Ngô Vương Anh - Hiệp định Geneva: Những gì để lại cho hôm nay?

Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định
Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự
chủ. Ngoài ra, phải hiểu cả những toan tính của "đồng
chí", "đồng minh", không mơ hồ và ảo tưởng.
</strong>Sau hơn hai tháng đàm phán, từ ngày 8/5/1954, Hiệp
định Geneva 1954 về Đông Dương được ký ngày 20/7/1954. Đánh
giá đúng những bài học, kinh nghiệm từ Hội nghị Geneva
và bản Hiệp định này trong bối cảnh hôm nay vẫn có ý
nghĩa sâu sắc.

<strong>Thắng lợi chưa trọn vẹn</strong>

Hiệp định Geneva là văn bản pháp lý quốc tế thứ ba
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai văn bản
trước là Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước
14/9/1946 được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ
Pháp. Nước Pháp từ vị thế kẻ cai trị thực dân đã
phải công nhận và tôn trọng quyền cao nhất của dân tộc
Việt Nam là độc lập, quyền cao nhất của nhân dân
Việt Nam là tự do. Nước Việt Nam từ chỗ chưa có tên
trên bản đồ thế giới đã trở thành một biểu
tượng sáng ngời của ý chí đấu tranh giành độc lập
dân tộc, là tấm gương cổ vũ các dân tộc bị áp bức
vùng lên làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa thực dân kiểu cũ.
<center>
<img
src="http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2014/07/19/23/20140719232943-tuan-vn-mot.jpg"></center>
<center><em>Vĩ tuyến 17 (Quảng Trị) trở thành giới tuyến tạm
thời chia cắt hai miền Bắc - Nam.</em></center>
Với Hiệp định Geneva, chúng ta đã kết thúc được
chiến tranh, buộc Pháp phải rút hết quân và công nhận
quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; giải phóng
hoàn toàn miền Bắc để có điều kiện xây dựng
những cơ sở vật chất đầu tiên cho xã hội Xã hội
Chủ nghĩa trong điều kiện hòa bình; tạo cơ sở pháp
lý để đấu tranh thống nhất đất nước sau đó.

Bối cảnh khi đó, trên bàn đàm phán Geneva, Pháp đã thất
bại trong trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên
Phủ, muốn rút khỏi "bãi lầy chiến tranh" Đông Dương
trong danh dự, Việt Nam đến Geneva với tư thế của
người chiến thắng trên chiến trường. Việc bàn giải
pháp cho cuộc chiến Đông Dương không do hai bên trực tiếp
tham chiến mà do các "nước lớn" giữ vai trò chính.
Pháp là bên tham chiến trực tiếp nhưng luôn lẩn tránh
đàm phán trực tiếp với phái đoàn Việt Nam mà dùng
vai "nước lớn" để thỏa thuận ngầm với Liên Xô
và đặc biệt là với Trung Quốc. Tại Geneva, Trung Quốc
đã tìm mọi cách dàn xếp các vấn đề tại Hội nghị
theo hướng giành lợi ích quốc gia cho Trung Quốc.

Một khó khăn khác của đoàn Việt Nam là các kênh liên
lạc đều nhờ Trung Quốc với lòng tin vào tình đồng
chí. Đoàn đàm phán Việt Nam gặp nhiều bất lợi, bị
cô lập và không có kinh nghiệm đàm phán nên đã không
thể bảo vệ được những yêu cầu quan trọng của mình.

Hội nghị Geneva đã quyết định những vấn đề có liên quan
đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia mà không
có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước
này. Đại diện cho cả ba Chính phủ kháng chiến ở Đông
Dương chỉ có một đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Việc xác định ranh giới quân sự tạm
thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam
không phải vĩ tuyến 13 hay 16 theo phương án của Việt Nam, mà
là vĩ tuyến 17. Việt Nam mất ba tỉnh khu V và nhiều vùng tự
do phía Nam vĩ tuyến 17.

Ở Lào, lực lượng kháng chiến chỉ được một vùng tập
kết gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxalỳ - nhỏ hơn nhiều so
với vùng giải phóng thực tế. Lực lượng kháng chiến
Campuchia phải phục viên tại chỗ. Thời hạn tổng tuyển cử
để thống nhất Việt Nam không phải là 6 tháng như phương án
của Việt Nam, mà là 2 năm. Dù vậy, việc này đã không thể
thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ.

<center><img
src="http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2014/07/19/23/20140719233047-tuan-vn-hai.jpg"></center>
<em><center>Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đoàn đại
biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sỹ dự hội nghị
Genève về Đông Dương, tháng 5/1954.</center></em>

Những gì Việt Nam đạt được ở Hội nghị Geneva là
kết quả của 9 năm kháng chiến anh dũng, nhiều hy sinh gian
khổ của nhân dân ta, nhưng kết quả đó chưa tương xứng
với thực tế trên chiến trường. Nhân dân cả hai miền
Nam - Bắc Việt Nam còn phải đi tiếp chặng đường dài
21 năm với nhiều sự hy sinh mất mát đau thương hơn để
đạt tới điều lẽ ra đã diễn ra từ tháng 7/1956.

<strong>Bài học về tinh thần độc lập tự chủ </strong>

Bài học lớn nhất, bao quát nhất nhìn từ Hiệp định
Geneva sau 60 năm là bài học về tinh thần độc lập tự
chủ. Bên cạnh đó là bài học về kết hợp nhuần
nhuyễn giữa ngoại giao với quân sự, tạo cục diện vừa
đánh vừa đàm để đối phó với kẻ địch mạnh hơn;
kiềm chế kẻ thù, tạo dư luận quốc tế, gây áp lực
buộc đối phương xuống thang cả trên chiến trường và
trên bàn đàm phán đã được phát huy trên bàn Hội
nghị Paris và chúng ta đã đạt thắng lợi.

Quá trình đàm phán để đi đến bản Hiệp định Paris
(1/1973) sau này đã nói lên điều đó. Trong những ngày
đàm phán ở Paris, Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ
đã nói với ông H. Kissinger (được tác giả Larry Berman trích
dẫn): "Trong cuộc đấu cờ, người thắng và kẻ thua phải
chính là những người chơi cờ, không còn cách nào khác. Chúng
tôi độc lập trong việc giải quyết vấn đề của chúng
tôi" (1).

Kinh nghiệm lịch sử cho thấy những "nước lớn" luôn có
những toan tính chiến lược riêng. Trong đấu tranh ngoại giao,
điều cốt yếu là phải phân tích và nhận rõ chiến
lược và những mục tiêu của các nước "lớn" để
có chiến lược và sách lược đối phó hiệu quả. Sự
dàn xếp, thoả hiệp giữa các nước "lớn" tại Hội nghị
Geneva làm hại đến lợi ích của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Đây cũng là điều khó tránh ở một hội nghị quốc tế, khi
"luật chơi" và cả diễn biến "cuộc chơi" đều do
các nước "lớn" quyết định. Ở Hội nghị Geneva,
Việt Nam đã phải thuận theo nhiều lời "chỉ dẫn"
bất lợi từ các "đồng chí", "đồng minh" của
mình. Bài học sâu sắc qua Hội nghị Geneva là phải hiểu
cả những toan tính của "đồng chí", "đồng minh",
không mơ hồ và ảo tưởng.
<center>
<img
src="http://imgs.vietnamnet.vn/Images/vnn/2014/07/19/23/20140719232813-tuan-vn-ba.jpg"></center>
<center><em>Hội nghị Genève khai mạc ngày 26/4/1954. Mục đích ban
đầu của hội nghị là bàn về khôi phục hòa bình tại Triều
Tiên và Đông Dương.</em></center>

Điều bộc lộ rõ trong quan hệ quốc tế hiện nay là trong
nhiều trường hợp các nước "lớn" áp đặt những
"luật chơi" không phù hợp, làm tổn hại đến lợi ích
của nước khác. Nhưng kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ ra rằng,
tiếng nói của khu vực và các nước vừa và nhỏ có "sức
nặng" đến mức nào phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó
một phần lớn phụ thuộc vào sự chủ động, sự nhạy bén,
khôn khéo của những nước này với các "nước lớn" và
cả giữa các nước "vừa" và "nhỏ" với nhau.

Điều các nước "nhỏ" luôn cần (phải) làm là tăng
cường thực lực của đất nước, tạo cơ sở vững chắc cho
hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền dân tộc, bảo
vệ hoà bình và an ninh quốc tế. Trong hoạt động đối ngoại
phải đánh giá chính xác tình hình thế giới, nhất là chiến
lược của các nước "lớn", tìm ra đối sách phù hợp trong
từng thời gian, cho từng vấn đề, đảm bảo lợi ích quốc
gia dân tộc. Am hiểu đối tác - đồng thời cũng là đối
tượng - là yêu cầu quan trọng trong quá trình hội nhập.

<ul><li><strong>Ngô Vương Anh</strong></li></ul>(1): <em>Larry Berman
(2003) - Không hoà bình, chẳng danh dự Nixon, Kissinger, và sự
phản bội ở Việt Nam, (Nguyễn Mạnh Hùng dịch), Việt Tide
xuất bản, tr 145</em>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140720/ngo-vuong-anh-hiep-dinh-geneva-nhung-gi-de-lai-cho-hom-nay),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét