý này đã khiến Việt Nam không thể ra khỏi quá khứ và
lệ thuộc vào Trung Quốc. Dường như các nhà chính trị Việt
Nam không nhận thức được rằng nếu tiếp tục tự hào về
những giá trị châu Á theo cái cách như vậy thì vĩnh viễn
chúng ta sẽ không thể độc lập với Trung Quốc về mặt tư
tưởng. Hãy thử nghiên cứu cách thức mà một số quốc gia
khác lựa chọn để thoát ra khỏi những ảnh hưởng của Luân
lý Nho gia. Rõ ràng, Nhật Bản và Hàn Quốc đều chịu ảnh
hưởng của Khổng giáo nhưng họ vẫn có một nền văn hóa
tương đối khác biệt với Trung Quốc bằng cách thừa nhận
những giá trị tiến bộ của văn hóa phương Tây, trong đó
nổi bật là các giá trị tự do dân chủ. Ngay cả người cộng
sản Bắc Hàn họ cũng có lý thuyết riêng của họ - đó là lý
thuyết chủ thể và hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa cộng sản Trung Quốc. Không thể phủ nhận rằng, chính
sự độc lập về mặt văn hóa của hai quốc gia này đã tạo
ra cho họ một vị thế khác trong mối tương quan với Trung
Quốc. Do đó, Việt Nam cần phải tạo ra các giá trị của mình
bằng cách dũng cảm vứt bỏ những giá trị văn hóa lạc hậu
chứ không phải đoạn tuyệt với những giá trị châu Á hay
văn hóa phương Đông bởi chúng là sản phẩm của lịch sử và
không ai có thể đi tới tương lai mà không có hành trang là quá
khứ. Quan trọng hơn, Việt Nam cần phải xây dựng <em>một nền
văn hóa "mở"</em> - nền văn hóa có khả năng thải hồi những
yếu tố lạc hậu và tiếp nhận những yếu tố tiến bộ.

Những phân tích trên đưa đến kết luận, xác định vị trí
của Việt Nam trong tiến trình phát triển của thế giới là
nhiệm vụ quan trọng nhất của các nhà chính trị Việt Nam.
Họ buộc phải thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy để biến
Việt Nam trở thành một bộ phận trong các tiến trình quốc
tế. Chỉ có như thế thì chúng ta mới có thể phát triển một
cách thực thụ.

<strong>2. Xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam</strong>

Bàn về việc xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam, cần
phải phân tích sự ảnh hưởng lẫn nhau của chính trị, kinh
tế và văn hóa. Tài sản cơ bản của người Việt Nam là
ruộng hay <em>"làng xã"</em>. Kinh tế, do đó, là kinh tế làng xã
và hình thành nền chính trị làng xã cũng như văn hóa làng xã.
Bên cạnh đó, xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm trong khu
vực lạc hậu. So với Trung Quốc, Việt Nam giáp với các tỉnh
Quảng Tây và Vân Nam, tức là vùng lạc hậu nhất của Trung
Quốc. Xét trong khu vực, trước những năm 60, khu vực Đông Nam
Á cũng rất lạc hậu. Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện của
người Pháp vào cuối thế kỷ XIX, nhờ thứ "<em>công cụ không
tự giác của lịch sử</em>" như Marx nói mà Việt Nam đã
được tiếp cận với các tư tưởng tự do, dân chủ của
"Thế kỷ Ánh sáng" và điều này phần nào đã cải thiện tình
trạng lạc hậu trên nhiều phương diện, đặc biệt, là lạc
hậu về nhận thức và tư tưởng của chúng ta. Như vậy, không
thể phủ nhận rằng chính sự tồn tại dai dẳng và sâu sắc
của yếu tố làng xã cùng với những đặc điểm địa lý
cũng như lịch sử đó đã hạn chế không gian phát triển kinh
tế, chính trị và văn hóa của chúng ta. Trong giai đoạn hiện
nay, về vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam, chúng
ta không có định nghĩa <em>"chuyển đổi</em>" rõ ràng và cũng
không hoạch định lộ trình chuyển đổi một cách chủ động
và hợp lý, không nhận ra rằng chính điều đó có thể khiến
cho chúng ta rơi vào trạng thái chuyển từ sự phiêu lưu này
đến một sự phiêu lưu khác.

Với những phân tích trên, chúng tôi cho rằng, xây dựng hệ tư
tưởng kinh tế Việt Nam là xây dựng một cách trọn vẹn tư
tưởng phát triển các nguồn lực, các trạng thái tự nhiên
cũng như các quan hệ quốc tế của Việt Nam. Việc xây dựng
hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam cần phải dựa trên sự phân
tích rất rõ các đặc điểm về tài nguyên, dân cư, xã hội,
văn hóa cũng như các đặc điểm địa kinh tế, địa chính
trị và phải theo xu hướng hội nhập. <em>Cần phải nhận
thức rằng, toàn cầu hóa là cơ hội của các nước lạc hậu
và vì thế, các nhà chính trị của các quốc gia lạc hậu
phải xem nó như một sự động viên có chất lượng quốc tế
về cải cách. </em>Do đó, cải cách cơ cấu kinh tế theo khuynh
hướng hội nhập là một trong những điểm quan trọng của
việc xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam. Cần phải
nhắc lại rằng, bất kỳ dân tộc nào cũng phải phát triển
(nói chung) và xây dựng hệ tư tưởng kinh tế (nói riêng) dựa
trên những đòi hỏi nội tại về sự phát triển chứ không
phải do sức ép, bởi <em>sự phát triển do sức ép chính là
tiền đề của sự phát triển bằng mọi giá. Với cách tiếp
cận như vậy, chúng tôi cho rằng vấn đề đặt ra không phải
là tình huống buộc phải cải cách, mà cải cách như một nhu
cầu tự thân của nó, như một chương trình mà con người
hoạch định về tương lai của mình</em>. Do đó, xây dựng hệ
tư tưởng kinh tế Việt Nam tức là xây dựng một hệ thống
các mục tiêu mà ở đó con người tự giác hướng về tương
lai của mình. Cần phải xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt
Nam trong điều kiện hiện tại của đời sống quốc tế chứ
không phải bằng cách quay trở lại quá khứ bởi như trong
phần trước đã phân tích, lời giải của bài toán chính trị
truyền thống luôn chứa đựng chất lượng của thời đại,
cụ thể là thời đại toàn cầu hóa. Thời đại hội nhập là
thời đại nền cho việc xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay và nó chính là xây dựng các giải
pháp phát triển theo khuynh hướng hội nhập. Hiện Việt Nam đã
gia nhập ASEAN, cố gắng gia nhập WTO, tham gia các Hiệp định
song phương và đa phương. Mặc dù những bước đi này có thể
không phải là những thành tố quan trọng nhất trong chương
trình xây dựng hệ tư tưởng kinh tế Việt Nam, nhưng chúng là
những giải pháp có giá trị làm nền cho việc xây dựng hệ
tư tưởng kinh tế Việt Nam.

Hiện giờ, chúng ta đang có cơ hội để xây dựng các tư
tưởng kinh tế, hay nói cách khác là xây dựng tư tưởng phát
triển thời bình. Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể làm việc đó
một cách trọn vẹn hay không nếu vẫn tự trói mình trong
những nỗi lo ngại không chính đáng? Và liệu chúng ta có thể
tạo ra chất lượng anh hùng của mình trong cuộc sống thật hay
không nếu vẫn chìm đắm trong ánh hào quang của quá khứ? Đó
chính là những câu hỏi lớn mà một thiên tài chính trị phải
trả lời trước khi bắt tay vào sứ mệnh của mình.

<strong>3. Xây dựng hệ tư tưởng quân sự Việt Nam</strong>

Theo ước tính, trung bình khoảng 200 năm, Việt Nam lại có một
cuộc chiến tranh. Thời gian hòa bình, do đó, dài hơn thời gian
chiến tranh. Tuy nhiên, người Việt Nam luôn tự hào về chiến
thắng của mình và vì thế, <em>biến chiến tranh trở thành
nội dung quan trọng nhất trong lịch sử.</em>

Lịch sử Việt Nam chỉ ra rằng các chính quyền mới đều
được thiết lập sau một cuộc chiến tranh. Lực lượng chủ
yếu tham gia một cách kiên nhẫn vào phần lớn các cuộc chiến
tranh là nông dân. Chiến thắng, do đó, thuộc về những người
nông dân chứ không thuộc về những đối tượng khác, chẳng
hạn giới trí thức<em>. Chiến thắng của người nông dân
Việt Nam, chính vì thế, là thắng hai đối tượng cùng lúc -
đó là giặc ngoại xâm và giới trí thức Việt Nam.</em> Chính
vai trò mờ nhạt của giới trí thức Việt Nam trong phần lớn
các cuộc chiến tranh đã duy trì trạng thái chậm tiến bộ
của các triều đại. Đó là một thực tế mà chúng ta buộc
phải thừa nhận.

Tuy nhiên, nông dân Việt Nam không phải là người khởi xướng
các cuộc chiến tranh. Có thể thấy phần lớn các cuộc chiến
tranh của Việt Nam được khởi xướng bởi tầng lớp thống
trị trong xã hội cũ, nhân dân là người được huy động và
nông dân là đối tượng tham chiến. Điều đó nói lên rằng,
Việt Nam không có quân đội chuyên nghiệp. Các triều đại
phong kiến Việt Nam không đủ khả năng tài chính để xây
dựng lực lượng quân đội chuyên nghiệp nên phải gửi đội
quân của mình vào nhân dân; khi có chiến tranh, nhà nước sẽ
huy động. Điều đó dẫn đến sự hình thành khái niệm
<strong>chiến tranh nhân dân</strong> và đến nay, các tư tưởng
chiến tranh nhân dân vẫn chi phối các trạng thái hiện tại
của việc xây dựng lực lượng vũ trang Việt Nam.

Trong trường hợp của Việt Nam, nhân dân được huy động như
một đại lượng vô hạn và chính điều đó đã vô tình làm
mất đi bản chất nhân văn của khoa học quân sự.<em> Hệ tư
tưởng quân sự mới của Việt Nam, do đó, cần phải được
xây dựng trên tinh thần kéo dài những khoảng thời gian hòa
bình của nhân dân và để nhân dân không trở thành khái niệm
và nội dung chủ yếu trong các cuộc chiến tranh.</em>

Những cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc có thể sẽ
không bao giờ xảy ra ở Việt Nam nữa, nhưng những cuộc chiến
tranh khác có thể sẽ xảy ra. Chính bởi vậy, chúng ta cần
phải xây dựng tư tưởng quân sự của mình để hoàn thiện
hai nội dung căn bản: thứ nhất là<em> xây dựng lực lượng
quân đội chuyên nghiệp </em>để có thể tham gia vào các cuộc
chiến tranh như một động thái chính trị mềm dẻo và cần
thiết và thứ hai là<em> xây dựng đời sống dân sự nằm bên
ngoài mọi sự lôi kéo của các cuộc chiến tranh</em>. Đây là
nhiệm vụ chính trị không kém phần quan trọng so với việc
xây dựng các tư tưởng kinh tế, bởi nếu không làm được
như vậy, dân tộc Việt Nam sẽ không có sự phát triển ổn
định, chúng ta sẽ tiếp tục bị lôi kéo vào những cuộc
chiến tranh và như thế, dân tộc Việt Nam sẽ không có tương
lai.

<strong>4. Xây dựng chương trình phát triển kinh tế, chính trị
và văn hóa bên cạnh Trung Quốc</strong>

Nhiệm vụ tiếp theo của thiên tài chính trị là giải quyết
vấn đề sống, phát triển và hình thành các ưu thế bên cạnh
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Đây là một trong những
vấn đề chính trị truyền thống đối với Việt Nam. Thực ra,
các nhà chính trị Việt Nam luôn khó khăn trong việc giải bài
toán chính trị với Trung Quốc. Trung Quốc luôn nuôi trong mình
tham vọng trở thành cường quốc và các nhà chính trị Trung
Quốc cả trong quá khứ lẫn hiện tại không ngừng hoạch
định các bước đi chiến lược để biến tham vọng đó trở
thành hiện thực. Chính vì lý do đó, mà Trung Quốc ngày càng
trở thành một biến số quan trọng trong bài toán chính trị
của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, đặc biệt là Việt
Nam trên tư cách một nước láng giềng của Trung Quốc với
đầy đủ những ấn tượng về sự bị bành trướng cả về
kinh tế lẫn văn hóa bởi Trung Quốc.

Xét về mặt văn hóa, các nước Đông Á nói chung và cụ thể
là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam là bốn quốc
gia chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo. Cả bốn quốc
gia này đều trải qua một khoảng thời gian rất dài xây dựng
xã hội, điều hành và xử lý các vấn đề khác nhau, lãnh
đạo từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở dựa
trên các nguyên tắc của Khổng giáo. Tuy nhiên, trong số bốn
quốc gia này, Việt Nam là nước khó khăn nhất trong việc thoát
ra khỏi những ảnh hưởng của Khổng giáo. Điều này thể
hiện rất rõ ở tình trạng lạc hậu về tư tưởng và lạc
hậu về chính trị ở Việt Nam. Nhiều học giả cố gắng
giải thích những thất bại của Việt Nam trong việc xử lý
vấn đề Trung Quốc theo những cách khác nhau, cố tình không
thừa nhận sự thật là <em>Việt Nam rất lúng túng khi xử lý
các vấn đề với Trung Quốc </em>trong khi sự hào hùng là một
trong những yếu tố thẩm mỹ rất quan trọng có tác dụng kích
thích cảm hứng phát triển. Tại sao lại như vậy? Phải chăng
là bởi một ngàn năm Bắc thuộc? Phải chăng, ngay cả sau khi
có các triều đại phong kiến độc lập, cha ông ta vẫn phải
sang tận Trung Quốc để xin được công nhận là An Nam Quốc
vương, là một phiên thần của Trung Quốc? Trong quan điểm của
chúng tôi, lý do quan trọng nhất là bởi Việt Nam không có một
tầng lớp thượng lưu và đội ngũ trí thức thực thụ -
những người đủ năng lực để đối thoại chính trị một
cách bình đẳng và đủ khí phách để xử lý các vấn đề
Trung Quốc.

Chúng tôi cho rằng, <em>chiến lược tồn tại và phát triển
bên cạnh Trung Quốc của Việt Nam cần phải được xây dựng
trên tinh thần làm cho Việt Nam khác với Trung Quốc</em> chứ
không phải làm thế nào để Việt Nam có thể cạnh tranh với
Trung Quốc. Một trong những lý do khiến chúng ta không thành
công khi xử lý các vấn đề liên quan đến Trung Quốc, là
chúng ta đã không nhận ra và khai thác những ưu thế của Việt
Nam - trên tư cách một nước nhỏ và linh hoạt - so với Trung
Quốc - một đất nước cồng kềnh, phức tạp và rất khó thay
đổi. Chúng ta từng cố gắng học Trung Quốc về mặt chính
trị và đó cũng chính là sai lầm của Việt Nam khi xử lý các
vấn đề Trung Quốc. Trong khi đó, Nhật Bản và Hàn Quốc đã
chủ động trong việc thay đổi các tiêu chí chính trị nhằm
phát huy tối đa sức mạnh của dân tộc bé hơn để trở nên
cơ động hơn, sắc sảo hơn, linh hoạt hơn và rõ ràng, họ đã
thành công. Vậy thì làm thế nào để Việt Nam khác với Trung
Quốc? Như trong phần trước đã phân tích, một trong những lý
do khiến Việt Nam không thể thoát ra khỏi cái bóng của Trung
Quốc là sự xâm nhập và bành trướng về mặt tư tưởng, cụ
thể là ảnh hưởng của Khổng giáo. Do vậy, để đem lại cho
hệ tư tưởng Việt Nam một bản sắc mới, chúng ta buộc phải
thừa nhận các tinh hoa giá trị phương Tây với linh hồn là
tự do, dân chủ. Hệ giá trị phương Tây sẽ trở thành đối
trọng của hệ tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam sẽ tự tìm ra
mình, tự xác lập hình ảnh của mình giữa hai hệ giá trị
đó. Điều này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần cuối
của bài viết.

Như vậy, để có thể xử lý tốt các vấn đề liên quan đến
Trung Quốc, cần phải nghiên cứu và tập hợp những lý luận
và kinh nghiệm sống bên cạnh Trung Quốc trong mối tương quan
với các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể của
Trung Quốc. Dựa trên cơ sở đó, chúng ta sẽ xây dựng các bài
toán mẫu với những lời giải mẫu cho một số tình huống.
Quan trọng nhất là luôn phải xem Trung Quốc như một biến số
trong mọi toan tính kinh tế cũng như chính trị và từ đó, có
các đối sách chủ động trong mối quan hệ với Trung Quốc.
Hết thảy những việc này cần phải được tiến hành với
một nhận thức mới - <em>thay vì coi Trung Quốc là một nước
lớn, hãy coi Trung Quốc là một thị trường lớn, chúng ta sẽ
tiếp cận và xâm nhập Trung Quốc như những nhà buôn thực
thụ với một đầu óc kinh doanh tỉnh táo, với những nhận
thức chính trị thực dụng và với những bản sắc văn hóa
khác biệt.</em>

<strong>5. Xây dựng tầng lớp thượng lưu và đội ngũ tri thức
Việt Nam</strong>

Khi lý giải tình trạng lạc hậu trên nhiều phương diện của
Việt Nam, các học giả mới chỉ tập trung vào những lý do kinh
tế hay lý do chính trị. Chúng tôi cho rằng, <em>sự thiếu vắng
một tầng lớp thượng lưu</em> chính là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến việc chúng ta chậm phát triển. Sự thiếu
vắng này, dường như, bắt nguồn từ cấu trúc quyền lực
trong xã hội Việt Nam. Chúng ta không có niềm tự hào của
tầng lớp thượng lưu hay nói cách khác, xã hội Việt Nam, dân
tộc Việt Nam không có tầng lớp thượng lưu nên không có các
cá nhân đối thoại bình đẳng, và do đó, không có sự đối
thoại chính trị bình đẳng.

Nhằm chứng minh luận điểm này, chúng tôi cho rằng cần phải
làm rõ hơn khái niệm tầng lớp thượng lưu. Tầng lớp
thượng lưu, trước hết, khác với tầng lớp quan lại. Quan
lại, hay nói cách khác, chức tước là do được phong còn
thượng lưu phải là người có những tố chất cao quý thiên
bẩm kết hợp với những tố chất hình thành trong quá trình
tương tác với xã hội. Do đó, nếu tầng lớp thượng lưu
thực sự tồn tại thì nó sẽ tồn tại với mọi thời đại
và không phải lúc nào cũng đồng nhất với tầng lớp cầm
quyền. Tìm hiểu lịch sử những dân tộc khác, chúng ta sẽ
thấy nước Pháp mặc dù trải qua cuộc cách mạng hơn 200 năm
nhưng tầng lớp thượng lưu Pháp theo đúng nghĩa cổ xưa vẫn
tồn tại. Hiện nay, những người cộng sản Trung Quốc cũng
đã bắt đầu xây dựng tầng lớp thượng lưu của mình. Trong
khi đó, xã hội Việt Nam chưa bao giờ có tầng lớp thượng
lưu bởi chúng ta không có cả cơ sở vật chất lẫn cơ sở
sinh hoạt tinh thần cho tầng lớp thượng lưu.

Bàn về Trung Quốc, không phải vô cớ mà Giang Trạch Dân đưa
ra lý thuyết Ba đại diện. Về bản chất, lý thuyết Ba đại
diện chính là công cụ để giải quyết bài toán chính trị
của Trung Quốc. Nó nhằm trả lời câu hỏi ai là người có
đầy đủ những phẩm chất cần thiết để đại diện cho dân
tộc Trung Quốc trong các đối thoại chính trị. Tuy nhiên, lý
thuyết Ba đại diện cũng chỉ là một công cụ lý thuyết, nó
không đủ và không thể thay thế việc xây dựng tầng lớp
thượng lưu. Tầng lớp thượng lưu, theo đúng nghĩa, phải là
những người có khả năng đồng nhất địa vị thượng lưu
của mình với địa vị đại diện quyền lực của mình. Nói
cách khác,<em> tầng lớp thượng lưu chính là sự thống nhất
giữa những giá trị cao quý mà nhân dân linh cảm thấy với
quyền lực mà nhân dân tìm thấy</em>. Đó cũng chính là chất
lượng đại diện của tầng lớp thượng lưu. Linh cảm dẫn
đến chất lượng đại diện chỉ có thể tồn tại dựa trên
nền tảng của chế độ dân chủ phát triển - tại đó sứ
mệnh chính trị được trao vào tay ai hoàn toàn dựa trên cơ
sở sự linh cảm của nhân dân về chất lượng đại diện
của một số tầng lớp nhất định.

Từ các phân tích trên có thể rút ra kết luận, nhiệm vụ
của cải cách văn hóa Việt Nam là chỉ ra cho mọi người thấy
các giá trị cơ bản tạo ra các tiêu chuẩn của tầng lớp
thượng lưu trong xã hội Việt Nam. Nhiệm vụ của giới học
giả nước nhà là chứng minh các giá trị có thể làm nền
tảng để xây dựng tầng lớp thượng lưu Việt Nam. Song song
với việc xây dựng tầng lớp thượng lưu, cần phải xây
dựng đội ngũ trí thức. (Trong trường hợp tầng lớp thượng
lưu đồng nhất với đội ngũ trí thức thì có thể nói xã
hội đã đạt đến trạng thái phát triển lý tưởng). Cần
nhấn mạnh rằng, tầng lớp trí thức phải được xây dựng
dựa trên những dự báo chính xác về loại lao động đáp ứng
tốt nhất các đòi hỏi phát triển của một dân tộc. Nếu
không căn cứ vào những dự báo như vậy, chúng ta sẽ lại có
một tầng lớp trí thức đóng vai trò mờ nhạt, thụ động
trong mọi vấn đề. Xây dựng tầng lớp thượng lưu và đội
ngũ trí thức của Việt Nam, do đó, trở thành một trong những
nhiệm vụ quan trọng của các nhà chính trị Việt Nam, <em>bởi
đội ngũ trí thức chính là những người đại diện cho trí
tuệ của cả dân tộc còn tầng lớp thượng lưu vừa phản
ánh chất lượng của những dự báo chính trị, vừa truyền
tải những thông điệp chính trị quan trọng nhất. </em>Tuy
nhiên, làm thế nào để những thông điệp này trở thành
những "dòng chủ lưu" trong xã hội? Rõ ràng, nhiệm vụ đó
thuộc về tầng lớp trung lưu - những người đóng vai trò
khuếch đại các thông điệp chính trị quan trọng và lành
mạnh. Xác lập cơ cấu xã hội hợp lý đảm bảo cho sự hình
thành và phát triển của tầng lớp thượng lưu và đội ngũ
trí thức Việt Nam, đó cũng chính là nhiệm vụ của nhân tài
chính trị.

<strong>6. Thừa nhận các giá trị phương Tây với đặc trưng
là tự do, dân chủ</strong>

Lịch sử phát triển của nhiều quốc gia châu Á, chẳng hạn
Nhật Bản hay Hàn Quốc, chỉ ra rằng, sự xâm nhập của các
giá trị phương Tây chính là một trong những chất xúc tác
đối với tiến trình phát triển của những quốc gia này. Khi
bàn về vấn đề hệ tư tưởng, nhiều học giả có khuynh
hướng phân biệt hệ tư tưởng phương Đông, hệ tư tưởng
phương Tây, thậm chí cố gắng chứng minh hệ tư tưởng
phương Đông như một hình ảnh đối lập của hệ tư tưởng
phương Tây. Thiết nghĩ, trong thời đại toàn cầu hóa, sự
phân biệt thái quá này hoàn toàn không cần thiết nữa, và
nếu chúng ta tiếp tục xử lý các vấn đề chính trị với
cách nghĩ như thế thì phương Đông sẽ không bao giờ phát
triển một cách thực sự và lành mạnh.

<em>Tại sao Việt Nam cần phải thừa nhận các giá trị phương
Tây? </em>Thứ nhất là bởi các giá trị phương Tây, tiêu biểu
là tự do, dân chủ đã được chứng minh là các giá trị tiên
tiến. Chúng ta không nên coi những giá trị này là sản phẩm
của phương Tây mà hãy xem đó như những sáng tạo của loài
người. Phương Tây chỉ là kẻ đi trước, tận hưởng trước
và trả giá trước. Thứ hai là bởi như trong phần trước của
bài viết đã phân tích, chúng ta cần phải làm cho mình khác
với Trung Quốc. <strong>Nếu "đóng cửa" </strong>về mặt tư
tưởng và cố tình không thừa nhận tính tiên tiến của các
giá trị phương Tây thì Việt Nam sẽ không bao giờ thoát ra
khỏi ảnh hưởng của hệ tư tưởng Trung Quốc, cụ thể là
Khổng giáo. Do đó, Việt Nam cần phải thừa nhận các giá trị
phương Tây để chấm dứt tình trạng <strong>bị "Trung Quốc
hóa" ít nhất về mặt tư tưởng</strong>. Sẽ là rất thiển
cận nếu ai đó cho rằng việc thừa nhận các giá trị phương
Tây sẽ khiến Việt Nam biến thành phương Tây bởi rõ ràng
Nhật Bản hay Hàn Quốc đã thừa nhận các giá trị phương Tây
nhưng họ vẫn là chính họ.

Không thể phủ nhận rằng hệ giá trị phương Tây với hạt
nhân là tự do đã gieo trồng những mầm phát triển ở bất
cứ nơi đâu mà nó có mặt. Bởi tự do là cảm hứng phát
triển; tự do luôn dẫn đến sự sáng suốt trên tất cả các
khía cạnh, đặc biệt là nhận thức và khi đã sáng suốt về
mặt nhận thức thì các giải pháp sẽ rất đúng đắn. Một
trong những nguyên nhân khiến mọi thời đại chính trị của
Việt Nam không thành công khi giải quyết vấn đề chính trị
với Trung Quốc là chúng ta không độc lập về mặt nhận
thức. Chúng ta không chấp nhận các giá trị phương Tây và
lấy Trung Quốc làm mẫu nên chúng ta không thể tách khỏi Trung
Quốc. <em>Do đó, thừa nhận các giá trị phương Tây chính là
nâng cao năng lực đề kháng của Việt Nam khi sống bên cạnh
Trung Quốc vĩ đại.</em>

<em>Không ít người đặt câu hỏi tại sao chủ nghĩa Marx lại
có ma lực đối với những nước cộng sản.</em> Trong tác
phẩm Grand Failure, Brezensky đã cho rằng sở dĩ chủ nghĩa Marx
hấp dẫn đối với các nước cộng sản là bởi nó hứa hẹn
một tương lai không có bóc lột và điều này thỏa mãn khát
vọng của tầng lớp lao động. Tuy nhiên, hơn cả thế, chủ
nghĩa Marx còn thỏa mãn tuyệt đối sự kiêu ngạo của tầng
lớp trí thức - những kẻ luôn khao khát cải tạo thế giới.
Trung Quốc là một trong số rất ít những nước cộng sản còn
lại nhận ra tính không thực dụng của chủ nghĩa Marx và vì
lý do đó, họ đã sắp xếp hệ tư tưởng theo chiều dọc. Từ
Khổng giáo đến chủ nghĩa Marx, đến tư tưởng Mao Trạch
Đông, học thuyết của Đặng Tiểu Bình và lý thuyết Ba đại
diện của Giang Trạch Dân. Đối với Khổng giáo hay chủ nghĩa
Marx, Trung Quốc ứng xử theo lối kính nhi viễn chi. Họ có
những người thực dụng như Mao Trạch Đông hay Đặng Tiểu
Bình để đưa Trung Quốc ra khỏi quá khứ. Nhận ra sự tới
hạn trong học thuyết của Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân
đã sáng tạo ra lý thuyết Ba đại diện nhằm thay đổi chất
lượng đại diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc - tức thay
vì đại diện cho những lực lượng cụ thể, Đảng Cộng sản
Trung Quốc đại diện cho những giá trị tiên tiến cụ thể.
Nhưng rõ ràng, sự phát triển tốt của một Đảng chính trị
không thể thay thế sự phát triển tốt về mặt chính trị
của cả một dân tộc; nói cách khác, một dân tộc chỉ có
thể phát triển tốt về mặt chính trị khi thừa nhận sự đa
dạng tinh thần như là tiền đề của nền dân chủ. Vì những
lý do đó, Trung Quốc không thể nào trì hoãn quá trình tiệm
cận nền dân chủ, và cần phải cảnh báo rằng khi nào Trung
Quốc đạt tới trạng thái dân chủ về mặt chính trị, mọi
sức mạnh trong cơ thể người khổng lồ ấy sẽ được giải
phóng và liệu còn chăng cái gọi là cơ hội cải cách hay cơ
hội phát triển cho Việt Nam? Một thiên tài chính trị cần
phải dũng cảm đối mặt với câu hỏi đó.

<strong>KẾT LUẬN</strong>

Lịch sử Việt Nam thế kỷ trước được ghi dấu bởi Hồ Chí
Minh - người đã giải quyết thành công vấn đề chính trị
căn bản nhất - đó là độc lập dân tộc. Hy vọng rằng, trong
thế kỷ XXI, chúng ta sẽ tìm thấy những tố chất Hồ Chí Minh
trong các nhà chính trị Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, trước
khi đi tìm những tố chất đó,<strong> chúng ta phải tự do và
quan trọng nhất là phải tự do với chính mình và với lịch
sử của mình.</strong>

<strong>Nguồn: </strong>Trích bài "Nhân tài và và sử dụng nhân
tài" – sách Suy tưởng, NXB Hội nhà văn, 2005

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140710/nguyen-tran-bat-nhan-tai-chinh-tri-loi-giai-cho-bai-toan-phat-trien),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét