Nguyễn Vũ Bình - Những thách thức trong việc xây dựng thể chế dân chủ ở Việt Nam

Đất nước Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của sự
thay đổi lớn lao nhất trong suốt chiều dài lịch sử. Tự do
cho người dân Việt Nam và Dân chủ cho toàn xã hội. Đứng
trước thời khắc lịch sử này, chúng ta, những cá nhân,
những tổ chức đã chuẩn bị những gì để đóng góp vào
công cuộc xây dựng thể chế dân chủ của đất nước? Nhìn
sang các nước láng giềng Phi-lip-pin và Thái lan, các nước đã
có nền dân chủ mấy chục năm, chúng ta không khỏi lo lắng,
ái ngại. Xa hơn về không gian, nhưng gần hơn về thời gian xây
dựng thể chế dân chủ là các nước "Mùa Xuân Ả Rập",
đặc biệt là Ai Cập, một đất nước hỗn loạn và ẩn chứa
nhiều bất ổn. Ukraine, Nga, các nước đã chuyển đổi thể
chế dân chủ từ sự sụp đổ nhanh chóng và khá bất ngờ
của các chế độ Cộng sản, cũng lại là sự bất ổn, mong
manh. Theo khảo sát tình trạng Dân chủ ở 167 quốc gia và cố
gắng định lượng <i>chỉ số dân chủ</i> do tạp chí <i>The
Economist</i> ở Anh tiến hành, chỉ có 28 quốc gia được đánh
giá là các nước có chỉ số dân chủ đầy đủ, 53 quốc gia
có thể chế dân chủ khiếm khuyết, 29 quốc gia có thế chế
chính trị hỗn hợp, 54 quốc gia là chính thể chuyên chế. Một
cách đánh giá bao quát hơn, trong số trên 150 quốc gia có đầy
đủ các định chế của một nền dân chủ như: hiến pháp dân
chủ, các đảng phái chính trị (đa nguyên, đa đảng), tam
quyền phân lập, tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập hội và
hội họp…nhưng chỉ có trên dưới 30 quốc gia được xem là
dân chủ tự do, số còn lại, hơn 120 nước được cho là chỉ
có dân chủ trong tuyển cử. Tại sao các quốc gia đều có các
định chế dân chủ như nhau, mà hơn 2/3 số nước lại không
có được tự do thực sự của người dân?!? Với một tỷ lệ
như vậy, khi Việt Nam chuyển sang chế độ dân chủ, chúng ta
sẽ chen chân vào top 30 quốc gia dân chủ tự do, hay cũng sẽ
nằm lại trong số hơn 120 quốc gia chỉ có dân chủ trong tuyển
cử? Đành rằng chuyển từ thể chế độc tài toàn trị Cộng
sản, sang một thể chế dân chủ khiếm khuyết (dân chủ tuyển
cử) đã là một bước tiến vĩ đại đối với dân tộc Việt
Nam. Người dân sẽ được tự do hơn rất nhiều, và mức sống
cao hơn hẳn so với khi sống trong chế độ cũ. Nhưng ai cấm
chúng ta, những người con dân đất Việt, tìm ra những khiếm
khuyết và thiếu sót trong các thể chế dân chủ hiện hành và
cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế
giới, để từ đó khắc phục các khiếm khuyết, thiếu sót
đó, xây dựng một nền dân chủ tự do thực sự cho đất
nước Việt Nam.

Xây dựng thể chế dân chủ để đem lại tự do, dân chủ
thực sự là một thách thức vô cùng lớn. Trước hết, đó là
thách thức đặc thù, của một nước Việt Nam, với đầy đủ
khó khăn và thuận lợi trong công cuộc xây dựng nền dân chủ
vĩ đại. Nhưng thách thức lớn hơn nhiều, đó là vượt qua
được lối mòn tai hại của cách thức xây dựng thể chế dân
chủ phổ biến hiện nay trên thế giới.

<b><i> I/ Những thách thức đặc thù Việt Nam trong quá trình
xây dựng thể chế dân chủ</i></b>

Việt Nam là một nước có thể chế chuyên chính, độc tài
toàn trị Cộng sản. Nhưng có sự khác biệt hơn so với Liên
Xô và các quốc gia Đông Âu trước khi sụp đổ, đó là Việt
Nam đã có một thời gian khá dài hội nhập với thế giới.
Nền kinh tế đã tiếp xúc, làm quen với kinh tế thị trường,
các quan hệ quốc tế đã rộng mở, nhận thức của người
dân có rất nhiều thay đổi từ tiến trình này. Tuy nhiên, về
khía cạnh chính trị, nhà cầm quyền Việt Nam đã thành công
trong việc độc quyền tồn tại một đảng Cộng sản giữ vai
trò lãnh đạo đất nước. Cũng chính vì sự độc quyền về
chính trị này, với sự can thiệp của chính trị vào tất cả
các lĩnh vực (dù cách thức can thiệp có khác trước đây),
nền kinh tế Việt Nam đã phá sản hoàn toàn, xã hội Việt Nam
bị dồn nén cùng cực và sự sụp đổ của chế độ Cộng
sản Việt Nam đã hiển hiện trước mắt. Hậu quả của việc
chỉ có một đảng chính trị (đảng Cộng sản Việt Nam) thật
là tai hại trong hoàn cảnh chế độ sụp đổ không có lực
lượng chính trị thay thế.

<i> 1/ Thách thức lớn - không có lực lượng chính trị thay
thế</i>

Chúng ta đều biết rằng, khi một chế độ sụp đổ, nếu
có lực lượng chính trị thay thế, xã hội sẽ giảm bớt
được rất nhiều sự hỗn loạn, không có khoảng trống quyền
lực, một hoàn cảnh nguy hiểm đưa tới thời cơ cho những kẻ
cơ hội chính trị. Bối cảnh về các lực lượng chính trị
tại Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, là
đảng Cộng sản, các lực lượng đối lập có một số tổ
chức ở hải ngoại nhưng chưa xây dựng được cơ sở tại
Việt Nam (về cơ bản). Khi sự sụp đổ chế độ xảy ra,
đảng Cộng sản là thủ phạm đưa đất nước vào ngõ cụt
dẫn tới sự sụp đổ chắc chắn không còn vai trò, tiếng nói
gì (với tư cách một lực lượng chính trị) trong việc xây
dựng chế độ mới. Các đảng phái hải ngoại, dù có chuyển
toàn bộ bộ máy từ nước ngoài về trong nước, cũng không
thể kịp xây dựng thành một tổ chức hoàn chỉnh để có
thể thay thế vai trò của đảng Cộng sản Việt Nam. Người
dân trong nước, trừ một số người tham gia và quan tâm tới
vấn đề đấu tranh dân chủ, phần lớn còn chưa biết tới
sự tồn tại của các tổ chức, đảng phái đó. Chính vì
vậy, cần có một thời gian để xây dựng các tổ chức chính
trị. Hệ quả của việc không có một lực lượng chính trị
thay thế, là các lực lượng chính trị, các tổ chức đảng
phái sau này được lập ra, hoặc được đưa từ nước ngoài
về (để hoàn thiện) có vai trò như nhau, không có lực lượng
nào, tổ chức nào chiếm ưu thế. Điều này đòi hỏi một quá
trình làm việc chung, vừa hợp tác vừa đấu tranh, những hoạt
động rất xa lạ với phần lớn người dân trong nước.

<i> 2/ Phần lớn người dân bất ngờ khi chế độ sụp đổ,
cả xã hội chưa có sự chuẩn bị cho việc thay đổi chế
độ.</i>

Không chỉ có những người dân thường, kể cả những
người đấu tranh dân chủ, rất nhiều người không nghĩ, và
không tin chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ sụp đổ trong tương
lai gần. Đây là điều hết sức bình thường, ngoài việc sự
kiện sụp đổ của một chế độ là vấn đề quá lớn, quá
phức tạp thì nguyên nhân khiến cho phần lớn người dân bất
ngờ và không nghĩ có sự thay đổi chế độ trong thời gian
ngắn tới đây là do:

- Hàng ngày, hàng giờ người dân tiếp xúc với hệ thống
công quyền của chế độ, vẫn thấy nó hùng vĩ và không có
gì thay đổi so với trước đây.

- Người dân bị bưng bít thông tin về những vấn nạn kinh
tế, xã hội, chính trị. Về kinh tế, số liệu không chính xác
và bị bóp méo, cũng như cách giải thích né tránh khủng hoảng
sâu sắc và toàn diện của nền kinh tế. Về xã hội, chính
trị, họ không biết được quá trình cướp đất của quan
chức, của nhà nước đã tạo ra đội ngũ dân oan hàng triệu
người trên khắp mọi miền đất nước. Sự đàn áp và dồn
nén không trừ một tôn giáo nào khiến cho hàng triệu tín đồ
phẫn nộ. Sự nhu nhược của nhà cầm quyền trước sự thôn
tính và bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và trên
khắp đất nước khiến cho bao thanh nien, trí thức căm phẫn,
uất hận…tất cả là một sự dồn nén đến cùng cực của
xã hội.

- Điều quan trọng nhất, rất nhiều người không nghĩ và
không tin có sự thay đổi chế độ trong tương lai gần là do
người ta không nhìn thấy lực lượng nào, tổ chức nào thách
thức sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Việt nam. Người ta
luôn nghĩ, muốn thay đổi một chế độ thì phải có lực
lượng thách thức, đánh đổ đảng Cộng sản và thể chế
hiện thời. Người ta không biết, không nghĩ và không tin rằng,
chế độ Cộng sản Việt Nam có thể sụp đổ chỉ giản dị
là hết tiền để nuôi, duy trì hệ thống khổng lồ, giúp cho
đảng Cộng sản độc quyền lãnh đạo đất nước. Người ta
không biết rằng, sự cạn kiệt nguồn lực của chế độ đã
đến cùng lúc với một nền kinh tế hoang tàn, niềm tin đổ
vỡ hoàn toàn, cùng sự dồn nén cùng cực của rất nhiều giai
tầng trong xã hội. Chính vì vậy mà tuy sống trong khó khăn,
cảm nhận sự bức bối, nhưng phần lớn người dân không nghĩ
rằng sẽ có sự sụp đổ của chế độ trong tương lai gần.

Đây là thách thức không nhỏ, cho quá trình xây dựng thể
chế dân chủ. Bởi vì người dân quá bất ngờ, sự hoảng
loạn sẽ diễn ra rất khốc liệt gây ra rất nhiều khó khăn
cho quá trình xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai.

<i>3/ Phần lớn người Việt nam chưa có kỹ năng làm việc
tập thể một cách tự nguyện, các tổ chức, lực lượng
chính trị chưa có kinh nghiệm hợp tác, đối thoại trong những
công việc chung.</i>


Như chúng ta biết, người dân Việt Nam có nhiều phẩm chất
tốt, cao đẹp, nhưng cũng có nhiều nét tính cách hạn chế,
khiếm khuyết. Một trong số hạn chế lớn là khả năng, kỹ
năng làm việc chung, tập thể. Có nhiều người gọi khiếm
khuyết này, ở phạm vi hẹp, là kỹ năng làm việc theo nhóm.
Ở quy mô lớn hơn, gọi là văn hóa tổ chức. Đây đúng là
hạn chế, khiếm khuyết lớn trong quá trình xây dựng thể chế
dân chủ trong tương lai. Thực ra, từ trước tới nay, người
Việt Nam chúng ta cũng vẫn làm việc trong nhiều tổ chức khác
nhau. Tuy nhiên, đó là việc làm có tính chất bắt buộc (tham
gia các đoàn thể), làm việc ở cơ quan. Nhưng những công việc
xây dựng thể chế dân chủ, tính chất tự nguyện rất rõ nét
và chiếm ưu thế, thì chúng ta yếu và thiếu trầm trọng kỹ
năng cũng như kinh nghiệm làm việc. Mặt khác, do chưa có các
tổ chức chính trị, đoàn thể tự nguyện, nên chúng ta cũng
rất hạn chế trong việc phối hợp, hợp tác và đối thoại
giữa các tổ chức, đơn vị đoàn thể với nhau cho các công
việc chung. Ở hải ngoại, chúng ta cũng có một số tổ chức,
đoàn thể nhưng kinh nghiệm qua nhiều năm cho thấy, hiệu quả
phối hợp, làm việc chung và đối thoại rất hạn chế và
khiêm tốn.

Đi sâu vào nghiên cứu lịch sử, chúng ta biết rằng, trước
đây tổ tiên của chúng ta, thậm chí đời ông của chúng ta
hiện nay, cũng không phải không có kinh nghiệm làm việc chung.
Chúng ta có "lệ làng" ở tất cả các vùng nông thôn,
được tổ chức và điều hành hoạt động rất hay và hiệu
quả. Nhưng đến thời kỳ Cộng sản, những nét tính cách, văn
hóa đó bị phá hủy vì bị đánh đồng với văn hóa phong
kiến. Đây là điều vô cùng đáng tiếc. Sau khi mở cửa, hội
nhập, những nét văn hóa và lễ hội đang dần được phục
hồi, đi kèm theo là cách thức làm việc chung, tự nguyện đang
được gây dựng trở lại.

Trên đây là khái quát những khó khăn, thách thức đặc thù
trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai. Còn
rất nhiều thách thức đặc thù Việt Nam trong việc này, như
tâm lý bầy đàn khá đậm nét của người Việt Nam, thói háo
danh, hư danh và sĩ diện cũng rất trầm trọng. Hạn chế về
những kiến thức xã hội, nhân văn và quản trị xã hội trong
môi trường giáo dục Việt nam cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ
tới tiến trình xây dựng nền dân chủ. Tuy nhiên, với tất
cả các thách thức đặc thù Việt nam, cũng chỉ chiếm 30% nỗi
lo lắng, lo ngại Việt Nam không xây dựng thành công thể chế
dân chủ hiệu quả. Số phần trăm còn lại, 70% lo lắng giành
cho việc chúng ta sẽ rơi vào "lối mòn tai hại' của việc
xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới. Mặt
khác, nếu chúng ta thoát được "lối mòn tai hại" của
việc xây dựng nền dân chủ, chúng ta sẽ dễ dàng giải quyết
các thách thức đặc thù của Việt nam.

<b><i>II/ Thách thức lớn nhất: khiếm khuyết, nhầm lẫn và
thiếu sót trong quá trình xây dựng thể chế dân chủ phổ
biến hiện nay trên thế giới. </i></b>

<i> 1/ Khảo sát sơ lược các nền dân chủ, một số vấn đề
lý luận</i>

Như phần đầu bài viết có đề cập, thế giới có trên 150
quốc gia, có thể chế dân chủ, nhưng chỉ có xấp xỉ 30 quốc
gia, có được dân chủ tự do. Cách xem xét về chỉ số dân
chủ, cũng cho kết quả tương tự, gần 30 quốc gia có chỉ số
dân chủ đạt mức dân chủ đầy đủ. Vấn đề là, tất cả
150 quốc gia ấy, <i>đều cơ bản</i> có các định chế dân
chủ, bao gồm hiến pháp dân chủ, cơ chế tam quyền phân lập,
các quyền con người tự nhiên và dân sự…mà tại sao chỉ có
chưa đến 30 quốc gia có tự do cho người dân. Điều này cũng
có nghĩa là, phần lớn các quốc gia có đầy đủ các định
chế dân chủ nhưng người dân chỉ có dân chủ trong tuyển
cử, chứ không có dân chủ tự do thực sự. <b><i>Tại sao và
vì sao???</i></b>

Đi sâu vào xem xét, trong số gần 30 quốc gia đạt được dân
chủ tự do, hay chỉ số dân chủ đạt mức dân chủ đầy
đủ, chúng ta thấy có ba trường phái để xem xét, nghiên cứu.
Đầu tiên là Nhật, Đức, hai quốc gia xây dựng thể chế dân
chủ sau khi chế độ độc tài đổ vỡ hoàn toàn, nhưng lại
có bước tiến thần kỳ nhất. Tiếp theo là những quốc gia
châu Âu, điển hình là các nước Tây-Bắc Âu. Cuối cùng là
trường hợp của Hoa Kỳ.

Trường hợp của Nhật, Đức, chúng ta không thấy có một
sự khác biệt nào về hiến pháp, về các định chế dân chủ
so với các quốc gia khác. Đồng thời, chúng ta cũng không nghe
ai nói, ca ngợi gì về nền dân chủ của hai nước này. Vậy
sự thần kỳ có được là do đâu? Trước hết, cả hai quốc
gia đều có truyền thống dân chủ trước khi các chế độ
độc tài được lập ra và bị xóa sổ. Nhưng quan trọng hơn,
người Nhật và người Đức đều có các yếu tố quý giá sau
đây trong tính cách, văn hóa dân tộc: tự trọng, kỷ luật và
tự tôn dân tộc rất cao. Điều này có nghĩa là, cùng thể
chế dân chủ như nhau (mới chỉ là điều kiện cần), họ còn
có các yếu tố văn hóa và tâm lý dân tộc giúp cho đất
nước và nền dân chủ phát triển, đạt được các kết quả
thần kỳ đó. Cũng không thể bỏ qua một yếu tố nhỏ khách
quan, là sự hỗ trợ tuyệt đối của Mỹ sau thế chiến thứ
hai cho hai quốc gia này.

Đối với các nước Tây - Bắc Âu, cũng có nét tương tự,
tuy rằng biểu hiện có khác nhau. Chúng ta cũng chỉ nghe nói,
các nước Bắc Âu, có cuộc sống và mức phúc lợi cao, chứ
cũng chưa hề nghe nói về nền dân chủ có sự khác biệt nào
về thể chế so với các quốc gia khác. Tuy nhiên, các quốc gia
Tây - Bắc Âu có truyền thống dân chủ lâu đời, lại nằm
trong vòng ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc, đạo Tin Lành, những
tôn giáo có sự khoan dung, chấp nhận các khác biệt ở mức
độ cao. Như vậy, tâm lý và văn hóa của các quốc gia châu Âu
cũng vẫn là yếu tố quan trọng để góp phần xây dựng nền
dân chủ tự do của họ.

Vậy có quốc gia nào, mà sự phát triển của đất nước
họ, tự do của người dân chỉ <i>đơn thuần</i> dựa vào
thiết chế dân chủ của họ không? Câu trả lời: Có! đó
chính là Hoa Kỳ. Tại sao? Tại vì Hoa Kỳ là quốc gia đa sắc
tộc, đa tính cách và đa văn hóa (Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ).
Họ không có một dân tộc thuần nhất (đã hình thành) trước
khi xây dựng thể chế dân chủ. Đồng thời, quá trình xây
dựng thể chế dân chủ cũng chính là quá trình dung nạp các
dân tộc, các nền văn hóa khác nhau. Chúng ta không thể nói, Hoa
Kỳ là dân tộc có tâm lý và văn hóa phù hợp với sự phát
triển được, mà chúng ta chỉ có thể nói, sự phát triển
của nền dân chủ, của đất nước Hoa Kỳ là do chính từ
thể chế dân chủ của nó. Đây là kết luận vô cùng quan
trọng và giá trị, có nghĩa là các quốc gia có thể xây dựng
thể chế dân chủ bảo đảm tự do của người dân và khả
năng phát triển đất nước không phụ thuộc vào tâm lý và
văn hóa dân tộc. Đây cũng chính là điều mà nền dân chủ Hoa
Kỳ được ca ngợi và học theo trên toàn thế giới.

Một câu hỏi quan trọng tiếp theo, vậy tại sao, các quốc gia
chuyển đổi thể chế, chế độ xã hội sau này (thậm chí
hiện nay), có đầy đủ hiến pháp, cơ chế tam quyền phân
lập, quyền tự do ứng cử và bầu cử, tự do lập hội và
hội họp, tự do ngôn luận và báo chí,… có các cơ quan đại
diện pháp luật không thiếu và không kém gì Hoa Kỳ lại không
thể phát triển được như vậy?

Phải chăng các nền dân chủ sau này chưa tìm được các
nguyên lý, yếu tố cốt lõi quyết định tự do cho người dân
và sự phát triển của nền dân chủ và đất nước Hoa Kỳ
để từ đó xây dựng thể chế dân chủ đặt trọng tâm và
xoay quanh các nguyên lý và yếu tố đó?

(câu trả lời đầy đủ và rõ ràng có trong cuốn sách Dân
Chủ - Nguyễn Vũ Bình)

Câu trả lời là đúng như vậy, tất cả các lý thuyết và
sách báo về vấn đề dân chủ không chỉ ra được, đâu là
những nguyên lý cốt lõi, đâu là yếu tố hạt nhân của nền
dân chủ Hoa Kỳ và làm thế nào để xây dựng, thực hiện,
thực thi được các nguyên lý, yếu tố đó. Khi tôi đi vào tìm
hiểu, nghiên cứu lý thuyết, nguyên lý về tự do, về dân
chủ, về việc xây dựng thể chế dân chủ, tôi đã vô cùng
sửng sốt khi phát hiện ra rằng, không có một định nghĩa
chung về dân chủ. Thật kỳ lạ! các sách báo còn chỉ ra
rằng, tính đến những năm 60 của thế kỷ XX, có trên 500
định nghĩa, khái niệm về dân chủ!!! Chúng ta biết rằng,
định nghĩa, khái niệm của một thuật ngữ chính là để chỉ
ra yếu tố cốt lõi nhất của nội hàm khái niệm đó. Vậy mà
chúng ta có, tính đến những năm 60 thế kỷ trước, trên 500
định nghĩa, có nghĩa là chưa chỉ ra được yếu tố cốt lõi,
của khái niệm, của nền dân chủ. Như vậy, việc chưa tìm ra
các yếu tố, nguyên lý cốt lõi và cách thức xây dựng, thực
hiện và thực thi các yếu tố đó trong các thể chế dân chủ
sau này chính là nguyên nhân dẫn tới các nền dân chủ chỉ
dừng lại ở mức dân chủ tuyển cử, không có được nền
dân chủ tự do mà người dân hằng mong đợi.

<i> 2/ Những yếu tố cốt lõi của thể chế dân chủ và thách
thức trong việc xây dựng thể chế dân chủ trong tương lai.</i>

a/ <u>Những yếu tố cốt lõi của thể chế dân chủ</u>

Có hai yếu tố quan trọng nhất của thể chế dân chủ Hoa
Kỳ, giúp cho thể chế này vượt qua mọi cam go, thử thách đưa
nhân dân và đất nước Hoa kỳ tới vị thế ngày nay trên thế
giới. Thứ nhất, đó là sự bình đẳng của các cá nhân, của
mọi công dân trước pháp luật. Đây chính là tiền đề của
dân chủ. Thứ hai, ý thức tự bảo vệ quyền con người của
mỗi cá nhân, khi có các cơ chế thực hiện, sẽ trở thành
khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi cá nhân
trong xã hội. Đối với xã hội Hoa Kỳ, sự bình đẳng ban
đầu của những cá nhân tham gia xây dựng thể chế dân chủ
là tự nhiên (quá trình xây dựng thể chế dân chủ Hoa Kỳ
cũng chính là quá trình hình thành và xây dựng quốc gia Hoa
Kỳ), còn đối với tất cả các quốc gia khác sau này, đó là
quá trình xây dựng tiền đề của dân chủ: Là sự chấp nhận
và thừa nhận sự khác nhau và khác biệt của mỗi cá nhân con
người, mỗi một nhóm người, tập thể đại diện cho từng
sắc tộc, tôn giáo, vùng và địa phương.

Ý thức tự bảo vệ quyền con người của người dân được
bảo đảm bới các yếu tố: 1- nhận thức của người dân về
tự do, dân chủ; 2- sự tham gia trực tiếp của người dân vào
việc xây dựng thể chế dân chủ; 3- cơ chế bảo vệ quyền
con người để người dân có thể tự bảo vệ quyền con
người của mình.

b/ <u>Thách thức lớn nhất trong việc xây xây dựng thể chế
dân chủ trong tương lai</u>

Các nước chuyển đổi thể chế chính trị, từ các hình
thức độc tài sang thể chế dân chủ phần lớn thực hiện
các bước đi và hoạt động sau: Xây dựng hiến pháp (phần
lớn thuê các chuyên gia hiến pháp nổi tiếng thế giới);
định hình các đảng phái chính trị; ấn định lịch trình
bầu cử, công bố và xin ý kiến nhân dân về hiến pháp
mới…Điều đáng lưu ý là các hoạt động này được tiến
hành trước hết và chủ yếu trên bình diện quốc gia. Các
hoạt động xây dựng thể chế dân chủ vùng và địa phương
được thực hiện sau và không phải là trọng tâm xây dựng
thể chế dân chủ của các quốc gia. Nội dung xây dựng thể
chế dân chủ của các quốc gia bao gồm: Xây dựng cơ chế tam
quyền phân lập; xây dựng các thiết chế luật pháp bảo đảm
các quyền tự do cá nhân của con người, ví dụ quyền sống,
quyền sở hữu tài sản, quyền tự do ngôn luận…; xây dựng
các thiết chế, luật pháp bảo đảm quyền công dân (quyền
tự do chính trị, dân sự), ví dụ quyền tự do ứng cử và
bầu cử, tự do hội họp và lập hội, tự do báo chí…

Thông qua cách thức và nội dung xây dựng thể chế dân chủ
hiện nay trên thế giới, chúng ta có nhận xét sau:

* Việc xây dựng thể chế dân chủ chủ yếu trên bình diện
quốc gia. Vai trò của người dân là hết sức mờ nhạt.

* Không có sự nhấn mạnh, ưu tiên nào trong tất cả các
định chế được đề cập

* Không có cơ chế để người dân tự bảo vệ quyền con
người của mình

Có thể hình dung, toàn bộ quá trình xây dựng thể chế dân
chủ trên thế giới hiện nay mới chỉ xây dựng phần "xác"
của thể chế dân chủ. Phần "hồn" của thể chế dân
chủ, chính là nhận thức của người dân về tự do, dân chủ,
về cách thức xây dựng tự do dân chủ; sự tham gia của
người dân trong xây dựng thể chế dân chủ; và cuối cùng, ý
thức và khả năng tự bảo vệ quyền con người của người
dân mới giúp cho thể chế dân chủ hoạt động hiệu quả, có
cả xác và hồn.

(xem thêm bài viết: Tại sao Ai Cập? Tại sao Dân chủ? –
Nguyễn Vũ Bình)


<center> * * *</center>

Chúng ta đang đứng trước một cơ hội lớn, xây dựng thể
chế dân chủ từ con số không, giống như một ngôi nhà cũ
được đập bỏ và xây mới hoàn toàn. Dù có rơi vào "lối
mòn tai hại" trong cách thức xây dựng thể chế dân chủ
hiện nay, thì nhân dân và đất nước cũng bước sang một trang
sử mới. Sức bật của đất nước gần 100 triệu người dân
vừa thoát khỏi chế độ độc tài là rất đáng kể. Tuy
nhiên, nếu nhận thức được những hạn chế của phần lớn
các nền dân chủ hiện nay, chúng ta có thể tránh được các
giới hạn, tạo lập một thể chế dân chủ hiệu quả, tạo ra
sự khác biệt và rút ngắn được thời gian tiến kịp các
nước phát triển hiện nay. Chúng ta sẽ có cơ hội, chúng ta
cần nhận thức và quyết tâm, để xây dựng thể chế dân
chủ cả thế giới phải ngưỡng mộ và học tập, chúng ta hãy
cùng nhau xây dựng Giấc Mộng Việt Nam./.

(Xin mời quý vị đón đọc bài cuối cùng trong loạt bài này:
<b><i>Nắm tay nhau xây dựng nền Dân chủ: Giấc Mộng Việt
Nam</i></b>)

<i> Hà Nội, ngày 14/4/2014</i>

<b><i> Nguyễn Vũ Bình</i></b>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140414/nguyen-vu-binh-nhung-thach-thuc-trong-viec-xay-dung-the-che-dan-chu-o-viet-nam),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét