Giáo sư Trần Quốc Vượng - Mấy vấn đề về vua Gia Long (2)

<strong>* PHẦN HAI </strong>

01. Luôn "trung thành" với tư duy tự ý thức rằng "Tôi
không phải là một nhà sử học chính tông", sau đây tôi chỉ
nói – và viết – đôi điều "lặt vặt" tôi nhớ lại và
cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.

01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải
đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…

Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người "bôn
ba", "từng trải"… dù với ý định chủ quan gì hay là do
sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị
Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu
thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:

<em>Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,</em>

<em>Nhân bất phong sương vị lão tài! </em>

Nghĩa là:

<em>Văn không sông núi, không cao diệu,</em>

<em>Người chẳng phong sương, khó rạng tài! </em>

01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của
một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:

Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc)
là một người <em>phiêu lãng</em> (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ
"lãng du" ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến
xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé,
Long An, Sa Đéc…

Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được "di
truyền" bởi cái "gen" văn hóa phiêu lãng (wandering) đó,
nhưng "CON hơn cha là nhà có PHÚC", Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu
đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp "sống nghiệm" với
<em>nhiều nền văn hóa khác nhau</em>; do đó ông đã trải
nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI
SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản
phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông
trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ
(Generous), rất Việt Nam và cũng rất "Thể tất", rất
"Cận NHÂN TÌNH" (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở
ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.

Thế mà đã có kẻ dám dịch "wandering" là "lang bang, lang
thang" và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ
Hồ! Đáng xấu hổ thay người "DỐT HAY NÓI CHỮ" hay là
"HAY CHỮ LỎNG"!

01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền
đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi
thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu
– có lúc là "quái ác" – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh
bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba "thắng
không kiêu, bại không nản". Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả
Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây "áp lực" song Nguyễn Ánh
vẫn tìm mọi cách để "thoát ra" được sự khống chế đó
và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là
NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP
VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có
lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài.
Ông <em>nghe</em> nhiều nhưng ông <em>nghĩ</em> và <em>làm</em>
phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể
trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng
tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích
tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh
Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý
hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách
cứ ông thì cũng dễ thôi.

01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc
và tỏ ra "khoan hòa" với Thiên chúa giáo của phương Tây,
cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành
giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi
trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng
dụng "Gia Định tam gia" người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài
Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và
tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là
Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu
là người "Thượng" (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi
điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc "thiểu số"
vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ
cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên "Hoàng oanh quất"
(quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng
đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn
Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi
chưa kể "Quế Trà My"…

01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá
đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm
mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo
kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of
thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng
được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam.
Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác,
ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.

02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là
"TRẬN GIẶC MÙA" (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh
mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn –
cuối cùng ông đã thắng.

02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu <em>"Bất
tương thành bại luận anh hùng"</em>, nghĩa là "luận anh
hùng, chớ kể hơn thua! ".

Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê,
Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách "giải
thích" lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn
chứ nhỉ?

Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ "chủ nghĩa Mác thô sơ"
là <em>cuối cùng</em> NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của
giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ
cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến, mà dù có thắng –
như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị
ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi!

02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và
chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả
Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa)
đã <em>thất nhân tâm</em> khi các ông – như học giả Tạ Chí
Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem <em>Nội chiến
ở Việt Nam 1771-1801…</em>) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa
ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng.
"ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT" – sáng – chiều
nghe tiếng chuông chùa "chiêu mộ" để tấm lòng thư giãn,
để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn
vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông
(làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam.
Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê)
nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang
Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh,
thế mà bên câu ca dao "cổ" (XV):

<em>Lạy trời cho cả gió lên,</em>

<em>Cho cờ vua Bình Định<sup>(2)</sup> phất (phới) trên kinh
thành<sup>(3)</sup>.</em>

Lại có câu ca dao "cận đại":

<em>Lạy trời cho cả gió Nồm,</em>

<em>Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra! </em>

Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu
ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng
nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan "bác học"
(XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore
cổ – cận – dân gian.

02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố
(Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá
hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy;
ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục
hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có
đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời
nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn
về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:

<em>Thôi! Thôi! Thôi! Việc đã rồi! </em>

<em>Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta! </em>

<em>Nay mai dựng lại nước nhà, </em>

<em>Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.</em>

<em>Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786)!
</em>

02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố
Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm
thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả
Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng
Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa <em>Khuê Văn Các</em>, nhỏ
thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan, ông cũng cho xây một tòa <em>Cột Cờ</em> cao đẹp nhất
kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại!

Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến
trúc Nguyễn! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian
– đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc –
Dân gian.

Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết
định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến
thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không
phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng –
Tự Đức và Nguyễn nói chung?

Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là "đồng
nghiệp" của tôi bơn bớt việc "chửi bới" nhà Nguyễn –
đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân
chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và
Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không
gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM!

03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn
được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia
Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều
đại Tây Sơn, đã "cướp" công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc
cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã
được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực
lịch sử là thế này:

03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung
điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách <em>"Đi
tìm lăng mộ Quang Trung"</em> của Nguyễn Đắc Xuân và nhất
là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế
nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của
Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh)
rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà
đã có ứng xử "chẳng tu thì cũng như tu mới là"; cũng có
thể là bà "nặng tình nặng nghĩa" với Quang Trung. Bà có
với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai
con bà cũng vậy (1801).

03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà
và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã
môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ
của Cảnh Thịnh.

Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc
Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được
Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám
triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: <em>- Bệ
hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên,
việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình! </em>Vua Gia Long
cười ha hả mà nói: <em>- Đến đất nước của giặc "tau"
còn lấy, huống chi là vợ giặc,"tau" lấy vợ giặc làm vợ
"tau" thì có chi mô! </em>

Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn
hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.

Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố
"người xứ Huế" (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS
Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng:
<em>- Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy
khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết.
Thật là tuyệt! Đây là một "ca" (cas = trường hợp) mà
nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý
thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại
thần là rất "cynique" </em>(tôi chưa biết dịch là gì cho
đúng, đại khái là rất "tởm", "lỗ mãng", "bất cần
sĩ diện", "trắng trợn"… nhưng mà rất THỰC) <em>đấy
chứ, phải không anh? </em>

Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.

03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay
thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị
Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả
có đoạn chép:

Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình –
có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về
Bắc, về quê bà. <em>Vua Gia Long đồng ý</em>. Tiểu sành đựng
xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành
và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị
(1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự
chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn
vu cáo họ Nguyễn đã "lợi dụng" gì đó về ngôi "mả
ngụy" Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó
– không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân
quẳng xuống sông Nhị Hồng…

Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là "rất
thiêng", đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào,
được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà "Hà Nội học"
– không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và
viết rất "lu bu" về chuyện này và "đổ vạ" cho Gia Long
và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù! "Trả
thù", vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc
Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm –
tội lỗi của Gia Long.

03.4. Gia Long "tội vạ" gì mà gây thù chuốc oán thêm với
sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là "bạc" – theo
thành ngữ dân gian – hay được / bị "dân gian hóa" thành
câu: <em>"Bạc như dân, bất nhân như lính"</em>.

Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi
vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt "dư đảng Tây Sơn" và
cử Nguyễn Văn Thành ("Tiền Quân Thành") làm Bắc thành
trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau
đây:

03.5. Tổ chức một lễ tế <em>"Trận vong tướng sĩ"</em>
ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế
này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được
học ở sách <em>Việt Nam văn học sử yếu</em> của cố GS
Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là
"Vô danh", sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra
tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người
đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và
viết bài Phú nôm nổi tiếng <em>"Tụng Tây hồ phú"</em> (và
do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài
phản bác cũng khá hay với nhan đề <em>"Chiến tụng Tây hồ
phú"</em>). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ
tử binh không phân biệt ai là "chân" ai là "ngụy". Tế
xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc
cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long "bổ" cho ông
cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng
(Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí
chép – giặc cướp giết.

03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi "tòng vong" với Lê
Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối
cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem
về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành
– <em>đã đồng ý</em>. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt
chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử
chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện
này từ thời trung học Pháp thuộc).

Vua Gia Long đã sai lập "đền Cố Lê" ở Hà Nội (mạn phố
Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở
Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ.
"Đền vua Lê" (còn gọi là "Thái miếu") hiện vẫn còn
và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam
xếp hạng ("Di tích Văn hóa được xếp hạng").

03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung –
Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong,
Nguyễn Hoàng đã trở thành "ông Hai" (ông cả Nguyễn Uông
đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp
chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông
bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã
bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình
thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ
Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành "Thánh Mẫu" theo thần
tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã
được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi "Quan Lớn
Triệu Tường". Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.

Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia
Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang
đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại
thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị "bỏ
quên" (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được
trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở
Đảng ủy và UBND xã.

Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và "thăm hỏi"
vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng
tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không!, tôi được
chiêu đãi một bữa bia <em>"đã đời"</em>, vì đã được
cán bộ xã đứng tựa cột đình "nghe lỏm" – tôi đang
giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình
làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên! Nghe các
nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã,
tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương
nhà Nguyễn đã tỏ ra có "tư duy đổi mới" khi nhận nhìn
vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ
"thể tất nhân tình", rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua
Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai
sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua
này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương!

03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà
Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa
tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có
một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.

Thật là lạ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê
hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài
(nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là "Trương Tử
Phòng" (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh
Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng
Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ
"TRUNG HƯNG CÔNG THẦN", miễn sưu dịch cho con cháu Trạng
Bùng, lại cho 2 "đinh phụ" được coi sóc nhà thờ và mồ
mả của ông Trạng đã hết lòng "phù Lê phù Trịnh" này.

03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ
cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản
<em>Trịnh gia thế phả</em> do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai
báo lại năm 1802.

Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua
Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh
– Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng:
<em>- Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ
ngươi đã giết tổ họ ta! </em>

Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long
"làm cỏ sạch gốc rễ" để trả thù. Nhưng mà không!, vua
Gia Long nói tiếp: <em>- Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng
là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi
với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết
rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác
họ Trịnh trình cho ta biết! </em>

Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực
viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà
Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và
hành xử "xấu xa" của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết
trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia
Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên
<em>Trịnh điện</em> làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng
Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1
mẫu Trung bộ = 5000m<sup>2</sup>).

<strong>* LỜI TẠM ĐÓNG</strong>

Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông
Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng
"cơ chế thị trường" và đã biến Sài Gòn miền Nam thành
nơi <em>sản xuất </em>và<em> xuất khẩu</em> lúa gạo ra toàn
Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương
Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ
khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình
luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho
đến nay vẫn quen với "cơ chế thị trường" hơn miền
Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò
của NGUYỄN ÁNH?

Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu
bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn
này, không phải là một nhà Sử học chính tông.

Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một
lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình "nói chõ" vào
thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không
đến nỗi lớn lắm.

Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là "lợi
dụng" mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có
nhiều phần "dở hơi" này.

<em> Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)</em>
<em> Mùa thu tháng Tám, 1996</em>

Kính nộp,

GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)


(1) Có nhà Việt Nam học ở Liên Xô (cũ) còn xem vai trò Gia Long
như vai trò của Pi-e đại đế nước Nga xưa nữa kia. Thật là
"quá đáng", nhưng theo tôi, Quang Trung cũng không hề là nhà
cải cách vĩ đại của Việt Nam.

(2) Bình Định Vương Lê Lợi.

(3) Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140712/giao-su-tran-quoc-vuong-may-van-de-ve-vua-gia-long-2),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét