Nguyễn Vũ Bình - Nền kinh tế thị trường và nền kinh tế Việt Nam

<blockquote><strong>Dân Luận:</strong> Nhà báo Nguyễn Vũ Bình từng
làm ở Tạp Chí Cộng Sản, cơ quan lý luận và chính trị của
Đảng CSVN. Năm 2000, ông viết bài cảnh báo tình hình kinh tế
và hệ thống chính trị của Việt Nam, viết đơn xin thành lập
Đảng Tự Do - Dân Chủ, và đồng thời xin nghỉ việc tại
Tạp Chí Cộng Sản. Ông bị Tạp Chí Cộng Sản buộc thôi
việc. Sau đó ông cùng 16 người khác viết thư ngỏ gửi tới
chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các
tù nhân chính trị. Ông cũng ủng hộ việc thành lập "Hội
nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng" và trở
thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ Dân chủ cho Việt
Nam.

Tháng 7 năm 2002 ông viết <a
href="http://www.rfa.org/vietnamese/binhluan/124424-20031230.html">bản
điều trần tới Ủy Ban Nhân Quyền của Quốc Hội Hoa Kỳ</a>
về tình hình vi phạm nhân quyền ở Việt Nam. Ngay lập tức
công an đã khám nhà ông ở Hà Nội, tịch thu mọi tài liệu và
sách vở. Ông bị giam lỏng nhưng tiếp tục viết bài "Vấn
đề biên giới Việt - Trung", chỉ trích chính phủ đã làm
thiệt hại hàng trăm km2 đất trong hiệp định Biên Giới. Ông
chính thức bị bắt ngày 25/9/2002 và bị tuyên án 7 năm tù giam
và 3 năm quản thúc vì tội làm gián điệp. Tới 9/6/2007 ông
mới được chính quyền Việt Nam trả tự do từ nhà tù Ba Sao,
Nam Hà.

Dưới đây là bài viết mới nhất của ông về nền kinh tế
Việt Nam.</blockquote>


Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn rất khó khăn, với
nhiều biểu hiện của một cuộc tổng khủng hoảng toàn diện,
mà mức độ trầm trọng có lẽ chưa từng có trong lịch sử.
Nhận định về nền kinh tế VN hiện nay rất khó và có nhiều
quan điểm rất khác nhau. Một mặt, do không thể có các số
liệu chính xác (theo chuẩn quốc tế và VN) nên không thể đưa
ra các đánh giá khách quan, chính xác. Nhưng măt khác, quan trọng
hơn, chưa có sự so sánh nào về cấu trúc, cơ cấu và cơ chế
của nền kinh tế VN với một nền kinh tế thị trường bình
thường, lành mạnh nên chúng ta chưa thể biết rõ mức độ
cũng như bản chất cuộc khủng hoảng hiện nay. Bài viết này
có mục đích phân tích sự khác nhau về bản chất giữa nền
kinh tế VN và nền kinh tế thị trường bình thường để từ
đó nhận diện xác đáng hơn sự vận hành của nền kinh tế VN
cũng như mức độ mà cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đang
diễn ra hiện nay. Với mục đích so sánh hai thể chế kinh tế,
nền kinh tế thị trường sẽ được trình bày theo hướng bám
sát các khác biệt với nền kinh tế VN, chứ không trình bày
hoàn toàn theo lý thuyết về kinh tế thị trường.

<h2> I/ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG</h2>

Một cách tổng quát, nền kinh tế thị trường là nền kinh
tế lấy thị trường làm cơ sở, làm điểm quy chiếu cho tất
cả các hoạt động kinh tế. Thị trường phân bổ có hiệu
quả các nguồn vốn, lao động và công nghệ. Người sản xuất
sẽ căn cứ vào nhu cầu thị trường để quyết định sản
xuất cái gì? Sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Thị
trường sẽ quyết định lợi nhuận của nhà sản xuất, của
người kinh doanh. Ngược lại với thị trường, chúng ta đã
biết tới nền kinh tế kế hoạch hóa, tất cả việc sản
xuất, phân phối, tiêu dùng được quyết định bởi trung tâm
ra kế hoạch, thường là các bộ kế hoạch của các nước XHCN
cũ.

Tuy nói thị trường quyết định tất cả các hoạt động
sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nhưng để
cho thị trường, nền kinh tế vận hành trôi chảy, thuận lợi
thì việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường rất quan
trọng và phải bảo đảm các yêu cầu nghiêm ngặt.

Chúng ta sẽ tìm hiểu nền kinh tế thị trường theo ba tiêu
chí lớn, và dựa theo ba tiêu chí này, chúng ta sẽ có sự so
sánh, phân biệt được rất rõ nền kinh tế VN với một nền
kinh tế thị trường bình thường.

<h3>1/ Nguyên lý kinh tế thị trường</h3>

Trước hết và trên hết, một nền kinh tế thị trường
muốn vận hành và hoạt động hiệu quả, cần phải tuân thủ
các nguyên lý, mà những nguyên lý này không thể bị vi phạm
và can thiệp nếu không muốn có một sự biến dạng hoàn toàn
hoạt động sản xuất kinh doanh của nên kinh tế.

- Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong các sách về
kinh tế thị trường, các tác giả thường ít đề cập tới
yếu tố này. Lý do là, sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất là điều đương nhiên trong các nước tư bản, nơi các
tác giả viết sách về kinh tế thị trường. Trong nguyên lý
này, yếu tố sở hữu tư nhân về đất đai là yếu tố quan
trọng, góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường và
còn là yếu tố xúc tác quan trọng trong các hoạt động sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường.

- Thị trường quyết định giá cả tất cả các loại hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường. Cung – Cầu sẽ quyết định
giá cả các loại hàng hóa là tiền đề quan trọng cho việc
thị trường phân bổ có hiệu quả các yếu tố của quá trình
sản xuất như vốn, lao động, công nghệ…Bất kỳ một sự
can thiệp, tác động nào dẫn tới việc giá cả hàng hóa không
được định đoạt bởi tương quan cung – cầu sẽ làm biến
dạng và méo mó toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế.

- Tương quan giữa lượng tiền tệ được phát hành và lưu
thông với lượng hàng hóa được sản xuất ra ở mỗi quốc
gia cần được tuân thủ nghiêm ngặt. Tỷ lệ giữa lượng
tiền phát hành cần tương ứng với lượng hàng hóa mà quốc
gia (nền kinh tế) sản xuất được. Nếu mối tương quan này
bị phá vỡ, ví dụ lượng tiền in ra lớn hơn tỷ lệ tương
quan với lượng hàng hóa sản xuất được sẽ dẫn tới lạm
phát, làm đảo lộn các hoạt động sản xuất kinh doanh của
nền kinh tế.

<h3> 2/ Môi trường thể chế của nền kinh tế thị
trường</h3>

Ngoài việc bảo đảm các nguyên lý của nên kinh tế thị
trường, các quốc gia cũng cần xây dựng môi trường thể chế
cho hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Xây dựng môi
trường thể chế bao gồm xây dựng các bộ luật, các quy tắc
ứng xử, cũng như môi trường xã hội xung quanh các hoạt
động kinh tế. Các yếu tố quan trọng nhất của môi trường
thể chế cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế
thị trường bao gồm:

- Tính trung thực, công khai và minh bạch của thông tin trong
nền kinh tế thị trường. Chúng ta đều biết rằng, muốn
quyết định sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có đầy
đủ các thông tin về mọi vấn đề liên quan tới các mặt
hàng, ngành hàng mà họ dự định tham gia kinh doanh. Nếu không
có đầy đủ các thông tin khách quan, trung thực, các doanh
nghiệp sẽ không dám đầu tư. Nếu cứ quyết định kinh doanh
trong khi không có đầy đủ các thông tin trung thực, sự thất
bại là không tránh khỏi.

- Tạo lập sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế,
các doanh nghiệp, cá nhân tham gia vào nền kinh tế thị trường.
Bất kể quốc gia nào, muốn nền kinh tế thị trường phát
triển và hiệu quả, đều phải tạo dựng sân chơi bình đẳng
cho tất cả các thành phần tham gia, trong toàn bộ quá trình
hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Đây cũng
chính là một trong số các chức năng của chính phủ trong nền
kinh tế thị trường.

- Xây dựng môi trường lành mạnh cho các hoạt động chung
của xã hội cũng như các hoạt động trong nền kinh tế. Đây
chính là việc xây dựng cơ chế luật pháp và giáo dục để
hạn chế và ngăn chặn tham nhũng ở các quốc gia. Tham nhũng là
yếu tố tác động rất tiêu cực vào sự phát triển và hiệu
quả của bất kỳ nền kinh tế nào.

Ngoài các yếu tố trên, việc tạo lập đồng bộ các thị
trường (thị trường vốn, thị trường lao động, thị
trường đất đai…), và một số yếu tố khác góp phần xây
dựng nên môi trường thể chế cho một nền kinh tế thị
trường lành mạnh.

<h3> 3/ Tác động chính sách</h3>

Song song với việc bảo đảm các nguyên lý của kinh tế thị
trường, xây dựng môi trường thể chế trong nền kinh tế thị
trường, các Chính phủ còn có các chính sách tác động vào
nền kinh tế nhằm làm phẳng bớt các chu kỳ kinh doanh của
nền kinh tế, cũng như thực hiện các mục tiêu cụ thể của
Chính phủ trong các nhiệm kỳ cụ thể. Ví dụ, các chính sách
tiền tệ, là việc tăng hay giảm lượng tiền lưu thông trong
nền kinh tế; chính sách tài chính, là việc tăng giảm chi tiêu
của Chính phủ, tác động tới đầu tư; ngoài ra là các chính
sách trợ giá nông sản, chính sách xuất nhập khẩu…Tuy nhiên,
các chính sách của các chính phủ dân chủ tác động tới nền
kinh tế thị trường bao giờ cũng căn cứ vào: 1- nhu cầu thực
tế của thị trường, đồng thời bảo đảm không vi phạm các
nguyên tắc, nguyên lý và quy luật của thị trường; 2- các
chính sách phải rõ ràng, minh bạch, đồng bộ và ổn định.

<h2> II/ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM</h2>

Nền kinh tế VN, bắt đầu chuyển đổi cơ chế kinh tế kế
hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường (định hướng Xã hội
CN) từ năm 1985-1986, đến nay đã được gần 30 năm. Bỏ qua
những vấn đề thuộc về tuyên truyền và lý thuyết, căn cứ
vào các yếu tố của nền kinh tế thị trường nêu trên, chúng
ta có nhận xét chung, đó là: <b><i>Nền kinh tế VN không phải
là một nền kinh tế thị trường</i></b>. Là một nước Cộng
Sản, với danh xưng XHCN, đặc điểm nổi bật của các nhà
nước toàn trị là sự can thiệp của chính trị vào tất cả
các mặt của đời sống kinh tế - xã hội của người dân.
Chúng ta phân tích sự can thiệp của chính trị vào các yếu
tố của kinh tế thị trường để thấy được hiện trạng
của nền kinh tế hiện nay là hệ quả tất yếu của việc vi
phạm nghiêm trọng các nguyên lý của kinh tế thị trường,
cũng như sự yếu kém, thất bại trong xây dựng môi trường
thể chế và sự lạm dụng, tùy tiện và trục lợi trong các
chính sách kinh tế hiện hành.

<h3> 1/ Sự vi phạm nghiêm trọng, thô bạo các nguyên lý kinh
tế thị trường</h3>

- Vi phạm nguyên lý về sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Chúng ta đều biết rằng, đất đai là sở hữu toàn
dân, không phải là tư hữu đất đai. Điều này làm biến
dạng và đảo lộn hoàn toàn tất cả các hoạt động sản
xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Bởi vì đất
đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, nó chính là nền tảng
cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Nó là
gốc rễ cho hoạt động Nông nghiệp, là cơ sở (mặt bằng,
một yếu tố quan trọng của sản xuất, kinh doanh) cho các hoạt
động kinh doanh. Đất đai không phải là sở hữu tư nhân,
không được đưa vào thành thị trường nhà đất bình
thường, không được định giá theo quan hệ cung cầu trên thị
trường mà bằng sự định giá của Nhà nước, đi ngược quy
luật thị trường dẫn tới những hậu quả vô cùng nặng nề
về kinh tế, và cả về xã hội. Vi phạm chế độ tư hữu về
đất đai là vi phạm nguyên lý quan trọng nhất của nền kinh
tế thị trường. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong
nền kinh tế VN đều bị bóp méo và biến dạng bởi yếu tố
này.

- Giá cả các mặt hàng thiết yếu không phải do thị trường
quyết định. Nói cách khác, có sự vi phạm nghiêm trọng về
nguyên lý Cung – Cầu quyết định giá cả hàng hóa. Chúng ta
đều biết rằng, các mặt hàng thiết yếu của nền kinh tế
Việt Nam như điện, nước, xăng dầu….do nhà nước quản lý,
không do cung cầu trên thị trường quyết định, thậm chí vàng
và đô-la cũng có lúc bị vi phạm quy luật cung cầu.

- Nguyên lý về mối tương quan giữa lượng tiền phát hành
và lượng hàng hóa được sản xuất ra cũng bị vi phạm nghiêm
trọng. Nhà nước VN, từ khi thành lập tới nay, đều giữ bí
mật về lượng tiền in ra, phát hành. Ngoài mấy lần đổi
tiền, làm người dân vô cùng điêu đứng, thì khi bước vào
chuyển đổi cơ chế kinh tế, chuyển sang kinh tế thị trường
cũng liên tục vi phạm nguyên lý về mối tương quan giữa
lượng tiền phát hành và năng lực của sản xuất của nền
kinh tế. Việc in tiền không căn cứ và không có giới hạn
khiến cho giá cả hàng hóa năm nào cũng tăng ít nhất từ
20-50%/năm (trong khi các nền kinh tế thị trường chỉ từ 5-7%).
Đồng tiền mất giá đã bóp méo toàn bộ quá trình sản xuất
kinh doanh cũng như giảm mức sống mà người dân đáng ra phải
được hưởng.

<h3> 2/ Thất bại trong việc xây dựng môi trường thể chế
lành mạnh, khuyến khích hoạt động sản xuất kinh doanh của
người dân.</h3>

- Không tạo dựng được sân chơi bình đẳng cho các thành
phần kinh tế, các doanh nghiệp và các cá nhân kinh doanh. Ưu
tiên quá mức cho doanh nghiệp nhà nước đã làm biến dạng
toàn bộ nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư
70% nguồn vốn toàn xã hội, nhưng chỉ tạo ra được 40% giá
trị sản phảm cho nền kinh tế. Không những thế, DNNN chính là
các núi nợ khổng lồ mà nền kinh tế đã và đang phải gánh
vác. Ví dụ điển hình là tập đoàn Vinashine nợ 86.000 tỷ
đồng không có khả năng thanh toán. Các tập đoàn kinh tế
khác, cùng một cơ chế, cùng một con người, cũng ở trong tình
trạng tương tự.

- Thông tin trong xã hội, trong nền kinh tế VN hiện nay loại
trừ hoàn toàn các thuộc tính trung thực, công khai và minh
bạch. Bản thân các bộ luật, luật đã thiếu sự minh bạch,
rõ ràng nhưng kèm theo là các quy định, văn bản hướng dẫn
thi hành luật còn làm cho mọi thông tin trở nên rắc rối và
khó hiểu hơn. Tính trung thực của thông tin trong nền kinh tế
VN là một điều xa xỉ. Sự không trung thực bắt nguồn từ
hệ thống chính trị, thẩm thấu vào hệ thống quản lý và lan
tỏa ra toàn xã hội. Điều này thì không người dân VN nào
không thấu hiểu bởi họ vừa là nạn nhân lại vừa là thủ
phạm.

- Thất bại hoàn toàn trong việc xây dựng môi trường kinh
doanh lành mạnh tại VN. Ở VN, tham nhũng xuất hiện ở tất cả
các ngành nghề, các cấp, len lỏi vào mọi ngõ ngách, khía
cạnh của đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Ở
một đất nước mà người bệnh nhân cần hối lộ bác sỹ
để tiêm không bị đau thì không còn một cái gì trên đời
không thể bị hối lộ, tham nhũng. Năm 2000, tôi đã viết
rằng: "Tham nhũng ở VN là phương thức tự tồn tại của tất
cả những người có điều kiện tham nhũng do mức lương khốn
khổ cộng với tình trạng mua quan bán tước nở rộ hiện
nay" (Việt Nam và con đường phục hưng đất nước). Sau 13
năm, chúng ta càng xót xa hơn khi đọc lại những dòng chữ này.

<h3> 3/ Tác động chính sách</h3>

Chính sách kinh tế ở VN đi ngược lại hoàn toàn các tiêu
chí trong nền kinh tế thị trường như làm phẳng bớt các chu
kỳ kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các ngành
nghề, khu vực khó khăn, đặc thù… Các chính sách kinh tế
được ban hành và thực thi tùy tiện, lạm dụng và trục lợi
gây ra muôn và khó khăn cho người dân, doanh nghiệp và thị
trường….chúng ta tìm hiểu điều này qua các ví dụ sau đây.

+ Một công ty của nhà nước, có chức năng in ấn các ấn
phẩm của Đảng, được trang bị hệ thống in ấn hiện đại
nhất, chỉ thực hiện nhiệm vụ chính trị. Nhưng công ty lại
thực hiện việc in thuê bên ngoài, với lợi thế không phải
khấu hao đầu tư máy móc (hiện đại nhất), thậm chí nguyên
vật liệu (giấy), công nhân của công ty. Họ nhận in ngoài
với giá 1000đ/trang in. Trong khi đó, các công ty khác, nhất là
tư nhân phải chịu mọi chi phí, giá in thấp nhất của họ đã
là 2100đ/trang in, họ không thể cạnh tranh được với công ty
in nói trên, sự tác động của chính trị đã làm méo mó quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành in ấn…

+ Chúng ta đã nhiều lần nghe việc Đường sản xuất trong
nước còn rất nhiều, nhưng nhà nước vẫn cho nhập khẩu
đường, không theo các lộ trình, kế hoạch hoặc chính sách
nhập khẩu có sẵn (làm tùy tiện) khiến cho doanh nghiệp sản
xuất Đường vô cùng điêu đứng. Các doanh nghiệp đầu tư
sản xuất phụ tùng ô-tô, xe máy ban đầu tin vào các nghị
quyết, kế hoạch của chính phủ, tỷ lệ nội địa hóa trong
vòng 10 năm là 60%. Nhưng chỉ sau 3-5 năm, việc nhập khẩu phụ
tùng ô-tô, xe máy đã làm họ điêu đứng.

+ Việc trục lợi chính sách được biết đến qua ví dụ mô
phỏng sau. Người làm chính sách Xuất nhập khẩu, có liên hệ
làm ăn với doanh nghiệp kinh doanh thép, trước khi cấm nhập
một loại thép (A), họ thông báo trước cho doanh nghiệp kinh
doanh thép thu gom mặt hàng thép (A) trên thị trường, từ các
doanh nghiệp khác, sau đó họ cấm nhập khẩu thép (A) trong
thời gian 6 tháng đến 1 năm. Mối lợi được chia cho người
làm chính sách chắc chắn là không nhỏ.

Qua các ví dụ trên, chúng ta có thể thấy sự lạm dụng, tùy
tiện và trục lợi về chính sách kinh tế góp phần làm điêu
đứng các doanh nghiệp, người dân. Cùng với các khiếm khuyết
và hạn chế khác, đã tiêu diệt lòng tin của người dân vào
việc nhà nước xây dựng nền kinh tế thị trường phát triển
và hiệu quả.

<center> * * *</center>

Với tất cả những khiếm khuyết của nền kinh tế VN so với
nền kinh tế thị trường bình thường, với việc vi phạm
nghiêm trọng các nguyên lý của kinh tế thị trường, thất
bại trong việc xây dựng môi trường thể chế cho nền kinh
tế, cũng như việc trục lợi chính sách, tại sao nền kinh tế
VN vẫn phát triển từ khi mở cửa nền kinh tế đến nay? Có
hai vấn đề cần hiểu rõ.

Thứ nhất, xuất phát điểm của nền kinh tế VN là nền kinh
tế kế hoạch hóa. Chúng ta hình dung nền kinh tế đó như một
người bị trói vào cột, bằng các vòng dây kín từ chân lên
đầu (chỉ hở mũi để thở). Chuyển sang nền kinh tế thị
trường, mặc dù vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý (như đã
nêu trên) thì đối với nền kinh tế kế hoạch hóa, đó cũng
vẫn là một sự "cởi trói". Các vòng dây được tháo ra,
người bị trói đã cử động được cái đầu, cái tay, cái
chân….Kết quả tăng trưởng của nên kinh tế VN mấy chục
năm qua, chính là hệ quả của việc "cởi trói" này. Tuy
nhiên, vẫn còn đó những vòng dây trói hữu hình (về pháp lý)
đối với cơ thể kinh tế, đó là sở hữu toàn dân về đất
đai, đó là việc áp đặt giá cả đối với các mặt hàng
thiết yếu, đó là việc ưu tiên quá mức cho doanh nghiệp nhà
nước…Và các vòng dây trói vô hình như: in tiền vượt quá
năng lực sản xuất của nền kinh tế dẫn tới lạm phát, tham
nhũng nặng nề trong tất cả các công việc và giao dịch làm
ăn, sự trục lợi chính sách…khi nền kinh tế phát triển
đến một mức độ nhất định, thì cơ thể kinh tế bắt gặp
các vòng dây trói hữu hình và vô hình, cộng với sự biến
dạng sẵn có, đã tạo ra những hậu quả vô cùng nặng nề và
một sự bế tắc toàn diện.

Thứ hai, mặc dù nhìn nhận có sự tiến bộ trong nền kinh
tế VN mấy chục năm qua, nhưng về cơ bản, sự phát triển
của nền kinh tế VN vừa qua chỉ là sự gia tăng đầu ra, kết
quả của sự gia tăng đầu vào. Chỉ số ICOR, chỉ số về
tăng trưởng đầu tư, tức là muốn có một đơn vị đầu ra
của nền kinh tế, thì đầu vào của nền kinh tế VN là từ 5-6
đơn vị, gấp rưỡi chỉ số của nền kinh tế Thái Lan, đã
phản ánh hiệu quả của nền kinh tế VN là rất thấp. Không
những vậy, khoản nợ của nền kinh tế VN là rất lớn, ước
tính gấp đôi GDP. Điều này cũng thể hiện sự phát triển
của nền kinh tế VN không bình thường và lành mạnh.

Ngay từ cách nay hơn chục năm, cá nhân tôi đã băn khoăn về
sự khác biệt giữa nền kinh tế VN và nền kinh tế thị
trường lành mạnh, bình thường. Khi đó, chưa có sự phân tích
và phân biệt rõ sự khác nhau này, nhưng bằng trực giác, tôi
đã thấy sự phát triển của nền kinh tế VN có nhiều yếu
tố bấp bênh của một nền kinh tế thiếu khả năng phát
triển bền vững, lành mạnh. Thậm chí, tôi chỉ đi tìm hiểu
lý do tại sao nền kinh tế VN vẫn tồn tại mà không bị đột
quỵ, bởi các quy luật thị trường (và của nền kinh tế) bị
vi phạm nghiêm trọng, cách thức quản lý và điều hành nền
kinh tế không tuân thủ bất kỳ một nguyên tắc, nguyên lý nào
của kinh tế thị trường? những băn khoăn thắc mắc của tôi
tập trung vào hai vấn đề chính: tại sao nền kinh tế VN đã
không xảy ra siêu lạm phát khi mà việc phát hành (in) tiền
của nhà nước gần như không có giới hạn? vấn đề thứ hai,
VN sẽ giải quyết ra sao đối với các khoản vay, khoản nợ?
Sau một thời gian, tôi đã khám phá ra câu trả lời cho băn
khoăn thứ nhất. Và băn khoăn thứ hai của tôi, cũng được
dự phóng giải đáp khi phân tích đầy đủ sự khác biệt
giữa nền kinh tế VN và nền kinh tế thị trường lành mạnh,
bình thường.

* Về lý do tại sao với lượng tiền in không giới hạn của
nhà nước vào lưu thông, VN không bị siêu lạm phát, mặc dù
lạm phát trung bình hàng năm lúc nào cũng ở mức cao 20-50%/năm,
lớn hơn rất nhiều so với một nền kinh tế bình thường
(5-7%). Chúng ta biết rằng, lượng tiền nội địa in ra cần
căn cứ vào lượng hàng hóa được sản xuất ra hàng năm, và
đối với việc giữ vững tỷ giá hối đoái cần căn cứ, tham
khảo số lượng ngoại tệ lưu thông trên phạm vi quốc gia.
Lượng tiền đồng VN in ra, thật kỳ lạ và may mắn, số
lượng ngoại tệ đầu tư vào VN, cộng với số kiều hối
hàng năm đã trung hòa và không làm gia tăng đáng kể tỷ giá
hối đoái của Việt Nam đồng so với đô-la. Một may mắn kỳ
lạ khác, nếu chỉ dựa vào sức sản xuất của nền kinh tế
VN hiện tại, chắc chắn đã có siêu lạm phát xảy ra, nhưng VN
ở sát cạnh Trung Quốc, hàng năm nhập khẩu số lượng hàng
hóa chất lượng thấp, giá rẻ từ 10-20 tỷ đô-la. Điều này
vô hình chung, lượng hàng hóa của Trung Quốc đã trung hòa số
lượng tiền mà VN in ra, mặc dù mức lạm phát vẫn cao
(20-50%/năm) nhưng chưa xảy ra siêu lạm phát.

* Băn khoăn thứ hai, khoản nợ của VN. Trước hết chúng ta
cần tìm hiểu, khoản nợ thực của VN ước lượng là bao
nhiêu? Theo số liệu chính thức, số nợ của VN vào khoảng 95%
GDP (GDP của VN khoảng trên 100 tỷ đô-la), xếp vào dạng số
nợ tương đối cao (trên ngưỡng an toàn 65%GDP). Tuy nhiên, thực
tế lại không phải như vậy. Chúng ta phân tích về nợ xấu
của ngân hàng hiện nay để có thể tìm hiểu thêm về cách
tính toán cũng như sự chính xác của các số liệu. Theo công
bố của các ngân hàng thương mại hiện nay, số nợ xấu của
họ chỉ vào khoảng 5-7% trên tổng dư nợ. Các số liệu của
các chuyên gia nước ngoài, khoảng trên 10% nợ xấu trên tổng
dư nợ. Thật ra, nếu đúng là ngân hàng chỉ có nợ xấu như
số liệu quốc tế công bố, họ không cần mảy may lo lắng,
vì trong nền kinh tế VN hiện nay, bất kể doanh nghiệp, ngân
hàng hay cá nhân nào nợ xấu chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng dư
nợ đã là niềm hạnh phúc mà ít người có được. Nợ xấu
của hệ thống ngân hàng VN, theo thiển ý của tôi, có lẽ
khoảng 80-90% trên tổng dư nợ. Đó mới là con số thực. Chỉ
cần nêu ra các khiếm khuyết trong cách tính nợ xấu của các
ngân hàng là hiểu ngay vấn đề. Trước hết, cách tính nợ
xấu của ngân hàng VN không giống cách tính nợ xấu của quốc
tế. Ví dụ, một doanh nghiệp nợ ngân hàng 1 tỷ đồng sẽ
trả nợ trong một năm, mỗi quý trả 250 triệu đồng. Nếu quý
I, doanh nghiệp không trả được 250 triệu đồng, thì các ngân
hàng quốc tế sẽ tính số nợ xấu là 1 tỷ đồng (với lập
luận 250 triệu đồng không trả được thì trả sao được 1
tỷ đồng), còn ngân hàng VN chỉ tính nợ xấu là 250 triệu
đồng. Như vậy đã có sự chênh lệch rất lớn trong cách tính
nợ xấu. Một vấn đề khác, các ngân hàng VN hiện nay, ngân
hàng nào cũng có một lượng trái phiếu chính phủ lớn trong
quyết toán của mình, những trái phiếu này, nếu đem tính với
nhà nước thì có giá trị, nhưng nếu trong tình hình nền kinh
tế bất ổn thì số trái phiếu này hoàn toàn không có giá
trị. Chúng ta đã biết rằng, lượng tiền in ra của nhà nước
đã rất lớn, vượt quá khả năng sản xuất của nền kinh
tế, giá trị đồng tiền rất bấp bênh, vậy thì trái phiếu
của chính phủ còn giá trị gì khi nền kinh tế có đột biến.
Chính vì vậy, nếu tính cả số trái phiếu này (hầu như không
có giá trị) thì số nợ xấu thực của hệ thống ngân hàng
phải lên tới 80-90% tổng dư nợ.

Như vậy, chúng ta đã tìm hiểu cách tính nợ xấu của ngân
hàng ở VN hiện nay. Việc tính tổng số nợ của nền kinh tế
VN còn khó khăn và phức tạp hơn gấp bội. Cá nhân tôi nghiêng
về ý kiến cho rằng nợ xấu của VN hiện nay gấp đôi GDP, và
tôi cho rằng đó là con số vừa phải nhất, sát thực tế
nhất.

Nhưng vấn đề đặt ra không phải nợ xấu là bao nhiêu, mà
khả năng trả nợ của nền kinh tế mới là vấn đề đáng
quan tâm nhất hiện nay (các nước như Mỹ, Nhật số nợ gấp
rưỡi hoặc gấp đôi GDP là bình thường, bởi họ có nền kinh
tế lành mạnh, đủ khả năng trả nợ). Và đi sâu vào phân
tích nền kinh tế VN hiện nay, có sự khác biệt về bản chất
với nền kinh tế thị trường bình thường, lành mạnh, chúng
ta đều biết rõ, khả năng trả nợ của nền kinh tế là con
số không tròn trĩnh. Chúng ta đều biết rằng, việc vi phạm
nghiêm trọng các nguyên lý cơ bản của nền kinh tế thị
trường sẽ dẫn tới méo mó, biến dạng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Không những vậy, việc không tạo lập đồng
bộ các thị trường, ưu tiên quá mức cho doanh nghiệp nhà
nước (thua lỗ triền miên) khiến cho hiệu quả của nền kinh
tế rất thấp, các doanh nghiệp tư nhân không được đối xử
bình đẳng, chật vật duy trì sự tồn tại của mình. Cơn
hồng thủy tồn đọng bất động sản vừa quét qua đã làm
gãy đổ những hy vọng cuối cùng của việc cố gắng khôi
phục, duy trì nền kinh tế luôn đi ngược lại các quy luật
thị trường.

* Qua những phân tích về sự khác biệt giữa nền kinh tế VN
và nền kinh tế thị trường nêu trên, kết hợp với sự quan
sát và nghiên cứu thực tiễn phát triển kinh tế ở VN, bất
kể một người nào, có chút kiến thức về kinh tế đều đi
tới kết luận: <b><i>không thể có một giải pháp đơn lẻ nào
về kinh tế có thể giải quyết được các khủng hoảng về
cấu trúc, cơ chế và thực tiễn của nền kinh tế VN.
</i></b>Để giải quyết tất cả các hậu quả, hệ quả của
nền kinh tế (nợ xấu ngân hàng, nợ công…), để khôi phục
một nền sản xuất hiệu quả, hay ngắn gọn hơn, để đưa
nền kinh tế VN vào đúng đường ray của một nền kinh tế
thị trường, cần có một giải pháp tổng thể. Đó là loại
bỏ tất cả các yếu tố chính trị trong một nền kinh tế,
trả kinh tế về cho các quy luật của thị trường. Cơ thể
kinh tế của VN hiện nay không còn mặc vừa chiếc áo độc
quyền chính trị nữa, nó chỉ có hai lựa chọn: hoặc đột
tử, hoặc thay bộ quần áo đa nguyên, tức loại bỏ hoàn toàn
các yếu tố chính trị ra khỏi đời sống kinh tế thị
trường./.

<i>Hà Nội, ngày 09/02/2014</i>
<b><i>Nguyễn Vũ Bình</i></b>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140210/nguyen-vu-binh-nen-kinh-te-thi-truong-va-nen-kinh-te-viet-nam),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét