Alexander L. Vuving - Yếu tố lớn nhất thay đổi cục diện an ninh Châu Á – Thái Bình Dương: Trung Quốc xoay trục ra biển

<center><img
src="http://nghiencuuquocte.net/wp-content/uploads/2014/07/image.jpg"
width="600"></ceênter>

Yếu tố then chốt đang thay đổi cục diện trò chơi của các
quốc gia khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là gì? Dựa theo
những quan điểm có ảnh hưởng nhất trên các phương tiện
truyền thông thì câu trả lời có vẻ là sự trỗi dậy của
Trung Quốc. Tuy bề ngoài hiển nhiên là vậy, song đây lại là
câu trả lời sai. Dù sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây ra
những thay đổi lớn nhất về lượng trong cục diện an ninh
Châu Á – Thái Bình Dương, <strong>việc Trung Quốc chuyển
hướng ra biển mới là bước phát triển có tầm quan trọng
nhất về chất</strong>.

Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu châu Á nhiều lần trong
quá khứ, nhưng việc nước này chuyển hướng chiến lược sang
phía biển trong thời gian gần đây thì chưa từng có tiền lệ.
Nếu quả thực tương lai là do quá khứ định đoạt, thì sự
trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không thực sự ảnh hưởng đến
ưu thế tuyệt đối về hải quân của Mỹ ở khu vực Tây Thái
Bình Dương, và sự tranh giành bá quyền giữa Mỹ và Trung Quốc
có thể sẽ không xảy ra. Quan điểm này chính là cốt lõi của
chiến lược<em> "cân bằng ngoài khơi"</em> (<em>offshore
balancing</em> – đứng từ xa giữ cân bằng quyền lực trong
một khu vực mà không can thiệp trực tiếp vào khu vực đó)
đang thịnh hành tại nước Mỹ ngày nay và được nhiều
người cho là chiến lược lớn mà Tổng thống Barack Obama đang
theo đuổi.

Cứ theo như quan điểm này thì vì Trung Quốc là cường quốc
lục địa nên sự trỗi dậy của nước này sẽ khiến nó trở
thành một con voi khổng lồ. Trong khi đó, nước Mỹ, với tư
cách một cường quốc biển, lại giống như một con cá voi
lớn. Dù cả hai đều rất mạnh, nhưng mỗi bên chỉ mạnh trong
lãnh địa riêng của mình, và không bên nào có đủ khả năng
vật chất hay ý chí chính trị để định đoạt tình hình trong
lãnh địa của bên kia. Từ đây suy ra, nếu Washington chấp
nhận ưu thế của Bắc Kinh trên lục địa châu Á, thì Mỹ có
thể tránh được một cuộc xung đột không cần thiết với
Trung Quốc trong khi vẫn duy trì vai trò chi phối của mình ở khu
vực hải dương của châu Á.

Một người ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này là cựu Cố vấn
An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski. Brzezinski cũng là
người cổ võ cho khái niệm về một nhóm G-2 gồm Mỹ và Trung
Quốc. Có tin cho rằng ông đã mang ý tưởng này sang đề xuất
với Trung Quốc trong tư cách phái viên không chính thức của
Obama chỉ vài ngày trước khi Obama nhậm chức tổng thống. Trong
cuốn sách <em>Tầm nhìn Chiến lược: Nước Mỹ và Cuộc Khủng
hoảng Quyền lực Toàn cầu</em> (<em>Strategic Vision: America and the
Crisis of Global Power</em>), Brzezinski cho rằng cuộc tranh giành
quyền lực tối cao ở châu Á sẽ không diễn ra giữa con cá voi
Mỹ và con voi Trung Quốc, mà giữa hai con voi châu Á với nhau là
Trung Quốc và Ấn Độ. Do cường quốc biển có những hạn
chế cố hữu trong một cuộc tranh đua trên đất liền như
vậy, ông ta khuyên nước Mỹ nên đứng bên ngoài và không liên
kết chiến lược với Ấn Độ để tránh bị lôi kéo vào một
cam kết quan trọng trên đất liền. Cách tiếp cận giữ khoảng
cách như vậy sẽ khiến Mỹ trở thành tác nhân cân bằng ngoài
khơi theo đúng nghĩa, có thể tuỳ cơ mà ủng hộ nước này
chống lại nước kia, hoặc "toạ sơn quan hổ đấu" từ xa
đứng nhìn Trung Quốc và Ấn Độ đấu nhau đến mệt nhừ
trong khi Washington đứng ngoài và tiết kiệm sức mạnh của
mình.

Chiến lược khôn khéo như vậy quả là hấp dẫn trong thời
đại mà sự kiệm sức được ưu tiên, và nếu để trực giác
quyết định thì đây sẽ là lựa chọn số một của một
nước Mỹ đã mệt mỏi với những cuộc can thiệp ở hải
ngoại. Thế nhưng, ý tưởng cốt lõi của chiến lược này
lại dựa trên một cách hiểu sai lầm về các xu hướng địa
chính trị trong thế kỷ vừa qua. Quá trình công nghiệp hóa và
toàn cầu hóa đã chuyển "trái tim" kinh tế châu Á từ đất
liền sang vùng biển. Cùng với xu hướng này, Trung Quốc không
còn là một đế chế tự cung tự cấp của ngày trước nữa;
nền kinh tế của Trung Quốc ngày nay đang lệ thuộc vào các
tuyến đường buôn bán trên các biển Đông Á. Không có gì
đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc ngày càng tin tưởng rằng để
đoạt ngôi vị bá chủ châu Á thì trước hết phải làm chủ
được vùng biển của khu vực này. Hiểu được điều này, ta
sẽ lý giải được vì sao Trung Quốc gần đây đã có những
động thái như tăng cường tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư với Nhật Bản và thiết lập vùng nhận diện phòng không
(ADIZ) trên biển Hoa Đông, cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough từ
Philippines, đơn phương hạ đặt một giàn khoan dầu trị giá 1
tỷ USD tại vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, xây dựng những căn cứ quân sự lớn trên những nơi
vốn là đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa và thường
xuyên quấy nhiễu các tàu hải quân Mỹ hoạt động trên biển
Đông.

Truyền thống chiến lược lớn của Trung Quốc là hướng vào
lục địa. Ngoại trừ một vài lần dưới thời nhà Nguyên và
nhà Minh, nói chung đế chế Trung Hoa vẫn chấp nhận để các
thế lực khác chiếm ưu thế trên những vùng biển ngoài khơi
Trung Quốc. Sự cùng tồn tại của bá quyền Trung Quốc trên
đất liền và vai trò thống trị của ngoại bang trên biển là
kết quả của 3 điều kiện chủ yếu, và cả ba đều không
còn tồn tại trong thời đại ngày nay.

Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc dễ bị tấn công
nhất ở phía Bắc và phía Tây, nơi họ phải đối mặt với
những đội quân của người du mục Trung Á là những đội
quân cơ động nhất và giỏi đánh thọc sâu nhất của thời
bấy giờ. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung này có thể
lao tới, xuyên qua và chinh phục toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc.
Những hiểm họa từ những đội quân du mục này lớn hơn hẳn
những nguy hiểm từ dân đi biển ở phía Đông và phía Nam,
những người cùng lắm chỉ có thể cướp phá các thành phố
hay làng mạc dọc theo bờ biển Trung Quốc.

Nhưng kể từ thế kỷ 19, điểm yếu về quân sự của Trung
Quốc đã chuyển sang vùng bờ biển. Những đội quân cưỡi
ngựa, bắn cung của ngày nay là các tàu sân bay, tàu khu trục,
và tàu ngầm được trang bị máy bay siêu âm, máy bay tàng hình,
máy bay không người lái và tên lửa hành trình. Trong mắt các
nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc ngày nay, việc
kiểm soát biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông đã
trở nên tối quan trọng đối với nền quốc phòng và an ninh
của Trung Quốc.

Những vùng biển này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
về kinh tế đối với Trung Quốc. Trước thời kỳ công nghiệp
hóa, Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn toàn tự cung tự cấp
và không phải dựa vào ngoại thương để phát triển. Nhưng
tất cả đã là quá khứ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong
thời gian gần đây chủ yếu là nhờ hội nhập kinh tế với
thế giới bên ngoài. Từ khi phát động "cải cách và mở
cửa" vào năm 1979, tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của
Trung Quốc, tính theo tỉ lệ ngoại thương trong tổng sản phẩm
quốc nội, đã tăng từ 10% lên tới hơn 70%. Bên cạnh sự phụ
thuộc này, kể từ năm 1998, Trung Quốc đã là một nước nhập
siêu về năng lượng. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng năng
lượng nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm tới 11% tổng năng
lượng nước này sử dụng trong năm 2011. Những số liệu
thống kê này cho thấy nền kinh tế Trung Quốc cơ bản sẽ sụp
đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với thế
giới bên ngoài. Điều khiến cho biển còn quan trọng hơn nữa
đối với Trung Quốc là việc phần lớn ngoại thương và năng
lượng nhập khẩu của Trung Quốc đều phải vận chuyển qua
biển Hoa Đông, biển Đông và eo biển Malacca.

Không chỉ có một mình Trung Quốc phải phụ thuộc vào các
tuyến đường giao lưu trên các vùng biển này. Thực ra, các
biển Đông Á này là huyết mạch của cả châu Á. Hơn một
nửa thương mại hàng hóa của khu vực, khoảng một nửa ngoại
thương của Trung Quốc, Ấn Độ và Australia, khoảng 80% lượng
dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, 60% nguồn cung
năng lượng của Nhật Bản, và 2/3 nguồn cung năng lượng của
Hàn Quốc phải đi qua các vùng biển này. Tầmquan trọng về
kinh tế và quân sự của các vùng biển Đông Á đảm bảo
rằng không một quốc gia nào ở châu Á ngày nay có thể đạt
được uy thế tuyệt đối trong khu vực trước khi trở thành
kẻ mạnh nhất về hải quân trên vùng biển Tây Thái Bình
Dương.

Có 3 lý do để Trung Quốc trong quá khứ vẫn để cho các
nước khác thống lĩnh các vùng biển ngoài khơi của họ. Đôi
lúc là do Trung Quốc còn quá yếu không thể thách thức được
các cường quốc biển. Nhưng nói chung, những vùng biển này
không hề có ý nghĩa quan trọng với Trung Quốc cả về quân
sự lẫn kinh tế. Hơn nữa, các thế lực thống trị vùng biển
đều chủ động tạo lập quan hệ chư hầu và triều cống
với Trung Quốc.

Không một điều kiện nào trong số này là hiện thực của
ngày hôm nay và ngày mai. Theo dự đoán, Trung Quốc sẽ vượt
Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối
thập kỷ này. Trong khi đó, ngân sách quân sự của Trung Quốc
còn tăng trưởng nhanh hơn cả nền kinh tế. Các biển bao quanh
Trung Quốc đã trở nên thiết yếu cho sự phát triển và phòng
vệ của nước này. Và Hoa Kỳ, cường quốc thống trị trên
biển châu Á, sẽ không dễ gì chấp nhận đứng dưới trong
một trật tự thế giới do Trung Quốc đứng đầu.

Nhờ có toàn cầu hóa và những công nghệ vũ khí mới, biển
cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến
lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thành
<em>điều kiện tiên quyết</em> của sự thống lĩnh khu vực.
Về phần Trung Quốc, sự gia tăng phát đạt của nước này sẽ
phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận với biển hơn là
việc sở hữu thị trường trên đất liền. Nhận thức rõ
được những điều này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm
cả cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch đương nhiệm
Tập Cận Bình, đã quyết định rằng Trung Quốc cần trở
thành "cường quốc biển ở cấp độ toàn cầu".

600 năm trước, Trung Quốc đã phái một hạm đội khổng lồ
dưới sự chỉ huy của viên thái giám người Hồi là Trịnh
Hòa đi vào biển Đông và Ấn Độ Dương để áp đặtkiểm
soát lên luồng thương mại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương
và mở rộng hệ thống chư hầu cho đế chế. Dù rất thành
công, các cuộc viễn chinh này chỉ diễn ra trong khoảng thời
gian chưa đến 3 thập kỷ và đã được chứng tỏ là không
hề nằm trong quy luật của lịch sử Trung Quốc. Cuối cùng thì
Trung Quốc vẫn là một đế chế nông nghiệp, và nhiệm vụ
chính của các chuyến đi của Trịnh Hòa chỉ là để phô
trương trước những người ngoại bang trong vùng lòng chảo Ấn
Độ Dương – Thái Bình Dương.

Ngày nay, Trung Quốc quay ra hướng biển do sự cần thiết khách
quan hơn là vì ý đồ chủ quan muốn phô trương thế lực. Do
vậy, sự thay đổi này sâu rễ bền gốc hơn rất nhiều so
với các chuyến du hành từ 6 thế kỷ trước. So với những
chuyến đi của Trịnh Hòa, sự chuyển hướng nhìn sang phía
biển của Trung Quốc hiện giờ sẽ hứa hẹn có nhiều bạo
lực hơn và cũng có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn. Sự gia tăng
quyền lực của Trung Quốc bản thân nó không nhất thiết sẽ
gây nên mối đe dọa cho sự thống trị của Mỹ trên các vùng
biển châu Á cũng như vai trò của Mỹ trong khu vực. Nhưng việc
gã khổng lồ châu Á này xoay trục ra biển có thể sẽ đặt
dấu chấm hết cho uy lực hải quân tuyệt đối của Mỹ trên
vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà hệ quả là
làm suy yếu trật tự toàn cầu do Mỹ đứng đầu.

<em>Tiến sĩ Alexander L. Vuving là Phó Giáo sư tại Trung tâm
Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa
Kỳ. Quan điểm trong bài viết này là của riêng ông và không
thể hiện quan điểm của nơi ông làm việc.</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140710/alexander-l-vuving-yeu-to-lon-nhat-thay-doi-cuc-dien-an-ninh-chau-a-thai-binh-duong),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét